Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Quan hệ Việt Nam - APEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.22 KB, 4 trang )

Một vài nét về APEC
APEC ra đời vào tháng 11/1989 với 12 thành viên sáng lập: Australia, Nhật Bản, Malaysia,
Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei, Indonesia, New Zealand, Canada,
Mỹ.
Năm 1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan; năm 1993 có thêm
Mexico, Papua New Ghine, năm 1994 có thêm Chile; năm 1998 có thêm Việt Nam, Liên
bang Nga và Peru.
So với toàn thế giới, APEC có vị trí quan trọng, diện tích chiếm 46%, dân số chiếm 41,2%,
mật độ dân số bằng 89,8%, GDP chiếm 57,7%, GDP bình quân đầu người bằng 140,1%,
xuất khẩu chiếm 50,1%, xuất khẩu bình quân đầu người bằng 121,7%.
Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP đạt 19,1%, tuy thấp hơn tỷ lệ 22% của thế giới, nhưng lại có
những thành viên đạt rất cao, như: Singapore 196,5%; Hồng Kông; 163,3%; Malaysia
121,2%; Brunei 74,5%; Thái Lan; 67,7%; Việt Nam 59,6%; Đài Loan 53%...
Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới có GDP lớn hơn 500 tỷ USD (Mỹ, Nhật Bản,
Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc, Italia, Canada, Tây Ban Nha, Mexico, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Australia, Hà Lan), thì có 7 là thành viên của APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất thế
giới là Mỹ, Nhật Bản. Đặc biệt, gần đây Trung Quốc với tốc độ kinh tế liên tục tăng cao và
tăng trong thời gian dài kỷ lục…
APEC và Việt Nam
APEC hiện là khu vực đầu tư trực tiếp lớn nhất vào Việt Nam, với 65,6% tổng số vốn đầu
tư. Trong 14 nước và lãnh thổ đầu tư lớn nhất (trên 1 tỷ USD) vào Việt Nam thì APEC đã
có 10, trong đó 5 nước và vùng lãnh thổ đứng đầu.
Chỉ 10 nước và vùng lãnh thổ trên đã có 39,5 tỷ USD, chiếm 95,6% tổng số vốn đầu tư
trực tiếp của APEC và chiếm 62,7% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của tất cả các nước vào
Việt Nam.
APEC cũng là khu vực có lượng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt
Nam, trong đó Nhật Bản là nước có số vốn lớn nhất trong tất cả các nước và các tổ chức
trên thế giới. Hạ tầng cơ sở của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể một phần quan trọng
là nhờ vào nguồn vốn này.
Xuất khẩu của Việt Nam vào các nước thành viên APEC cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các khu vực trên thế giới. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì xuất


khẩu vào các thành viên APEC đã chiếm trên 58%, năm 2003, chiếm tới 72,8%.
Trong các nhóm hàng Việt Nam xuất khẩu vào APEC thì hàng thô hay mới sơ chế chiếm
khoảng 52,7% (trong đó dầu thô chiếm 26,8%, lương thực, thực phẩm và động vật sống
chiếm 21,5%); hàng đã chế biến hay tinh chế chiếm khoảng 46,5%.
Hàng nhập khẩu của Việt Nam từ APEC chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các khu vực: năm
1995 là 6.493,6 triệu USD, chiếm 79,6%; năm 2000 là 12.998 triệu USD, chiếm 83,1%;
năm 2001 là 13.185,9 triệu USD, chiếm 81,3%; năm 2002 là 15.792,7 triệu USD, chiếm
80%; năm 2003 là 20.057,1 triệu USD, chiếm 79,4%; năm 2004 ước 25,3 tỷ USD, chiếm
79,2%.
Trong những mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu từ APEC thì hàng thô hay mới sơ chế
chiếm khoảng 20,9%, hàng đã qua chế biến hay tinh chế chiếm 78,9%, trong đó máy móc,
phương tiện vận tải và phụ tùng chiếm 31%, hàng chế biến chủ yếu chiếm 27,1%, hoá
chất và sản phẩm liên quan chiếm 13,7%, hàng chế biến khác chiếm 7%...
Chín nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam nhập khẩu trên 1 tỷ USD đều là thành viên
APEC, đó là: Trung Quốc: 4.456,5 triệu USD; Đài Loan 3.698,0 triệu USD; Singapore:
3.618,5 triệu USD; Nhật Bản: 3.552,6 triệu USD; Hàn Quốc: 3.328,4 triệu USD; Thái Lan:
1.858,1 triệu USD; Malaysia: 1.214,7 triệu USD; Mỹ 1.127,4: triệu USD; Hồng Kông:
1.074,7 triệu USD. Chỉ 9 thị trường này đã xuất khẩu sang Việt Nam 23.928,9 triệu USD,
chiếm 90,3% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
Trong 2.927,9 nghìn lượt khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2004 thì APEC đã có
trên 2,2 triệu lượt khách, chiếm 75,7%. Trong 14 nước và vùng lãnh thổ có số khách đông
(trên 50 nghìn lượt người) của thế giới thì APEC đã có 10, đó là: Trung Quốc: 778,4 nghìn;
Mỹ: 272,5 nghìn; Nhật Bản: 267,2 nghìn; Đài Loan: 256,9 nghìn; Hàn Quốc: 233,0 nghìn;
Australia: 128,7 nghìn; Malaysia: 55,7 nghìn; Canada: 53,8 nghìn; Thái Lan: 53,7 nghìn;
Singapore: 50,9 nghìn.
Sau 7 năm gia nhập, quan hệ giữa Việt Nam và APEC đã có bước phát triển tương đối
lớn. Với sự phát triển năng động và có quy mô lớn, APEC sẽ là khu vực mà Việt Nam cần
nâng tầm quan hệ lên mức cao hơn nữa. Việc đăng cai APEC sẽ là thời cơ để Việt Nam
thực hiện điều này.
Để chuẩn bị tổ chức toàn bộ các hoạt động của APEC 2006, Chính phủ Việt Nam đã có

