Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

37 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – NHẬT BẢN (1973 – 2010)_2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.77 KB, 10 trang )

37 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – NHẬT
BẢN (1973 – 2010)

Tuy nhiên, hiện nay không ít nhà đầu tư nước ngoài, kể cả của Nhật Bản
vẫn còn băn khoăn là liệu môi trường đầu tư của Việt Nam có ổn định
lâu dài và nhất là một số hạn chế, bất cập lâu nay tồn đọng có nhanh
chóng được tháo gỡ như: kết cấu hạ tầng của nhiều địa phương, địa
bàn đầu tư quá yếu kém, thủ tục hành chính còn cồng kềnh, phiền hà,
trong khi đó giá cả thuê đất, văn phòng, nhà xưởng, một số dịch vụ kèm
theo cần thiết khác lại quá đắt so với tương quan chung khu vực
Những băn khoăn này đã được nhiều doanh nhân Nhật Bản trao đổi và
đề nghị tại một số cuộc hội thảo về đầu tư vào Việt Nam đã được tổ
chức tại Tô-ky-ô ngày 20-2-2006; tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam
(Hà Nội, 6-6-2006); tại Hội khảo kinh tế Việt Nam - Nhật Bản và Lễ ra
mắt Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam - Nhật Bản (Hà Nội, 21-8-2006);
tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ (Hà Nội, 2-6-2008).
Trên thực tế, để tiếp tục tháo gỡ những trở ngại đó, hiện nay cả hai
phía Việt Nam và Nhật Bản đều đang tích cực triển khai giai đoạn 3 của
Chương trình hành động "Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản" về cải
thiện môi trường đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt
Nam.
Hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản
Nhật Bản là nước đã tích cực hỗ trợ phát triển tài chính để góp phần
khai thông mối quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế
chủ chốt vào cuối năm 1992. Từ đó đến nay, mặc dù nền kinh tế Nhật
Bản còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ Nhật Bản luôn là nhà tài
trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, chiếm 40% tổng nguồn ODA của các
nước và các tổ chức quốc tế cung cấp cho Việt Nam. Tính đến cuối năm
2005, tổng số ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đã xấp xỉ 10,5 tỉ
USD, trong đó trên 10% là viện trợ không hoàn lại, phần còn lại là các
khoản tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp và thời gian tài trợ dài. Tại Hội


nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) những năm qua,
Nhật Bản đều tiếp tục khẳng định vị trí là nhà tài trợ đứng đầu ở Việt
Nam. Vì thế, ODA của Nhật Bản trong năm 2006 cho nước ta đã đạt
mức cao, trị giá 835,6 triệu USD. Năm 2007, ODA của Nhật Bản dành
cho Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng, đạt 1,1 tỉ USD/năm trong khi ODA
của Nhật Bản dành cho quốc tế nói chung đã giảm. Năm 2008, mặc dù
trong bối cảnh khó khăn suy thoái chung của kinh tế thế giới và khu
vực, trong đó Nhật Bản còn đang gặp nhiều khó khăn, thách thức cả về
chính trị, kinh tế và xã hội, song Chính phủ Nhật Bản vẫn cam kết tiếp
tục ưu tiên vốn ODA dành cho Việt Nam là 94.353 triệu yên (khoảng
994 triệu USD). Năm 2009, ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đã
đạt 155 tỷ yên, cao nhất từ trước đến nay. Khoản vốn vay này sẽ được
đầu tư cho 6 dự án lớn: Xây dựng đường tàu điện ở Thủ đô Hà Nội;
Đường vành đai 3 Hà Nội; Đường tàu cao tốc từ Thành phố Hồ Chí Minh
đến Dầu Giây; Cải thiện môi trường nước Thành phố Hồ Chí Minh, Cải
thiện môi trường nước ở thành phố Huế; và Dự án xây dựng mạng lưới
truyền tải điện.
Thông qua các nguồn ODA, Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dựng nhiều
công trình hạ tầng kinh tế - xã hội như: khôi phục Bệnh viện Chợ Rẫy
(Thành phố Hồ Chí Minh), xây dựng Cảng cá Cát Lở (Vũng Tàu), nâng
cấp Bệnh viện Bạch Mai, xây dựng hệ thống cấp nước ở Gia Lâm (Hà
Nội) và Hải Dương, xây dựng các cầu nhỏ ở nông thôn, và hơn 200
trường tiểu học ở vùng bão, nâng cấp và xây dựng nhiều công trình
như: quốc lộ 5, quốc lộ 18, quốc lộ 10, các cầu trên quốc lộ 1, Nhà máy
nhiệt điện Phả Lại 2, Phú Mỹ 1, Nhà máy thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi,
đại lộ Đông - Tây (Thành phố Hồ Chí Minh), cầu Bãi Cháy (Quảng Ninh),
cầu Thuận Kiều (Hải Phòng), cầu Thanh Trì (Hà Nội), đường hầm xuyên
đèo Hải Vân v.v Đáng lưu ý, cầu Bãi Cháy hiện đang là cầu lớn và hiện
đại nhất không chỉ ở Việt Nam mà cả ở Đông - Nam Á, và là một trong 5
cầu hiện đại nhất thế giới.

