Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

HỘI CHỨNG TIỂU NÃO pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.94 KB, 26 trang )

HỘI CHỨNG TIỂU NÃO

I. NHẮC LẠI GIẢI PHẪU
Tiểu não nằm ở hố sau, gồm có thùy giun nằm ở giữa và hai bán cầu nằm ở hai
bên, gắn vào thân não bằng 3 cuống tiểu trên, giữa và dưới.
 Cuống tiểu não dưới nối tiểu não với hành não
 Cuống tiểu não giữa nối tiểu não với cầu não
 Cuống tiểu não trên nối tiểu não với cuống não (trung não)
Trên thiết đồ tiểu não, phân biệt ba phần:
Vỏ tiểu não : là lớp chất xám bao bọc bên ngoài
Chất trắng : nằm dưới lớp vỏ, gồm các sợi trục có myelin của các bó thần
kinh ly tâm và hướng tâm, sợi trục tế bào Purkinje.
Nhân trung tâm :
+ Nhân mái (Fastigial) ở tiểu não cổ.
+ Nhân tiểu cầu (Globose), nhân nút (Emboliform) ở tiểu não cũ.
+ Nhân răng (Dentate) ở bán cầu tiểu não
Phân loai
Trong phạm vi giải phẫu và chức năng tiểu não có thể chia ra làm 3 phần nhỏ:
1. Tiểu não cổ (archicerebellum) gồm nodulus và hai floculus (còn gọi là
thùy nhung nút (flocculo nodular): là phần xưa nhất trong phát sinh chủng loại
(tiểu não của loài cá  giữ thăng bằng đầu trong không gian). Phần này có những
con đường liên hệ với tiền đình do đó còn được biết như là tiểu não –tiền đình 
liên quan đến sự điều chỉnh thăng bằng.
2. Tiểu não cũ (paleocerebellum) gồm thùy trước và một phần của thùy
sau (chủ yếu là thùy giun) (tiểu não của loài bò sát). Nó có đường liên hệ đến tủy
sống nên còn được gọi là tiểu não - tủy sống. Vùng này nhận các thông tin từ các
sợi tủy sống cùng bên (bó gai tiểu não thẳng, bó gai tiểu não chéo) và từ những sợi
của nhân Goll-Burdach trong hành não tới (đường cảm giác sâu). Có chức năng
điều hòa trương lực cơ và giữ tư thế.
3. Tiểu não mới (neocerebellum)(tiểu não của con người) gồm phần trước
của thùy sau (phần chính bán cầu tiểu não), có những đường liên hệ với vỏ não 


có chức năng trong kiểm soát và phối hợp vận động
II. CHỨC NĂNG TIỂU NÃO
Điều hòa thăng bằng: dựa vào những thụ thể cảm giác căng của cơ thể
(cảm giác thoi cơ, cảm giác gân cơ, cơ) đưa về tiểu não. Từ đây các tín hiệu đi từ
nhân mái đến nhân tiền đình, chất lưới thân não và theo bó tiền đình-gai, lưới- gai
đến kích thích hệ thống gamma điều chỉnh tư thế.
Phối hợp vận động: mỗi bán cầu tiểu não sẽ nhận những thông tin từ vỏ
não vận động và các phần ngoại biên của cơ thể. Tiểu não phân tích các thông tin
rồi truyền lên vỏ não và nhân đỏ giúp thực hiện các phối hợp vận động tự chủ.

III. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
Hội chứng tiểu não gồm 3 nhóm triệu chứng chính:
1. Rối loạn thăng bằng và dáng đi
2. Giảm trương lực cơ
3. Các rối loạn trong thực hiện động tác (trong phối hợp vận động)
Trong thăm khám tiểu não, điều cần lưu ý là muốn khám được các chức năng của
tiểu não thì hệ vận động và hệ cảm giác phải còn toàn vẹn, có nghĩa là bệnh nhân
không bị yếu liệt, không bị rối loạn cảm giác (đặc biệt là cảm giác sâu). Nếu
không, chính những rối loạn vận động, cảm giác này sẽ làm sai lệch việc đánh giá
chức năng tiểu não.
Đầu tiên là quan sát bệnh nhân (BN). Quan sát BN ngay cả khi bệnh nhân
đang đi dạo, đang ngồi, đang đọc sách. Quan sát BN trong những vận động bình
thường như mặc áo quần cũng có ý nghĩa quan trọng. Trong khi quan sát chúng ta
cần phải so sánh hai bên: bên phải và bên trái.
1. Rối loạn thăng bằng và dáng đi:
Triệu chứng nổi bật nhất của tiểu não là thất điều (ataxia tiếng Hy lạp nghĩa là mất
sự điều khiển). Đó là do mất đi các tác động ức chế bình thường của luồng thông
tin từ tiểu não lên hệ vận động.
Thất điều biểu hiện dưới những hình thức sau
 Rối loạn thăng bằng:

