Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Con đường hiện đại hoá văn học của các nước khu vực văn hoá chữ Hán_2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.44 KB, 8 trang )

Con đường hiện đại hoá văn học
của các nước khu vực văn hoá chữ
Hán (Qua tư liệu văn học Việt Nam
và Nhật Bản)










3. Sự ra đời của nền văn học mới
3.1. Thơ mới
Sự đổi mới thơ ca Nhật Bản bắt đầu từ sự cách tân hai thể thơ truyền thống của Nhật
Bản là tanka/ đoản ca và haiku/ bài cú, sau đó mới hình thành thể thơ mới gọi là Tân thể thi/
Shintaishi. Thơ ca truyền thống đã được tạo ra từ những tên tuổi lớn như: nữ sĩ Ono no
Komachi, pháp sư Saigyo (về tanka), Matsuo Bashô, Yosa Buson, Kobayashi Issa (về
haiku), nhưng tinh thần của các thể thơ ấy không phù hợp với thời đại mới. Sự đổi mới tanka
gắn liền với tên tuổi của hai vợ chồng thi sĩ Yosano Tekkan và Yosano Akiko, sau đó là
Wakayama Bokusui, Ishikawa Takuboku, Kitahara Hakushu… Sự đổi mới haiku gắn với
Masaoka Shiki, sau đó là Takahama Kyoshi, Naito Meisetsu, Sakamoto Shiboda… Có thể
xem một số mốc sau:
Về tanka: Năm 1893 Ochiai Naofumi đã lập ra nhóm Thiển Hương xã (Asakasha) với
mục đích đổi mới tanka.1899 tiếp tục ý hướng đổi mới tanka của Naofumi thầy mình,
Yosano Tekkan – chủ soái của thi đàn tanka cận đại đã lập ra Tân thi xã, cho xuất bản ca
tập Đông tây nam bắc với phong cách nam tính mạnh mẽ. Một năm sau – năm 1900, tạp
chí Minh tinh(Myojo/ Sao mai) do Tekkan chủ trương ra đời, phong cách tanka chuyển dần
theo hướng lãng mạn chủ nghĩa. 1901 tập tankaTóc rối (Midare gami) của Yosano Akiko –


bạn thơ và bạn đời của Tekkan được xuất bản, đánh dấu một đỉnh cao mới của tanka. 1904
hai tập tanka: Bài ca làng tre (Take no sato uta) của Masaoka Shiki; Cỏ độc (Độc thảo/
Dokusô) của Yosano Tekkan và Akiko xuất bản đánh dấu sự phát triển thành thục của tanka
cận đại. Sau đó tanka chia ra nhiều xu hướng khác nhau: “Tả sinh phái” với Hội tanka
Negishi: Masaoka Shiki, Satô Sachio, Nagatsuka Takashi… chú trọng miêu tả hiện thực sống
động trước mắt; tanka tự nhiên chủ nghĩa với Ishikawa Takuboku (Một nắm cát/ Ichiaku no
suna), Wakayama Bokusui… “Đam mỹ phái” (Duy mỹ chủ nghĩa) với tạp chí Subaru (Sao
Mão tú) do Ishkawa Takuboku chủ trương được coi là Chủ nghĩa tân lãng mạn thời Meiji.
Về haiku: Năm 1897 Masaoka Shiki lập ra tạp chí Hototogisu (Chim quyên) chính thức
tuyên bố cách tân haiku theo khuynh hướng “tả sinh” tức là tả thực những ấn tượng tươi tắn sinh
động trước mắt. Những tập haiku Masaoka Shiki sáng tác theo tinh thần ấy là: Xuân hạ thu đông,
Một giọt mực (Mặc trấp nhất trích/ Hokujù itteki, 1901), Sáu thước phòng bệnh(Bệnh sàng lục
xích, 1902). Sau khi Masaoka Shiki mất đi haiku chia ra thành nhiều xu hướng: Xu hướng tiếp
tục sáng tác haiku tả sinh của ông như: Takahama Kyoshi, Naito Meisetsu, Sakamoto Shiboda;
xu hướng haiku tự do không dùng quý ngữ - tức là không có từ chỉ mùa (vô quý tự do luật) bao
gồm: Kawahigashi Hekigoto, Osuga Otsugi, Ogiwara Seisensu… Tiến thêm một bước nữa trong
việc đại chúng hoá haiku là nhóm Ozaki Hosai, Taneda Santoka, tập hợp xung quanh tạp
chí Tầng mây (Tằng vân, xuất bản từ 1911) với chủ trương cải cách haiku theo hướng tự do
khẩu.
Về Tân thể thi: Từ sau khi hai tập thơ dịch thơ phương Tây: Tân thể thi sao và Ư mẫu
ảnh ra đời, thi đàn Nhật Bản đòi hỏi phải sáng tạo ra hình thức thơ ca tương tự: tự do hơn, có thể
thể hiện được tình tự mới của con người thời cận đại.
- Năm 1893 tạp chí văn nghệ Văn học giới của thi phái lãng mạn chủ nghĩa do Kitamura
Tôkoku, Shimazaki Tôson, Ueda Bin chủ trương ra đời, đánh dấu sự xuất hiện chính thức của
thơ mới Nhật Bản.
- Năm 1897 tập thơ Rau non (Nhược thái tập/ Wakanashù) của Shimazaki Tôson ra mắt,
tập thơ này được coi như trái đầu mùa của thơ mới và tác giả của nó - Toson được người sau
xưng tụng là “người cha của thơ mới Nhật Bản”. Sau tập Rau non, Toson tiếp tục ra 3 tập thơ
nữa: Một lá thuyền (Nhất diệp chu, 1898), Cỏ mùa hạ (Hạ thảo, 1898), Mai rụng (Lạc mai tập,
1901).

