Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

TẢN ĐÀ – KIỂU NHÀ THƠ GIAO THỜI_2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.58 KB, 7 trang )

TẢN ĐÀ – KIỂU NHÀ THƠ GIAO THỜI

Thêm nữa, ngay từ bài tản văn đầu tiên của mình in trên Đông dương tạp
chí, Tản Đà đã được tán thưởng đặc biệt đến mức ông chủ bút Nguyễn
Văn Vĩnh - với tất cả sự nhạy bén về thị trường của một nhà báo chuyên
nghiệp - đã phải mở và dành riêng một mục cho Nguyễn Khắc Hiếu lấy
tên là Một lối văn Nôm. Một loạt những bài tản văn tiếp theo như: Cái
chứa trong bụng người, Giá ngày, Giá người, Giải sầu đưa lại cho
Nguyễn Khắc Hiếu một địa vị danh tiếng trong văn đàn. Những nguyên
cớ trên lý giải vì sao Tản Đà đã mạnh dạn để đến với văn học chuyên
nghiệp một cách quyết liệt và triệt để đến thế - một lựa chọn mà ngay cả
những nhà văn ở giai đoạn 1932-1945 sau này không phải ai cũng có
được.

Thực tế này đã đem lại những nét thật sự mới mẻ trong quan niệm về
văn học của Tản Đà. Ngay từ năm 1916, trong lời đề tựa cho tập Khối
tình con thứ nhất, người ta đã bắt gặp một chân dung và một tuyên ngôn
cho sự tồn tại của một loại hình nhà văn mà rồi đây sẽ chiếm vị trí chủ
đạo trong đời sống văn học:

Còn non còn nước còn trăng gió
Còn có thơ ca bán phố phường

Trong quan niệm truyền thống, văn học là một thứ quà tặng để thù tạc.
Điều này giải thích vì sao trong văn học trung đại bất chấp một khối
lượng lớn những tác phẩm được sáng tác thì trong đời sống vẫn không
có khái niệm thi sĩ, khái niệm nhà văn. Người ta gọi Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến theo phẩm hàm, học
vị. Những danh hiệu đó dường như tôn quý hơn và cũng rộng lớn hơn
danh hiệu thi sĩ. Làm thơ không phải là một nghề, nó là một phần (được
đề cao nhưng không bắt buộc phải có) trong hoạt động sống của một ông


quan, của một nhà khoa bảng. Trong sự đối sánh ấy, cái tuyên ngôn về
“thơ ca bán phố phường” của Tản Đà là một sự khai sinh cho một danh
phận mới: nhà văn chuyên nghiệp, cũng đồng thời nó đem đến cho văn
học một thuộc tính mới: thuộc tính hàng hóa. Từ quan niệm mới mẻ về
văn học này, Tản Đà sẽ tổng kết cuộc đời mình với tư cách của một
người: Khi làm chủ báo lúc viết mướn (Tiễn ông Công lên chầu trời).
Chỉ từ Tản Đà người ta mới bắt gặp những trải nghiệm thật mới mẻ của
một người viết văn với những điều kiện khắc nghiệt của thị trường: Bao
nhiêu củi nước mới thành văn/Được bán văn ra chết mấy lần/Ông chủ
nhà in in đã đắt/Lại ông hàng sách mấy mươi phân (Lo văn ế)

Với những mới mẻ trong cách thế hành nghề cũng như trong tầng sâu
quan niệm văn học như trên Tản Đà xứng đáng được xem là người tiên
phong trên con đường vận động từ lối viết văn làm thơ của nhà Nho
sang lối viết văn làm thơ của một nhà văn chuyên nghiệp.

2. Tuy nhiên con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp của Tản Đà
càng về sau càng trở nên quanh co và chung cuộc trở thành dang dở.

2.1 Nhà văn chuyên nghiệp và văn chương trở thành hàng hóa - những
quan niệm mới mẻ này kéo theo nó một loạt những hệ quả mà quan
trọng nhất là tác động của người đọc đến sáng tác của nhà văn. Tự nhìn
nhận mình với chức phận: đem “thơ ca bán phố phường” một cách tự
nhiên những nhu cầu, thị hiếu của tầng lớp thị dân đã có những tác động
không nhỏ đến thực tế sáng tác của Tản Đà. Những tác phẩm xoay
quanh đề tài du ký, những câu chuyện tình ái với hình bóng của các giai
nhân trong hầu hết những sáng tác của ông cũng như những sầu muộn
vẩn vơ trong các tập Khối tình con một phần là xuất phát từ cá tính
sáng tạo của Tản Đà nhưng mặt khác cũng có sự gợi ý và kích thích từ
phía môi trường của độc giả những thập kỷ hai mươi trong môi trường

đô thị. Dễ dàng nhìn thấy những tương đồng (ở những mức độ đậm nhạt
khác nhau) trong các đề tài và mô- tip nghệ thuật nói trên giữa Tản Đà
và một loạt những cây bút đương thời như: Nguyễn Bá Trác, Đoàn Như
Khuê, Phạm Quỳnh và muộn hơn một chút là Đông Hồ, Tương Phố,
Hoàng Ngọc Phách Những tương đồng này cho thấy rất rõ đằng sau
những sáng tác văn học là những nhu cầu và thị hiếu mới của thời đại
mà những người cầm bút một khi đã đi vào con đường một nhà văn
chuyên nghiệp ít nhiều đều chịu sự tác động và định hướng của chúng.

2.2 Tuy nhiên, người ta còn bắt gặp một cách hệ thống những quan niệm
văn học của nhà Nho truyền thống - đóng vai trò như một khung khổ
định trước trong tư duy về văn học của Tản Đà.