Khi đứng bệnh nhân có khuynh hướng dạng hai chân ra  gọi là dạng chân đế.
Ngoài ra khi đứng thân mình bệnh nhân lắc lư không ngừng theo đủ mọi hướng,
tuy nhiên tình trạng này không nặng lên khi nhắm mắt. Đây là điểm phân biệt giữa
sự mất thăng bằng của hội chứng tiểu não và hội chứng tiền đình.
Bệnh nhân thất điều tiểu não không thể đứng vững khi mở mắt lẫn khi nhắm
mắt, trong khi đó bệnh nhân có hội chứng tiền đình có thể đứng vững khi mở
mắt và té khi nhắm mắt (dấu Romberg dương tính)
Tình trạng mất thăng bằng này có thể chỉ giới hạn ở đầu và thân, làm cho bệnh
nhân có những cử động lắc lư thân mình theo hướng trước-sau, và những cử động
này vẫn tiếp tục thấy cả khi bệnh nhân ở tư thế ngồi. Một số trường hợp sự mất
thăng bằng tập trung chủ yếu ở hai chi dưới, lúc này người ta ghi nhận có sự co
thắt liên tục gân cơ chày trước  gọi là dấu hiệu “các gân cơ nhảy múa” (danse
des tendons).
Khi bệnh nhân chỉ có hội chứng tiểu não kín đáo, muốn tìm rối loạn thăng bằng,
chúng ta đề nghị bệnh nhân đứng khép chân lại, đứng trên một chân, hoặc đi trên 1
đường thẳng mà chân này nối tiếp gót chân kia
 Dáng đi
Thất điều dáng đi được thấy rõ khi quan sát BN đi và khi yêu cầu bệnh nhân
quay trở lại. Khi đi bệnh nhân cũng dạng chân đế. Bước chân thường là những
bước ngắn không đều, vẽ nên một đường zig-zac giống như người say rượu
(ngược với dáng đi bình thường chân rơi mội khoảng cách đều đặn ở đường
giữa hoặc gần đường giữa.
BN đi loạng choạng và có thể nghiêng về hai bên, mặc dầu có thể nghiêng về
một bên (bên tiểu não bị tổn thương). Thất điều dáng đi có thể có ngay cả khi
không có thất điều các chi và thân mình, do đó phải được lưu ý và khám một
cách đặc biệt. Mức độ thất điều càng nhiều thì tổn thương tiểu não càng trầm
trọng.
Để thấy rõ sự mất thăng bằng trong lúc đi đứng, chúng ta có thể yêu cầu bệnh
nhân đi và thực hiện nhanh các y lệnh ví dụ như đang đi yêu cầu bệnh nhân
đứng lại đột ngột, đang đi quay người trở lại đột ngột, hoặc yên cầu bệnh nhân