Hiện nay, Nhật đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng các dự án: Dự án Sân bay
quốc tế Long Thành, Dự án đường cao tốc đoạn Ninh Bình - Bãi Vọt,
đường cao tốc Nha Trang-Phan Thiết, và các dự án tuyến đường tàu
điện ngầm mới của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.như đường cao tốc Bắc-
Nam, Khu công nghệ cao Hòa Lạc, nghiên cứu khả thi hai đoạn đường
sắt cao tốc: Hồ Chí Minh - Nha Trang và Hà Nội – Vinh, Dự án đường
cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi, hỗ trợ Dự án Sân bay quốc tế Long Thành,
Dự án đường cao tốc đoạn Ninh Bình - Bãi Vọt, đường cao tốc Nha
Trang-Phan Thiết, và các dự án tuyến đường tàu điện ngầm mới của Hà
Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Về việc phát triển nguồn nhân lực, công tác giáo dục - đào tạo và thúc
đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa của Việt Nam đã được Chính phủ
Nhật Bản hỗ trợ tích cực. Hằng năm, thông qua nguồn ODA từ nhiều
quỹ tài chính khác nhau, Nhật Bản đã cung cấp một số lượng đáng kể
học bổng để đào tạo đại học và sau đại học cho các sinh viên và cán bộ
khoa học - kỹ thuật của Việt Nam. Một số lượng lớn chuyên gia và tình
nguyện viên Nhật Bản hiện đang hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo.
Thông qua ODA, Nhật Bản còn hỗ trợ Việt Nam với nhiều sáng kiến hợp
tác trong khuôn khổ ASEAN, ASEM, tiểu vùng Mê Công mở rộng
Về năng lượng, phát triển tài nguyên thiên nhiên và biến đổi khí hậu
Từ các quan điểm an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường toàn cầu,
hai bên công nhận tầm quan trọng của hợp tác trong lĩnh vực sử dụng
năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình. Hai bên sẽ tăng cường hợp
tác song phương trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân và đưa quan hệ
hợp tác này lên một tầm cao mới bao gồm cả phát triển cơ sở hạ tầng
cần thiết cho việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình
với nhận thức về sự cần thiết bảo đảm không phổ biến hạt nhân, bảo
đảm an toàn và an ninh hạt nhân phù hợp với những qui định của các
Điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam và Nhật Bản là thành viên. Hai