- 1899 xuất bản tập thơ Trời đất hữu tình (Tenchi ujô) của Doi Bansui, nhà thơ lãng mạn
“tề danh” với Toson với tính chất trữ tình nam tính cứng cỏi, mạnh mẽ. Bài Trăng sáng thành
hoang của ông là bài thơ làm say mê người Nhật hàng trăm năm nay.
- Năm 1905 tập thơ dịch Hải triều âm của Ueda Bin tập hợp những bài thơ tượng trưng
Pháp đã thúc đẩy sự xuất hiện khuynh hướng thơ tượng trưng Nhật Bản. Thơ tượng trưng Nhật
Bản có hai đại biểu lớn là: Susukida Kyùkin với tập Sáo chiều(Mộ địch tập), Bạch dương
cung (1906) và Kanbara Ariake với Hữu Minh tập (1908) đã đưa thơ tượng trưng Nhật Bản lên
đến đỉnh cao.
- Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên, thơ khẩu ngữ tự do cũng ra đời với những thi sĩ
tên tuồi: Kitahara Hakushu, Kinoshita Mokutarô, Miki Rôfu…
Thơ mới Việt Nam xuất hiện sau thơ mới Nhật Bản hơn 30 năm, nhưng con đường phát
triển và tính chất chung cũng rất gần nhau. Có thể thấy cả hai nền thơ mới có những vấn đề rất
giống nhau:
(1) Sự đổi mới văn thể: Thơ mới Việt Nam bắt đầu từ chỗ đổi mới thơ lục bát, sau đó là
hình thành thể thơ mới. Thể thơ mới khởi đi từ chỗ thử nghiệm điệu thơ phương Tây dần dần đi
đến chỗ ưu tiên cho điệu thơ Việt Nam (lẻ/chẵn: 3/2/2 hoặc 3/2/3 hay 3/3/2). Thơ mới Nhật Bản
cũng tương tự: đổi mới tanka và haiku, sau đó mới sinh ra Tân thể thi/ Shintaishi - tự do hơn
nhưng vẫn giữ điệu 5/7 truyền thống.
(2) Thơ mới Việt Nam và Nhật Bản đều thể hiện nỗi bất mãn của con người thời cận đại:
nỗi khổ, tâm trạng lạc loài, niềm hoài cảm về vẻ đẹp quá khứ…
(3) Tuy nhiên vấn đề cơ bản nhất vẫn là vấn đề giải phóng cá tính và thể hiện ý thức cá
nhân (hay “tự ngã”- như cách nói của Nhật Bản).
Tình yêu tươi trẻ, tinh khôi là một trong những chủ đề được yêu thích. Xin dẫn ra hai ví
dụ: Nếu như Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới Việt Nam, nổi tiếng với
bài Thơ duyên (Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên/ Cây me ríu rít cặp chim chuyền (…). Con
đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu/ Lả lả cành hoang nắng trở chiều/ Ngày ấy lòng ta nghe ý bạn/ Lần
đầu vang vọng nỗi thương yêu), thì Shimazaki Toson, người cha của thơ mới Nhật Bản, có
bài Tình đầu (Sơ luyến/ Hatsukoi) gần như cùng một ý thơ:
Gặp em bên gốc táo/ Tóc mới chải hất lên/ Lược em giắt phía trước/ Có bông hoa khó
quên. Cánh tay trắng hiền dịu/ Em đưa táo cho tôi/ Trái mùa thu hồng nhạt/ Ươm mối tình tinh