đi thụt lùi trở lại.
2. Giảm trương lực cơ:
Tổn thương tiểu não thùy sau thường đầu tiên gây ra giảm hoặc mất trương lực cơ.
Điều này càng thể hiện rõ ở tổn thương cấp tính và thường đạt đến đỉnh điểm trong
vòng vài tuần. Triệu chứng này khó phát hiện khi bệnh kéo dài hoặc trong những
trường hợp thoái hóa mãn tính. Khi tổn thương tiểu não một bên, triệu chứng này
thường biểu hiện bằng giảm trương lực cơ các chi cùng bên.
Khám:
1/ Đánh giá trương lực cơ bằng độ ve vẩy, độ co duỗi, độ chắc nhão.
Yêu cầu BN đưa hai tay lên cao, để bàn tay rơi thõng xuống, ta sẽ thấy bên bệnh
bàn tay thõng xuống, gập hơn nhiều so với bên lành.
Khi ve vẩy, bàn tay bên bệnh có biên độ ve vẩy rộng hơn.
Giảm trương lực cơ có thể phát hiện bằng cách làm cử động thụ động các khớp ví
dụ như ép gót chân vào mông rất dễ dàng, không thấy một sự căng cơ hay kháng
lực nào cả. Khi BN đi có thể ghi nhận giảm sự đong đưa cánh tay.
2/ Đong đưa đầu gối khi gõ PX cơ tứ đầu đùi cũng do giảm trương lực cơ gây ra.
Đó là do mất sự co thắt các cơ đối vận khi gõ PX cơ tứ đầu đùi, dẫn đến hiện
tượng ngọn chi đong đưa nhiều lần. Đong đưa biên độ rộng trong gõ PX thể thấy ở
tổn thương bó vỏ gai nhưng trong trường hợp này thường kèm theo tăng trương
lực cơ.
3/ Nghiệm pháp Stewart- Holmes: yêu cầu BN gập cẳng tay vào cánh tay, người
khám làm động tác đối kháng ngược lại rồi bất chợt buông ra. Cử động gập cẳng
tay vẫn còn tiếp tục và đôi khi bàn tay BN đập vào ngực BN. Trong khi đó ở người
bình thường, cử động gập ngừng ngay lập tức và được thay thế bằng cử động
ngược chiều (duỗi nhẹ cẳng tay). Giải thích: do mất sự co thắt các cơ đối vận
(chậm và giảm).
Tương tự như vậy ở chi dưới: cho bệnh nhân nằm sấp, cẳng chân vuông góc với
đùi, dùng tay kéo cổ chân bệnh nhân. Khi buông ra đột ngột bên tiểu não bị bệnh
sẽ có hiện tượng gót chân đập mạnh vào mông hơn là bình thường.


4. Phân tách các cử động:
 Loạn đồng vận, mất đồng vận (dyssynergy, assynergy) là giảm
hoặc
mất khả năng tổng hợp và hợp nhất các thành phần của một cử động phức tạp. Có
sự thiếu phối hợp hoạt động giữa những nhóm cơ, những động tác mà bình thường
chúng phối hợp với nhau rất tốt về mặt mức độ, về sự hài hòa, về thời gian, về sự
nối tiếp nhau làm cho một cử động được thực hiện một cách trôi chảy và chính
xác. Hậu quả là mất đi tốc độ và sự khéo léo trong quá trình thực hiện động tác;
tức là mất đi hoạt động đồng thời (synchronous activity) của nhiều nhóm cơ, nhiều
động tác. Cử động trở nên cứng và đứt đoạn giống như máy còn gọi là sự phân
tách động tác (decomposition of mouvement)
Ví dụ cho bệnh nhân làm các nghiệm pháp ngón tay chỉ mũi, gót chân đầu gối
hoặc yêu cầu ngón chân cái của bệnh nhân chạm vào tay người khám (tay người
khám để trên giường). Động tác bình thường là có sự phối hợp giữa gập đùi và
duỗi cẳng chân, khi có tổn thương tiểu não, động tác này đưuọc phân tách thành
hai hoặc nhiều thì  động tác bị đứt đoạn.
Cho bệnh nhân nằm ngửa trên một mặt phẳng cứng, khoanh tay lại, hai chân hơi
dang ra, yêu cầu ngồi dậy để ngồi dậy được bệnh nhân phải gập đùi đồng thời
hai gót chân của bệnh nhân nhấc bổng lên khỏi mặt giường, ngược với người bình
thường là phải ấn mạnh gót chân xuống mặt giường. Nghiệm pháp này rất dễ thấy
khi so sánh bên tiểu não bị tổn thương và bên lành ở trên cùng một bệnh nhân.
 Loạn liên động (dysdiadochokinesis): sự phân tách các động tác
cùng với thất điều tạo nên loạn liên động.
Khám: cho BN thực hiện các cử động tay xen kẽ tại giường (lưu ý là chỉ đánh giá
được loạn liên động khi hệ vận động và cảm giác ở chi gần như còn nguyên vẹn và
bệnh nhân không có triệu chứng ngoại tháp).
Yêu cầu BN sấp ngửa bàn tay ; động tác có thể thực hiện bên trái hoặc bên phải
hoặc cả hai bên cùng lúc. Nên so sánh cả hai bên. Một test khác là nắm mở bàn
tay, cho luỡi đưa ra đưa vào, vỗ tay trên một mặt phẳng cố định. Ở tổn thương tiểu
não, có sự giảm tốc độ, nhịp độ, và sự hoàn thiện các động tác.