Quyết định thành lập Uỷ ban quốc gia về APEC, do Phó Thủ tướng Vũ Khoan làm Chủ
tịch và các thành viên là lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan. Hàng loạt các hoạt động chuẩn
bị cũng đang được khẩn trương tiến hành…
- Việt Nam sẽ tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC (APEC FMM) lần thứ 13
với vai trò Chủ tịch. Hội nghị này nằm trong khuôn khổ Hội nghị APEC 2006. Bà Lê
Thị Băng Tâm, Thứ trưởng Bộ Tài chính, Trưởng ban chỉ đạo APEC FMM cho biết, Bộ
Tài chính đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo tổ chức Hội nghị gồm 5 tiểu ban: Nội dung,
Lễ tân hậu cần, Thông tin tuyên truyền, An ninh và Tổng hợp.
Nội dung hợp tác tài chính APEC tập trung vào việc tăng cường trao đổi chính sách tài
chính, tăng cường vai trò của khu vực tư nhân và các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác
hỗ trợ nâng cao năng lực... Bên cạnh đó, APEC FMM còn có sự hợp tác chặt chẽ với các
tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB và các tổ chức của khu vực kinh tế tư nhân
như Hội đồng tư vấn doanh nghiệp – ABAC, Hội đồng hợp tác kinh tế Thái Bình Dương –
PECC.
- Gần đây Việt Nam đã quyết định tham gia chương trình thẻ du lịch doanh nhân APEC
(ABTC) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nhân các nền kinh tế thành viên của
APEC vào kinh doanh tại Việt Nam. Từ năm 2006, khách du lịch là doanh nhân APEC có
thẻ ABTC sẽ được làm thủ tục tại quầy nhập cảnh nhanh vào Việt Nam tại các sân bay và
lưu trú tại Việt Nam ít nhất 60 ngày mà không cần xin thị thực. Đây cũng là bước tiến tích
cực khi Việt Nam đang chuẩn bị đăng cai hội nghị cấp cao APEC năm 2006.
- Ngành Du lịch Hà Nội đang khẩn trương phát triển mạng lưới cơ sở lưu trú theo hướng
tăng cường đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, duy tu bảo dưỡng chỉnh trang các khách
sạn, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình khách sạn đang xây, xây dựng mới khách
sạn từ 3 sao trở lên, kịp phục vụ Hội nghị APEC 2006.
(Tin từ TBKT các ngày 2,3,5/9 và www.vneconomy.com.vn )
Nhìn lại quan hệ kinh tế Việt Nam-APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) ra đời vào tháng 11/1989 với 12
thành viên: Australia, Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, ThaiLand, Philippines, Singapore, Brunei,
Indonesia, New Zealand, Canada, Mỹ.
- Năm 1991 kết nạp thêm 3 thành viên: Trung Quốc, Hong Kong, Đài Loan.