bên hoan nghênh việc kết thúc thành công cuộc đàm phán trên nguyên
tắc về nội dung của Hiệp định Việt Nam - Nhật Bản sử dụng năng lượng
hạt nhân vào mục đích hòa bình.
Chính phủ Việt Nam đã quyết định chọn Nhật Bản là đối tác hợp tác xây
dựng 2 lò phản ứng hạt nhân tại địa điểm nhà máy điện hạt nhân thứ 2
thuộc tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam, sự hợp tác của Nhật Bản trong lĩnh
vực tài nguyên khoáng sản, than, dầu và khí tự nhiên, dự trữ dầu, điện,
bảo tồn và tiết kiệm năng lượng, phát triển năng lượng sạch và ICT. Hai
bên khẳng định hai nước sẽ thúc đẩy hợp tác để phát triển ngành công
nghiệp đất hiếm ở Việt Nam, dưới hình thức phối hợp khảo sát địa
chất, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ thân thiện với
môi trường nhằm phát triển nguồn tài nguyên bền vững và chương
trình nghiên cứu và phát triển chung trên cơ sở giữa hai Chính phủ.
Sự hợp tác hiện nay giữa hai nước trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, như
hợp tác liên quan tới rừng, xây dựng các công trình hạ tầng ứng phó với
nước biển dâng…sử dụng công nghệ tiên tiến liên quan tới bảo tồn
năng lượng, phát triển năng lượng sạch và bảo vệ môi trường trong lĩnh
vực công nghiệp và các lĩnh vực khác là điều quan trọng chủ yếu trong
việc tạo ra tính tương hợp giữa môi trường và nền kinh tế cũng như
trong việc giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu đồng thời đạt được sự
tăng trưởng bền vững. Hai bên nhất trí giao các Bộ ngành liên quan của
hai nước trao đổi ý kiến để thực hiện các mục tiêu trên, bao gồm khả
năng thành lập một cơ chế tín dụng bù trừ song phương.
Về hợp tác khoa học và kỹ thuật
Hai bên nhắc lại và hoan nghênh kết quả đạt được của cuộc họp Ủy ban
Hỗn hợp Việt Nam - Nhật Bản về Khoa học và Kỹ thuật được tổ chức tại
Hà Nội ngày 19 tháng 6 năm 2009.
Phía Việt Nam hoan nghênh các nỗ lực của Nhật Bản nhằm thúc đẩy
hợp tác song phương về vũ trụ.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Nhật Bản xem xét khả năng thiết

lập một trường Đại học chất lượng cao tại Việt Nam, và bày tỏ tin tưởng
rằng đây sẽ là nội dung hợp tác thiết thực và có ý nghĩa đặc biệt đối với
quan hệ Việt Nam - Nhật Bản về lâu dài. Phía Nhật Bản bày tỏ ý định sẽ
xem xét đề nghị trên của phía Việt Nam.
Về hợp tác khu vực và quốc tế
Hai bên hài lòng nhận thấy quan hệ và hợp tác giữa Nhật Bản và các
nước khu vực sông Mê Công trong mấy năm qua đã đạt được tiến triển
đáng kể trong nhiều lĩnh vực như chính trị và kinh tế, đóng góp thiết
thực cho hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực.
Hai bên hoan nghênh kết quả Hội nghị Cấp cao Mê Công-Nhật Bản lần
thứ hai tổ chức vào ngày 29 tháng 10 năm 2010, ghi nhận kết quả đáng
kể trong việc triển khai “Kế hoạch Hành động 63 Mê Công-Nhật Bản” và
những sáng kiến khác do các nước khu vực sông Mê Công đề xuất. Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao Sáng kiến “Một Thập kỷ hướng
tới Mê Công xanh” và “Chương trình Hành động Sáng kiến Hợp tác Kinh
tế Công nghiệp Mê Công-Nhật Bản”, bày tỏ hy vọng những sáng kiến
này sẽ được thực hiện có hiệu quả.
Hai bên chia sẻ nhận thức về tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác
giải quyết các thách thức khu vực và quốc tế. Thủ tướng Na-ô-tô Can ca
ngợi vai trò xây dựng của Việt Nam với tư cách Chủ tịch ASEAN 2010.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao vai trò của Nhật Bản với tư
cách Chủ tịch APEC 2010 và khẳng định rằng Việt Nam sẽ hợp tác chặt
chẽ với Nhật Bản để đảm bảo thành công của Hội nghị các Nhà lãnh đạo
Kinh tế APEC lần thứ 18 vào tháng 11 năm 2010.
Hai bên nhấn mạnh lại tầm quan trọng của việc hợp tác chặt chẽ nhằm
thúc đẩy hơn nữa những khuôn khổ khu vực hiện có như ASEAN-Nhật,
ASEAN+3 và Hội nghị Cấp cao Đông Á; tái khẳng định quyết tâm thúc
đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực cùng quan tâm; khuyến khích các nỗ lực
hội nhập khu vực tại Đông Á, trong đó bao gồm các nghiên cứu về Quan
hệ Đối tác Kinh tế Toàn diện ở Đông Á (CEPEA) và sự đóng góp hiệu quả

của Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN - Đông Á (ERIA).
Hai bên khẳng định quyết tâm thúc đẩy hợp tác nhằm sớm cải tổ Hội
đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, trong đó bao gồm việc mở rộng thành viên
thường trực và không thường trực, để tăng tính đại diện, tính chính
đáng, hiệu quả và khả năng đáp ứng thực tế của tổ chức này đối với
cộng đồng quốc tế trong thế kỉ 21. Phía Việt Nam khẳng định lại việc
Việt Nam ủng hộ Nhật Bản trở thành Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc.
Hai bên khẳng định lại sự ủng hộ đối với việc phi hạt nhân hóa hoàn
toàn và có thể kiểm chứng trên Bán đảo Triều Tiên, phù hợp với Tuyên
bố chung tháng 9 năm 2005 của đàm phán 6 bên và các Nghị quyết liên
quan của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hai bên nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc giải quyết các mối quan tâm của cộng đồng quốc tế
về vấn đề nhân đạo.
Hai bên bày tỏ sự hài lòng đối với kết quả chuyến thăm chính thức Việt
Nam lần đầu tiên của Thủ tướng Na-ô-tô Can và cho rằng chuyến thăm
đã mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều
mặt giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Triển vọng phát triển
Tuy còn có những hạn chế, bất cập trong từng lĩnh vực hợp tác cụ thể,
song nhìn lại toàn bộ chặng đường phát triển quan hệ Việt Nam - Nhật
Bản 35 năm qua, sự tiến triển này ngày càng khả quan hơn.
Hướng tới kỷ niệm trọng thể 35 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao,
nhiều hoạt động kỷ niệm phong phú như trao đổi đoàn các cấp, các
hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa, thương mại, đầu tư, du lịch giữa
hai nước đã được tổ chức tại Việt Nam và Nhật Bản. Đặc biệt mới đây,
Đại nhạc hội Việt Nam - Nhật Bản với tên gọi "Giấc mơ về một nền hòa
bình" đã diễn ra thành công tốt đẹp tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh trong hai đêm 24 và 26-5-2008. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
quan hệ song phương, có một chương trình âm nhạc lớn được dàn

dựng trọng thể và rất công phu tại Việt Nam với sự tham dự của nhiều
ca sĩ Nhật Bản nổi tiếng; và cũng là lần đầu tiên nhiều ca sĩ tên tuổi của
Việt Nam đã được giới thiệu tới công chúng Nhật Bản qua các kênh
truyền hình trung ương của cả hai nước, được đông đảo công chúng
hoan nghênh
Vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay và triển vọng cho cả hai nước là làm
thế nào tiếp tục nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của quan hệ hợp tác
phát triển toàn diện về nhiều lĩnh vực sao cho phù hợp với tiềm năng,
lợi thế và nhu cầu phát triển thực tiễn của cả hai nước trong bối cảnh
toàn cầu hóa, khu vực hóa; vừa hợp tác vừa cạnh tranh đang diễn ra
mạnh mẽ, sôi động. Đó là nhiệm vụ đặt ra cho không chỉ của các vị lãnh
đạo cấp cao, các nhà quản lý, các cơ quan chức năng liên quan, mà còn
của các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách và giải pháp hợp tác
phát triển giữa hai nước. Thiết nghĩ, nước ta cần chủ động xây dựng
một chiến lược hợp tác phát triển toàn diện dài hạn với Nhật Bản từ
nay đến năm 2020, trước hết là phối hợp cùng với phía Nhật Bản thúc
đẩy nhanh việc sớm ký kết VJEPA, và coi Nhật Bản là một trong số
không nhiều những đối tác quan trọng hàng đầu mà hiện nay chúng ta
đang có quan hệ hợp tác phát triển.

×