khôi (…). Trong khu vườn táo ấy/ Một lối nhỏ mới thành/ Trái tim tôi muốn hỏi/ Ai người in dấu
chân?
Khẳng định vẻ đẹp, phẩm chất, khả năng của con người và niềm hạnh phúc trần thế - một
chủ đề có tính nhân văn chủ nghĩa được nhấn mạnh ở thơ cận đại. Tương tự như thơ Xuân Diệu,
Lưu Trọng Lư, Bích Khê, thơ mới Nhật Bản cũng có Yosano Akiko, Shimazaki Toson… Xin
đọc vài bài tanka của nữ sĩ Yosano Akiko:
- Làn da em mềm mại/ Và máu nóng bừng bừng/ Anh chẳng sờ vào, chẳng ngắm/ Anh chỉ
nói về đạo/ Có gì buồn không anh?
- Trái tim em rối bời/ Tâm hồn em bấn loạn/ Biết bao nhiêu lần rồi/ Tay không kịp che vú/
Khi gặp thần tình yêu.
- Đặt tay lên bầu vú/ Và bức màn thần bí/ Hất bỏ ra ngoài/ Ôi, hai bông hoa ấy/ Ánh lên
màu hồng tươi.
3.2. Kịch mới, Tiểu thuyết mới và phê bình văn học mới ra đời
Về sân khấu: Trước ảnh hưởng của phương Tây, sân khấu các nước Đông Á cũng thay
đổi.
Ở Việt Nam sân khấu cận đại có sự thay đổi quan trọng là sự ra đời của cải lương và kịch
nói. Cải lương là một thể loại ca kịch sự kết hợp giữa kịch phương Tây với tuồng và âm nhạc đàn
ca tài tử. Những người có công đầu với cải lương là Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toản,
André Thuận, Năm Tú với các vở Pháp - Việt nhứt gia (tức Gia Long tẩu quốc) năm 1918,Trang
Tử thử vợ, Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên đầu thập niên 1920… Sau đó có một vở cải lương chịu
ảnh hưởng cốt truyện phim và kịch Pháp như: Bằng hữu binh nhung (Frères d’arme), Sắc giết
người (Atlantide), Giá trị và danh dự (Le Cid), Tơ vương đến thác (La dame au camélias)…
Kịch nói Việt Nam ra đời vào thập niên 20 thế kỷ XIX với các soạn giả tiên phong: Vũ Đình
Long (Chén thuốc độc), Nam Xương (Ông Tây An Nam)…
Ở Nhật Bản sân khấu cận đại cũng có nhiều nét tương tự. Trước hết là sự đổi mới sân
khấu truyền thống Kabuki (Ca Vũ Kỹ) thành Kabuki mới (Shin Kabuki/ Tân Ca Vũ Kỹ) theo
hướng dàn dựng và khai thác tâm lý theo kiểu kịch châu Âu. Người có công đầu với Kabuki mới
là soạn giả Kawatake Mokuami với sự nghiệp đồ sộ: trên 360 vở. Tiếp theo là nhà văn và nhà
phê bình văn học nổi tiếng Tsubouchi Shôyô với vở kịch lịch sử Lá ngô đồng (Kiri Hito Ha/
Đồng Nhất Diệp, 1904), trong đó dấu vết ảnh hưởng Hamlet, Vua Lear của Shakespeare khá rõ.