Tản Đà là người tự tín và thành thật. Ông tự khen thơ mình nhiều lần và
tỏ ra đặc biệt tự hào về thi tài của mình. Nhưng còn có một niềm tự hào
khác - cũng là một chức phận mà Tản Đà rất mực đề cao, xem đó như
mục đích tối thượng cho hoạt động sáng tác của mình: truyền bá thiên
lương cho nhân loại (Hầu trời). Chức phận này Tản Đà suốt đời chẳng
bao giờ nguôi quên: Hai chữ “thiên lương” thằng Hiếu nhớ/Dám mong
không phụ Trời trông mong (Tiễn ông Công lên chầu Trời). Quan điểm
đem văn chương phục vụ cho nhiệm vụ truyền bá thiên lương này, một
lần khác, được Tản Đà trình bày một cách khúc chiết và có lập luận chặt
chẽ hơn qua lời của Chu Kiều Oanh: “Văn chương có trọng giá, không
phải là một sự đùa vui trong ý thú, không phải là một sự đua vui trong
phẩm bình, mà phải có bóng mây hơi nước đến dân xã Sao cho nhân
tâm, phong tục được thuần chính, dân trí tư tưởng được khai minh, là
chức trách của ngòi bút đại văn gia”. Với cách hiểu này văn chương
được đề cao rất mực nhưng cái làm nên giá trị của văn chương không
phải ở tự thân văn chương mà ở chức năng giáo huấn, ở khả năng khai
minh, chính tâm cho xã hội - một sự tái hiện trọn vẹn cho mệnh đề “văn

dĩ tải đạo” quen thuộc của Nho gia.

Giai đoạn giao thời là sự đan xen của hai hệ thống thể loại cũ - mới. Bên
cạnh văn - thơ - phú - lục của truyền thống còn là những thể loại mới có
nguồn gốc từ phương Tây: truyện ngắn, tiểu thuyết Vấn đề không chỉ
là sự phức tạp trong hệ thống thể loại, cơ bản hơn, còn là sự phức tạp
trong cách thức phân loại. Trong bài báo Chữ Nho với chữ Quốc ngữ
(1918), Phạm Quỳnh đề xuất quan điểm: “Văn có nhiều lối đã đành, mà
văn cũng có nhiều hạng”. Nhiều lối là sự khác biệt về thể loại, phong
cách. Nhiều hạng lại là sự phân biệt về tôn ty: cao - thấp, trên - dưới,
khinh - trọng. Phân chia các thể loại theo cả hai tiêu chí: nhiều lối và
nhiều hạng cũng là đặc điểm nổi bật trong quan niệm thể loại của Tản
Đà mà tiêu biểu nhất là trong bài Hầu Trời (1921):

Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi

Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời

Trong một loạt những cách gọi tên trên thấy có sự phân loại theo lối: văn
vần và văn xuôi nhưng sự đối lập giữa văn thuyết lý và văn chơi, văn vị
đời và văn chơi là phân loại theo thứ hạng. Mặc dù thành danh với Giấc
mộng con nhưng trong quan niệm của mình Tản Đà không xem trọng
tiểu thuyết như tản văn. Sau này khi giới thiệu Giấc mộng lớn, Tản Đà
cũng giữ quan điểm này: “chẳng qua là một cuốn văn chơi (TVT nhấn
mạnh), tưởng cũng không quan hệ đến những lời phẩm bình của các bậc
đại nhã cao nhân vậy”. Văn vị đời - có bóng mây hơi nước đến dân xã -
mới là thể loại mà Tản Đà xem trọng. Ông khẳng định: “Văn chương mà

không được như các văn Lư Thoa, Lương Khải Siêu thời sự nghiệp có
đáng giá là mấy”. Đặt tâm tư học lực của mình vào tản văn chính là một
kỳ vọng của Tản Đà vào một sự nghiệp văn chương của Khang, Lương,
Lư Thoa - những hình mẫu cho hạng văn vị đời của ông.

Với những quan niệm về tính chất và thể loại văn học như trên dễ hiểu là
vì sao từ 1926 trở đi Tản Đà bỏ hẳn những sáng tác thuộc hệ thống thể
loại văn chơi để chuyển sang viết báo tuyên truyền cho thuyết thiên
lương, kỳ vọng vào một sự nghiệp văn chương giáo hóa, chính nhân
tâm, thuần phong tục. Oái oăm thay, lựa chọn này đã khiến ông xa rời
quỹ đạo của một nhà văn chuyên nghiệp để trở về với kiểu văn học nhà
Nho truyền thống. Áp lực từ phía thị hiếu của độc giả bị thay thế bởi
những hành xử quen thuộc trong sáng tác văn học truyền thống. Sự “lại
giống” này (chữ dùng của GS Trần Đình Hượu), như thực tế cho thấy,
chẳng những khiến Tản Đà đánh mất độc giả mà, cơ bản hơn, nó đồng
thời làm mất đi nhu cầu và khả năng (vốn dĩ rất dồi dào) tìm tòi đổi mới
văn học theo hướng hiện đại trong những sáng tác ở giai đoạn trước đó
của ông. Là một trong những đại diện đầu tiên ở vào thời điểm phôi thai
của nền văn học mới cùng với không ít những hăm hở “phá cách vứt
điệu luật” nhưng hấp lực từ quan niệm văn học truyền thống đã khiến
Tản Đà càng đi càng trở nên bối rối, chậm bước để rồi trở lại với điểm
xuất phát ban đầu. Quả thực, không phải cứ có một quan niệm mới là có
ngay những tác phẩm có giá trị nhưng nếu không được định hướng từ
một quan niệm văn học thực sự mới mẻ thì ngay cả với một tài năng cỡ
Tản Đà cũng khó có được khả năng và một xung lực cần thiết cho những
cách tân nghệ thuật đích thực.

×