Ở chân, yêu cầu bệnh nhân dậm chân trên mặt phẳng.
 Rối tầm (dysmetria), quá tầm (hypermetria): là sự tăng quá mức
biên độ cử động làm cho cử động đi quá mục tiêu. Đó là do mất khả
năng đo chính xác lực và tốc độ di chuyển của một cử động.
Ví dụ nghiệm pháp ngón tay chỉ mũi: yêu cầu bệnh nhân dang thẳng tay, lấy đầu
ngón trỏ chỉ vào mũi, ngón trỏ khi đã đụng vào mũi vẫn đi tiếp và đập vào má
bệnh nhân. Nghiệm pháp này nhạy nhất khi cho bệnh nhân ở tư thế nằm. Trong
trường hợp rối tầm kín đáo, chúng ta cho bệnh nhân thực hiện nghiệm pháp này
kèm theo có kháng lực: ngón trỏ của bệnh nhân khi rời khỏi mặt giường phải vượt
qua kháng lực ngón trỏ của tay người khám.
Nghiệm pháp vạch các đường nằm ngang: yêu cầu bệnh nhân vạch các đường nằm
ngang từ một đường đứng dọc bên này sang một đường đứng dọc bên kia, giống
như vẽ các thanh ngang của một cái thang (khoảng cách giữa hai đường đứng dọc
khoảng 10cm). Ở bệnh nhân rối tầm các đường vạch ngang sẽ đi quá mức định
sẵn.
Ở chi dưới ta có nghiệm pháp gót chân đầu gối: cho bệnh nhân nằm, yêu cầu gót
chân bệnh nhân bên này chạm đến đầu gối bên kia, sau đó gót chân tiếp tục chà lên
xương chày của chân bên kia. Ở bệnh nhân có rối tầm, gót chân sẽ đưa cao hơn và
đưa vượt quá đích, sau đó bệnh nhân điều chỉnh lại mới đưa trung vào đầu gối.
Ngoài ra trong khi chà gót chân tên xương chày, chân bên bệnh sẽ có hiện tượng
đứt khúc các động tác, các động tác thực hiện không trôi chảy.
 Run chủ ý (intention tremor): Run có tần số 3-5 Hz.
Run tiểu não không phải là run lúc nghỉ, cũng không phải là run tư thế. Run được
thấy rõ khi bắt đầu cử động, trong quá trình cử động hoặc khi kết thúc một cử
động. Run là hậu quả các yếu tố gây ra như chi bị thất điều, có nghĩa là mất khả
năng đo đạc chính xác tốc độ, lực và sự trôi chảy một động tác. Nên nhớ rằng run
chủ ý chỉ xảy ra ở những BN có tổn thương bán cầu tiểu não đơn thuần.
5. Các dấu hiệu khác:
a) Thất điều thân mình thường thấy ở những BN có tổn thương phần
đáy tiểu não.