Kịch nói Nhật Bản (người Nhật gọi là Shingeki/ Tân kịch) ra đời vào đầu thế kỷ XX.
Năm 1906 Tsubouchi Shôyô và Shimamura Hogetsu thành lập Hiệp hội văn nghệ để dịch, thử
nghiệm kịch. Shôyô cho diễn kịch của Shakespeare và Ibsen gây được tiếng vang lớn. Mayama
Seika bắt đầu viết kịch từ năm 1907 với vở kịch mới đầu tiên là Người đầu
tiên (Daiichininsha,1907) và Nếu tôi không sinh ra (Umarezarishi Naraba, 1908) trong đó thấy rõ
những ảnh hưởng của kịch Ibsen. Năm 1909Ôgai viết Mặt Nạ (Kamen), kịch một màn được
nhiều nhà bình luận đánh giá như một vở kịch hiện đại thực sự. Kịch mới phát triển mạnh hơn
vào cuối thập niên 20 với sự tham gia của nhiều nhà văn tên tuổi: Kikuchi Kan, Tanizaki
Junichiro, Nagai Kafu, sau đó có khuynh hướng chuyển sang kịch vô sản rồi suy thoái dần trong
Thế chiến thứ 2.
Về tiểu thuyết: Tiểu thuyết mới Việt Nam xuất hiện từ khá sớm, có thể lấy Truyện thầy
Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản sáng tác năm 1886 và được xuất bản một năm sau đó là
cái mốc mở đầu
(2)
. Thế nhưng nó chỉ là bông mai nở sớm, phải đợi đến gần một phần tư thế kỷ
sau đó: năm 1910 với xuất hiện của Trần Thiên Trung (Hoàng Tố Anh hàm oan) và Trương Duy
Toản (Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân) thì mùa xuân thực sự của tiểu thuyết mới bắt đầu.
Tiểu thuyết cận đại Việt Nam gắn liền với tên tuổi của các nhà văn Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng
Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Tân Dân Tử… ở Sài Gòn, rồi Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn,
Hoàng Ngọc Phách, nhóm Tự lực văn đoàn, Tiểu thuyết thứ Bảy… ở Hà Nội. Từ thập niên 20
của thế kỷ XX ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện khuynh hướng văn học cách mạng vô sản. Khuynh
hướng này càng ngày càng mạnh và trở thành chủ lưu của văn học Việt Nam hiện đại
(3)
.
Tiểu thuyết mới Nhật Bản hình thành vào thời điểm tương tự như tiểu thuyết Việt Nam
nhưng không bị đứt đoạn mà phát triển liền mạch. Việc dịch văn học phương Tây đã tạo điều
kiện chín muồi cho sự xuất hiện của tiểu thuyết mới Nhật Bản. Năm 1885, từ ảnh hưởng của tiểu
thuyết Anh, Tsubouchi Shôyô viết Tinh thần tiểu thuyết (Shôsetsu shinzui/ Tiểu thuyết thần tuỷ,
hoàn thành 1886), tập lý luận phê bình văn học, trong đó đòi hỏi tiểu thuyết phải thoát ra tính
chất “Khuyến thiện trừng ác” của tiểu thuyết cũ mà miêu tả “nhân tình thế thái” theo phương

pháp tả thực. Từ quan niệm đó Shôyô đã sáng tác ra cuốn tiểu thuyết mới: Đương thế thư sinh
khí chất mang hơi thở thời đại, nhưng chưa thật thành công. Năm 1886, từ những hiểu biết sâu
sắc về văn học Nga, Futabatei Shimei viết tập lý luận phê bình Tiểu thuyết tổng luận trong đó
yêu cầu văn học phải sáng tác theo phương pháp hiện thực chủ nghĩa. Một năm sau ông bắt tay
vào sáng tác tiểu thuyết Phù vân (Ukigumo) và hoàn thành 2 năm sau đó (1889). Mặc dù chưa
hoàn tất, nhưng Phù vân với việc miêu tả sâu sắc nỗi đau tinh thần của người trí thức cận đại
bằng ngôn ngữ như lời nói thường (Ngôn văn nhất trí) đã báo hiệu tiểu thuyết cận đại Nhật Bản
đã thực sự ra đời.
Tiểu thuyết mới Nhật Bản sẽ lần lượt trải qua các trào lưu tiểu thuyết châu Âu và cả
khuynh hướng chống lại trào lưu đó. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản thường chia tiểu thuyết cận
đại Nhật Bản ra thành các khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa (Rôman shùgi): Mở đầu là Mori Ogai, nhà văn
du học từ Đức về với các tác phẩm: Cô vũ nữ (Maihime, 1890), sau đó là các nhà văn tập hợp
xung quanh tạp chí Văn học giới: Higuchi Ichiyo (nữ) với các tác phẩm: Ngày cuối
năm (Otsugomori, 1894), Một mùa thơ dại (Takekurabe, 1896); Izumi Kyoka với Cao tăng núi
Koya(Cao Dã thánh/ Kôya hijiri)…
- Khuynh hướng phục cổ (Kikoten shùgi/ Nghĩ cổ điển chủ nghĩa): Xuất hiện vào thập
niên 90 thế kỷ XIX, khuynh hướng phục cổ có ý định chống lại phong trào Âu hoá, quay trở về
với tiểu thuyết truyền thống với tinh thần quốc tuý. Đứng đầu khuynh hướng này là hai nhà văn:
Koda Rohan với tiểu thuyết Ngũ trùng tháp (Goju tô, 1891) và Ozaki Koyo với Đa tình đa
hận(1896), Con quỉ kim tiền (Kim sắc dạ xoa, 1902)…
- Khuynh hướng tự nhiên chủ nghĩa (Shizen shùgi): Vào thập niên 1890, tiểu thuyết
của Emil Zola truyền vào Nhật Bản, từ đó đã thúc đẩy khuynh hướng tự nhiên chủ nghĩa trong
tiểu thuyết Nhật Bản ra đời. Đứng đầu khuynh hướng này là nhà văn Shimazaki Toson (người
từng được mệnh danh là “người cha của thơ mới Nhật Bản”) với tiểu thuyết Phá giới (Hakai,
1906), sau đó là các tác phẩm: Mùa xuân (Haru), Gia đình (Ie), Cuộc đời mới (Shinsei). Kế đến
là các tác giả: Tayama Katai (tác giả tiểu thuyết Tấm nệm/ Futon, Thầy giáo nhà quê/ Inaka
kyôshi); Masamune Hakucho; Tokuda Shùsei…
- Khuynh hướng phản tự nhiên chủ nghĩa (Han shizen shùgi): Chủ đề chính của
khuynh hướng này là miêu tả thân phận con người thời cận đại: nhỏ bé, mất lý tưởng, mất