- Năm 1993 kết nạp thêm 2 thành viên: Mexico, Papua New Guinee.
- Năm 1994 kết nạp thêm Chile.
- Năm 1998 có thêm 3 thành viên: Việt Nam, LB Nga, Pêru.
Đến nay, APEC có 21 nước và vùng lãnh thổ là thành viên.
APEC có diện tích 62.620,1 nghìn km2;
Dân số năm 2005 đạt 2.647,6 triệu người, mật độ dân số 42,3 người/km2;
GDP đạt 23.008 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 8.739 USD;
Kim ngạch xuất khẩu đạt 4.038,5 tỷ USD, bình quân đầu người đạt 1.533,9 USD;
Kim ngạch nhập khẩu đạt 4.446,4 tỷ USD;
Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tính đến đến hết năm 2004 đạt 3.641,8 tỷ USD;
Tổng dự trữ quốc tế (không kể vàng) đạt 2.347,3 tỷ USD...
Việt Nam nộp đơn gia nhập tháng 6/1996 và kết nạp năm 1998. Tám năm qua, quan hệ giữa
APEC và Việt Nam đã có bước phát triển khá ấn tượng về các lĩnh vực đầu tư, thương mại, du
lịch…
Đầu tư trực tiếp (FDI) của các thành viên APEC vào Việt Nam tính từ năm 1988 đến hết tháng
9/2006 có 6.527 dự án, với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung lên đến 49391,5 triệu USD, chiếm
83,1% về tổng số dự án và chiếm 69,2% về tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
trong thời gian tương ứng. Trong 14 nước và vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt Nam (trên 1
tỷ USD) thì APEC đã có 10 "đại gia”. Chỉ với 10 nước và vùng lãnh thổ trên, lượng vốn đầu tư
đăng ký đạt 47273,3 triệu USD, chiếm 95,7% APEC và chiếm 66,2% tổng số vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
APEC cũng là Diễn đàn có lượng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam so
với các khu vực khác; trong đó Nhật Bản là nước có số vốn cam kết và giải ngân lớn nhất trong tất
cả các nước và các tổ chức trên thế giới. Nguồn vốn này đã góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ
tầng kinh tế- xã hội và cân đối ngân sách của Việt Nam.
Xuất khẩu của Việt Nam vào các nước và vùng lãnh thổ thuộc APEC cũng khá lớn: Năm 2005 đã
chiếm 71,6% tổng kim ngạch xuất khẩu sang tất cả các nước trên thế giới. Trong 7 nước nhập
khẩu lớn nhất (trên 1 tỷ USD) của Việt Nam, thì APEC đã có 5 và đây cũng là 5 "đại gia” đứng
hàng từ thứ nhất đến thứ năm: Mỹ: 5.930,5 triệu USD; Nhật bản: 4.411,2 triệu USD; Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa: 2.961 triệu USD; Australia: 2.570,2 triệu USD; Singapore: 1808,5 triệu USD.

Chỉ với 5 nước này đã đạt 17.681 triệu USD, chiếm 76,1% APEC và chiếm 54,5% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam.
Nhập khẩu của Việt Nam từ APEC cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất so với tổng số: năm 1995 đạt 6,5
tỷ USD, chiếm 79,6%; năm 2000 đạt 13 tỷ USD, chiếm 81,3%; năm 2002 đạt 15,8 tỷ USD, chiếm
80%; năm 2003 đạt 20,1 tỷ USD, chiếm 79,4%; năm 2004 đạt 25,7 tỷ USD chiếm 83,8%; năm
2005 đạt 29,9 tỷ USD, chiếm 80,7%.
Trong các mặt hàng mà Việt Nam nhập từ khu vực này thì hàng thô, sơ chế chiếm khoảng 20,9%,
hàng đã qua chế biến chiếm 78,9%, trong đó máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng chiếm
31%. Cả 8/8 "đại gia” mà Việt Nam nhập khẩu trên 1 tỷ USD đều là thành viên APEC.
Trung Quốc: 5.778,9 triệu USD; Singapore: 4.597,6 triệu USD; Đài Loan: 4.329 triệu USD; Nhật
Bản 4.093 triệu USD; Hàn Quốc 3.600,5 triệu USD; Thái Lan: 2.393,2 triệu USD; Malaysia: 1.258,6
triệu USD; Hong Kong 1.235,8 triệu USD. Chỉ với 8 thị trường này đã đạt 27.286,6 triệu USD,
chiếm 91,3% APEC và chiếm 73,8% tổng số.
Mới tham gia trong thời gian ngắn, nhưng quan hệ giữa APEC và Việt Nam đã có bước phát triển
khá, đạt quy mô tương đối lớn. Năm 2006 được coi là năm APEC của Việt Nam, với nhiều hội nghị
quan trọng, sẽ là thời cơ để Việt Nam nâng tầm quan hệ lên mức cao hơn nữa để thực hiện mục
tiêu thoát khỏi nước kém phát triển trước năm 2010 và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020.
(Tin từ TBKT, TM, ĐT 19-24/10/2006)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×