Phần thân của bệnh nhân lắc lư, lảo đảo. Lâm sàng có thể thấy bằng cách cho BN
ngồi không có ghế dựa lưng, BN ngồi trên ghế đẩu hoặc ở mép giường. BN tổn
thương tiểu não sẽ không thực hiện được nghiệm pháp đơn giản này. Có thể yêu
cầu BN ngồi dang hai tay ra, ta có thể thấy rõ sự mất ổn định của thân mình. Đôi
khi BN chỉ biểu hiện thất điều thân mình khi được yêu cầu đứng lên hoặc ngồi
xuống trên ghế mà không sử dụng cánh tay(lưu ý BN có thể bị té khi thực hiện
nghiệm pháp này).
b) Loạn vận ngôn (Dysarthria):
Khám giọng nói, cách nói của bệnh nhân trong những trường hợp nghi ngờ có tổn
thương tiểu não là điều cần thiết, tuy nhiên để tìm ra tổn thương tiểu não, chúng ta
phải kiểm tra những cử động phát âm phức tạp, hữu ý, chứ không chỉ những cử
động phản xạ của giọng nói.
Loạn vận ngôn trong tổn thương tiểu não có thể xếp như là thất điều giọng nói. Khi
khám đầu tiên phải nghe giọng nói tự phát của BN, cũng như chất lượng trả lời các
câu hỏi chuyên biệt do người khám đặt ra. Thông thường yêu cầu BN nói những
câu hoặc những âm xuất phát từ lưỡi (la-la-la), từ môi (ma-ma-ma), và từ trong
họng (kitty-kitty). Có 3 loại rối loạn giọng nói chủ yếu trong tổn thương tiểu não.
1) Thất điều giọng nói có thể do cử động bất thường về biên độ và lực giống như
thất điều ở chi. Nói không chính xác và không đều dẫn đến nói líu nhíu, nói lắp và
giật giọng (âm thanh tách biệt và ngắn).
2) Giảm trương lực giọng nói là giọng nói đều đều không có độ cao thấp và cường
độ như nhau. Trên một nền giọng nói đơn điệu (monotonie) xuất hiện những từ,
những âm được phát ra bị cắt đứt, với cường độ mạnh (giọng nói như bị nổ ra:
parole explosive).
3) Sự phân tách giọng nói là giọng nói chậm, bất thường về ngữ điệu, giọng nói
như bị cắt ra thành nhiều phần. Nghỉ lâu giữa hai từ rất thường gặp.
c) Các rối loạn thị lực và vận nhãn:
Tiểu não tham gia vào việc duy trì chức năng nhìn dọc, nhìn ngang, vào những cử
động theo dõi chậm của mắt, vào sự điều hòa biên độ những cử động nhanh trong
quá trình cố định mắt, hoặc trong quá trình saccade của mắt. Tổn thương tiểu não

một số rối loạn như rối tầm của mắt, nystagmus của mắt.
Rối tầm của mắt (ocular dysmetria): trong những cử động nhanh để cố định mắt
(liếc mắt nhanh sang hướng khác) hai mắt có thể đi vượt quá mục tiêu và sẽ đong
đưa mắt qua lại trước khi đạt đến vị trí cố định. Rối tầm của mắt còn có thể thấy
khi mắt được điều chỉnh về lại vị trí đường giữa, hoặc khi cho mắt nhìn dõi theo
tay người khám và đột ngột dừng tay người khám lại. Rối tầm của mắt có bản chất
như là rối tầm của chi. Rối tầm của mắt có thể thấy trong những tổn thương tiểu
não do nhưng nguyên nhân như bệnh lý di truyên, do u não, do tai biến mạch máu
não
Nystagmus là cử động có nhịp của một hoặc cả hai mắt, xuất hiện khi hai mắt liêc
sang một bên hoặc hai mắt nhìn thẳng (ở vị trí đường giữa).
d) Thay đổi tư thế
Tư thế xoay của đầu cũng thường gặp trong những tổn thương tiểu não. Tuy nhiên
không thể dựa vào xoay sang hướng nào để xác định bên tổn thương. Đầu BN có
thể run theo nhịp và đôi khi ta thấy toàn thân BN run theo nhịp. Triệu chứng này
thường đi kèm với tổn thương thùy giun (vermis).

e) Các cơn gồng tiểu não
Các cơn ưỡn thân người và gồng cứng mất não có thể gặp trong những tổn thương
tiểu não, thường là những khối choán chỗ lớn ở đường giữa.
f) Mất nhận biết trọng lượng
Để đánh giá chính xác khối lượng một vật BN phải di chuyển các khớp. Giảm khả
năng phân biệt các trọng lượng khác nhau có thể xảy ra trong tổn thương vỏ não.
Tuy nhiên người ta cũng có thể nhận thấy trong các tổn thương tiểu não. Hiện
tượng này được nghiên cứu ở những BN có thất điều nửa người (hemiataxia). Bình
thường cử động và sự lắc qua lại của chi giúp cho việc đánh giá chính xác trọng
lượng, có lẽ loạn liên động (dysdiadochokinesia) là cơ sở của rối loạn cảm giác
này.
g) Chóng mặt
Tiểu não có có mối liên hệ phong phú với hệ tiền đình. Trong những tổn thương