phương hướng. Hai tác giả đứng đầu của khuynh hướng này là Mori Ogai (nhà văn khởi đầu từ
khuynh hướng lãng mạn) với các tiểu thuyết: Chim nhạn (Gan), Thanh niên (Seinen) và
Natsume Soseki, đại tác giả của tiểu thuyết cận đại, tác giả của hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng
(trong đó khá nhiều cuốn đã được dịch ra tiếng Việt):Chúng tớ là con mèo (Wagahai wa neko
dearu), bộ ba tác phẩm: Tam Tứ Lang (Sanshirô), Rồi từ đó (Sorekara), Cánh cổng (Mon, 1910),
và Một tâm hồn (Kokoro), Cỏ ven đường (Michikusa), Minh ám (Meian). Tất cả tác phẩm của
ông đều đi vào thể hiện cái tôi và sự cô đơn của con người cận đại.
Từ giữa thập niên 10 thế kỷ XX trở đi ở Nhật Bản xuất hiện hàng loạt các đại tác gia
được thế giới biết đến: Akutagawa Ryunosuke, Tanizaki Junichiro, Mishima Yukio, Kawabata
Yasunari… theo các khuynh hướng Duy mỹ, Tân cảm giác. Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra
ảnh hưởng rộng khắp thế giới trong đó có Nhật Bản. Năm 1921 nhóm trí thức cánh tả
Miyajima Sukeo, Maeda Kôhiroichirô xuất bản tạp chí Người gieo hạt (Tanemaku hito). Ít lâu
sau khuynh hướng văn học vô sản cũng hình thành với các nhà văn tên tuồi: Hayama Yoshiki
(tác giả tiểu thuyết Những người sống ở biển/ Umini ikuru hitobito), Kobayashi Takeji (tiểu
thuyết Tàu câu cua/ Kani kô sen), Tokunaga Sunao (tiểu thuyết Phố không mặt trời/ Taiyô no
nai machi)
(4)

Chiến tranh thế giới lần thứ Hai nổ ra, thiêu cả châu Á trong lò lửa. Trong không khí ấy
quá trình hiện đại hoá văn học bị ngưng trệ. Sau Thế chiến khu vực Đông Á bị chia rẽ rất sâu sắc,
hiện đại hoá văn học như một quá trình thống nhất như đã xảy ra cuối thế kỷ XIX nửa đầu thế kỷ
XX cũng chấm dứt, mỗi nước đi theo con đường riêng của mình. Từ thế kỷ XXI nhìn lại quá
trình hiện đại hoá văn học các nước khu vực văn hoá chữ Hán có thể thấy các nước trong khu
vực đã từng rất gần nhau, thế nhưng mức độ thành công của hiện đại hoá văn học suy cho cùng
gắn liền với sự thành công của công cuộc hiện đại hoá từng nước và nội lực truyền thống của
từng nền văn học

×