tiểu não cấp tính, thường do nguyên nhân mạch máu, biểu hiện lâm sàng của BN
có thể chỉ là triệu chứng của tiền đình. Chóng mặt, buồn nôn, ói mửa có thể xuất
hiện mà có rất ít triệu chứng thất điều đi kèm. Rối loạn dáng đi và nystagmus có
thể lầm với nguyên nhân rối loạn tiền đình.
h) Chữ viết
Bệnh nhân viết chữ không đều và có cảm giác khó khăn khi viết, chữ viết thường
to, khoảng cách giữa các chữ không đều
VI. CÁC HỘI CHỨNG TIỂU NÃO (Xác định vị trí tổn thương tiểu não)
Sự phân chia các nhóm triệu chứng lâm sàng khác nhau để từ đó suy ra những tổn
thương giải phẫu học trên tiểu não là một điều khó khăn. Tiểu não không có những
điểm định vị tương ứng với cơ thể rõ ràng như là trên vỏ não (vỏ não vận động, vỏ
não cảm giác). Dù vậy, người ta vẫn chia ra 3 nhóm hội chứng lâm sàng –giải phẫu
học chính yếu trong tổn thương tiểu não. Những tổn thương đường giữa, nơi có
mối liên hệ với phản xạ tủy sống và tiền đình, sẽ ảnh hưởng đến các cử động về tư
thế của cơ thể. Sự kiểm soát vận động, nếu liên quan đến thân, trục của cơ thể thì
sẽ nằm ở đường giữa. Ngược lại những tổn thương những phần phía ngoài hơn sẽ
ảnh hưởng đến sự kiểm soát vận động của các chi, và sự vận động các chi này càng
ra phía ngoài thì càng chịu nhiều ảnh hưởng của vỏ não vận động nhiều hơn.
1/ Hội chứng tiểu não cổ (Archicerebellar syndrome): còn gọi là hội chứng tiểu
não - tiền đình hoặc hội chứng của thùy nhung nút. Vì có rất nhiều mối liên hệ với
hệ tiền đình nên hội chứng này có thể giống y như một bệnh lý tiền đình.
Rối loạn dáng đi là biểu hiện thường gặp nhất. Nó có thể là biểu hiện sớm nhất và
đôi khi chỉ biểu hiện bằng dáng đi không đều trong bệnh sử. Các cơ ở thân mình bị
ảnh hưởng nhiều nhất và khi khám ta sẽ thấy rối loạn thất điều thân mình rõ hơn
các cơ ở chi.
Ví dụ một em bé được chẩn đoán medulloblastome có thể cho hình ảnh LS điển
hình của hội chứng này.
Ngoài rối loạn dáng đi người ta có thể thấy rối loạn trong tư thế và dáng đứng. Đầu
có thể vẹo sang một bên, bên vẹo có khi là bên tổn thương, có khi là đối bên tổn
thương. Có thể có nystagmus ngang và thất điều giọng nói (ataxic dysarthria).

2/ HC tiểu não cũ (Paleocerebellar syndrome): còn gọi là hột chứng thùy trước.
Người bệnh có rối loạn các PX tư thế, có sự phân tách cử động hoặc loạn đồng vận
(dyssynergia). BN đi dạng chân đế, đi lảo đảo do thất điều nặng nề ở chân. Bệnh
nhân không thể thực hiện nghiệm pháp đi nối gót.
Không có tình trạng giảm trương lực cơ  không có hiện tượng đong đưa đầu gối
Hội chứng này thường thấy trong thoái hóa tiểu não do rượu hoặc do ung thư.
3/ Hội chứng tiểu não mới (Neocerebellar syndrome) : Còn gọi là hội chứng tiểu
não bên hoặc hội chứng bán cầu tiểu não. Đây là hội chứng thường gặp nhất, do có
sự cắt đứt mối liên hệ vỏ-cầu-tiểu não.
Hội chứng này có thể biểu hiện một bên hoặc hai bên. Bênh nhân có hiện tượng
giảm trương lực cơ, có hiện tượng đong đưa đầu gối, có thể có triệu chứng run khi
tổn thương phần lưng giữa của nhân răng.
Ngoài ra còn có rối loạn tư thế, BN có khuynh hướng ngã về bên bệnh. Khi bệnh
nhân có rối loạn rất rõ các cử động hữu ý mà còn giữ được dáng đi bình thường
(giữ được cơ ở trục thân mình còn bình thường) thì chúng ta có thể suy diễn ra
rằng tổn thương chỉ khu trú ở một bên bán cầu tiểu não. Ngoài ra bệnh nhân còn có
rối tầm rõ và có loạn liên động (dysdiadochokinesis) các chi cùng bên dẫn đến
hiện tượng run chủ ý và dấu Stewart-Holmes dương tính. Bệnh nhân còn có rối
loạn vận nhãn ví dụ như rối tầm.
Asthénie là triệu chứng nổi bật. Loạn vận ngôn (dysarthria) có thể thấy rất rõ, chủ
yếu là do tình trạng phân tách các động tác phát âm chứ không phải dơn thuần do
ataxie vận ngôn.
4/ Hội chứng nửa bán cầu tiểu não- Hội chứng toàn bộ tiểu não : khi có tổn thương
thùy nhung nút, thùy trước, thùy sau phối hợp lại ở một bên ta sẽ có hội chứng nửa
bán cầu tiểu não. Khi tổn thương toàn bộ các thùy của tiểu não ta sẽ có hội chứng
toàn bộ tiểu não hay hội chứng ataxie toàn thân. Hội chứng này thường thấy ở
những bệnh lý thoái hóa hoặc những bệnh lý ở giai đoạn cuối (các bệnh lý toxic,
metabolic)
Ngoài ra: một số tác giả có thể chia các triệu chứng thân nền ra làm hai nhóm:


*** Rối loạn tĩnh trạng: giảm trương lực cơ
*** Rối loạn động trạng: mất phối hợp vận động

IV. CẬN LÂMSÀNG
CT và MRI được dùng nhiều trong chẩn đoán các bệnh lý tiểu não. MRI có nhiều
thuận lợi hơn vì có độ phân giải tốt hơn, thấy được hình ảnh trong không gian 3
chiều, và không có hình ảnh giả do xương thái dương gây ra. Tuy nhiên MRI có
bất lợi là một số BN không thể chịu đựng được nó và những BN có gắn bộ phận
kim loại thì chống chỉ định
Lưu ý rằng có thể không có sự tương quan giữa mức độ teo tiểu não trên hình ảnh
học và tình trạng lâm sàng của BN. Teo tiểu não có thể xảy ra bình thường ở 1/3
các trường hợp người già.
Xét nghiệm dịch não tủy trong những trường hợp viêm nhiễm tiểu não
Nghi ngờ thoái hóa hay thất điều triệu chứng: cần làm các XN như tìm nồng độ
vitamine E, alpha Fetoprotein, các kháng thể chống ung thư như Anti-Hu, Anti-
Yo, Anti-Ri.
V. CĂN NGUYÊN
U tiểu não
Tai biến mạch máu tiểu não
Nhồi máu tiểu não
Xuất huyết tiểu não
Bệnh lý viêm nhiễm tiểu não
Thoái hóa và thất điều triệu chứng
Các NN khác :
U hố sau
Bất thường hố sau
Ngộ độc thuốc: thuốc ngủ, thuốc chống động kinh , thuốc gây ảo giác.

CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Mô tả các triệu chứng và dấu hiệu của thất điều tiểu não.

2. Mô tả tình trạng giảm trương lực cơ do tổn thương tiểu não.
3. Mô tả triệu chứng và dấu hiệu của phân tách các cử động trong hội chứng
tiểu não
4. Hội chứng tiểu não cổ, tiểu não cũ và tiểu não mới.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
Chọn 1 hoặc nhiều câu đúng
1. Hội chứng tiểu não gồm tất cả những triệu chứng sau ngoại trừ:
A. Rối tầm
B. Mất liên động (adiadococinésie)
C. Run lúc cử động, lúc vận động
D. Giảm trương lực cơ
E. Dấu Romberg
2. Trong hội chứng tiểu não, run đặc biệt rõ khi có tổn thương của
A. Thùy nhộng
B. Bán cầu
C. Cuống tiểu não giữa
D. Cuống tiểu não trên
E. Cuống tiểu não dưới
3. Trong các dấu hiệu sau, dấu hiệu nào có thể là bằng chứng của hội chứng
tiểu não động trạng một bên:
A. Rối tầm bên tổn thương
B. Giảm trương lực cơ bên tổn thương
C. Có phản xạ đong đưa đầu gối bên tổn thương
D. Tăng trương lực cơ kiểu co cứng bên tổn thương
E. Dị cảm bên tổn thương
4. Thất điều tiểu não được đặc trưng bởi
A. Đứng dạng chân đế
B. Dáng đi lết bàn chân (steppage)
C. Khi đứng gân cơ chày trước “nhảy múa”
D. Dấu Romberg

E. Dáng đi dận gót chân xuống nền nhà (dáng đi “talonnant”)
5. Hội chứng tiểu não gồm những triệu chhứng sau ngoại trừ:
A. Đứng dạng chân đế
B. Khi đứng có khuynh hướng ngã ra sau
C. Các rối loạn nặng lên khi nhắm mắt
D. Khi đứng gân cơ chày trước “nhảy múa”
E. Thất điều dáng đi
6. Trong hội chứng tiểu não đơn thuần, người ta có thể gặp các dấu hiệu sau
ngoại trừ:
A. Giảm trương lực cơ
B. Nói khó (dysarthrie)
C. Dấu Babinski
D. Run
E. Thất điều
7. Tổn thương bán cầu tiểu não phải có thể có:
A. Rối tầm tay phải
B. Loạn liên động tay phải
C. Điếc tai phải
D. Tăng trương lực cơ
Chọn câu trả lời thích hợp nhất từ câu 8-12
A. Nhìn mờ cả hai mắt
B. Song thị
C. Thất điều
D. Chóng mặt
E. Có các triệu chứng vận động cảm giác kiểu “bắt chéo”
8. Tổn thương nhân tiền đình - ở hành não, cầu não
9. Tổn thương tiểu não hoặc các đường liên hệ tiểu não
10. Tổn thương nhân vận nhãn - ở trung não và cầu não
11. Tổn thương các đường vận động cảm giác dài, các nhân dây sọ
12. Tổn thương vỏ não – thùy chẩm

Đáp án
1. E
2. 2.D
3. A, B, C
4. A, C
Ngoài ra còn có tình trạng bệnh nhân đứng không thăng bằng lắc lư
(tình trạng này không nặng lên khi nhắm mắt); giảm trương lực cơ,
mất phản xạ tư thế
5. B,C
B: đây là dấu hiệu rối loạn thăng bằng người già
C: đây là dấu hiệu thất điều của rối loạn cảm giác sâu
6. C
7. A
8. D. Đây là triệu chứng thường gặp nhất của nhồi máu não hệ động
mạch cột sống thân nền; nó có thể là triệu chứng của migraine
động mạch thân nền.
9. C. Thất điều là triệu chứng thường gặp trong tổn thương tiểu não,
tuy nhiên bệnh nhân có thể té đột ngột mà không có dấu hiệu báo
trước.
10. B. Đây cũng là một trong những triệu chứng thường gặp nhất của
nhồi máu não hệ động mạch cột sống thân nền và có thể là biểu
hiện của migraine động mạch thân nền. Tuy nhiên nó cũng có
thể là dấu hiệu chỉ điểm quan trọng cho tổn thương thân não do
những nguyên nhân khác.
11. E. Hội chứng chéo thường là dấu chỉ điểm giúp chúng ta nghĩ
ngay đến tổn thương khu trú tại thân não. (hội chứng chéo là
nhưng hội chứng như : liệt dây III (P) và liệt ½ người (T), tê ½
mặt (P) và tê ½ người (T). “Chéo” ở đây có nghĩa là tổn thương
mặt (các dây sọ) ở một bên và tổn thương thân mình ở bên đối
diện.

12. A
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/-Adams RD. Priciples of neurology. 6
th
Ed. McGrawhill, Inc.1997.
2/- DeJong’s The Neurologic examination. 5
th
Ed. Lippincott Raven,
1992.
3/-Lê văn Thành . Bệnh học thần kinh. Nhà xuất bản Y học .Tp HCM. 1990.
4/- Cambier J., Masson M., Dehen H. et al. Neurologie. 7
eme
edn, Masson,
Paris 1994.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×