Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

NHIỄM VIRUS RUBELLA VÀ THAI KỲ docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.15 KB, 3 trang )

YHSS
3
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
R
ubella còn được gọi là sởi Đức (vì lần đầu tiên
được phân biệt với “sởi thường” vào giữa thế
kỷ 18 tại nước Đức), là một bệnh lý nhiễm siêu vi
nhẹ nếu ở người bình thường, nhưng nếu nhiễm ở
người có thai thì sẽ gây nhiều tác hại cho thai nhi và
sơ sinh: sẩy thai và nhiều khuyết tật bẩm sinh nặng.
Theo kinh nghiệm của các nước như Đức, Hoa Kỳ,
thì bệnh thường xuất hiện và
o mùa xuân, với chu kỳ
dòch bệnh là 6 - 9 năm.
Thời kỳ ủ bệnh trung bình là 18 ngày (từ 12 đến 23
ngày). Triệu chứng gồm các triệu chứng nhiễm siêu
vi như sốt, mệt mỏi, nhức đầu, chảy nước mắt…và
triệu chứng phát ban sau khi khởi sốt và kéo dài từ
3 đến 5 ngày. “Ban” ở đây là những mảng đỏ, có thể
nhỏ hay to, đường kính thường là một vài mm, nổi rời
rạc chứ không tụ lại thành những mảng to như nổi
mề đay. Bệnh nhân bắt đầu nổi ban từ tre
ân đầu, mặt,
từ đường chân tóc xuống thân người. Hạch bạch
huyết thường nổi to ở sau vành tai, cổ và dưới xương
chẩm. Ở bệnh nhân là người lớn, nhất là ở phụ nữ,
thường có triệu chứng đau khớp, xuất hiện khi bắt
đầu sốt và kéo dài đến một vài tuần sau khi hết
bệnh. Có nhiều trường hợ
p nhiễm Rubella nhưng với
triệu chứng không rõ ràng, chỉ sốt nhẹ, đau nhức


xương khớp. Biến chứng ít gặp như xuất huyết do
giảm tiểu cầu và biến chứng nguy hiểm tuy ít xảy ra
là viêm não, thường xuất hiện ở bệnh nhân là người
lớn hơn là ở trẻ em. Tỷ lệ tử vong khi bò biến chứng
viêm não là 20 – 50%.
Bệnh nhân lây cho người khác qua những giọt nước
miếng nhỏ li ti văng ra khi nói chuyện. Virus xuất
hiện trong cổ họng của bệnh nha
ân từ trước khi có
BS. Nguyễn Thò Ngọc Phượng
4
YHSS
triệu chứng và kéo dài đến khoảng một tuần sau khi
phát bệnh; đối với các bé sơ sinh nhiễm Rubella
bẩm sinh, virus có thể tồn tại trong cổ họng đến 2
năm. Những người tiêm vaccine Rubella, tuy rất ít
khi lây truyền virus cho người xung quanh, nhưng
cũng có virus tìm thấy ở cổ họng với số lượng thấp.
Virus hiện diện trong máu của người bò nhiễm
khoảng một tuần trước khi phát bệnh và biến mất
khỏi cơ thể bệ
nh nhân vài ngày sau khi phát ban.
Sau khi mắc bệnh Rubella, người bệnh đã tạo được
miễn dòch dòch thể và miễn dòch tế bào. Tuy nhiên,
khi đề kháng cơ thể giảm xuống, người nầy vẫn có
thể bò tái nhiễm, có virus trong cổ họng nhưng ít
hoặc không có triệu chứng lâm sàng và không có
virus hiện diện trong máu.
CHẨN ĐOÁN RUBELLA
Có thể thực hiện bằng các phương pháp:

RUBELLA BẨM SINH
Virus Rubella là loại tác nhân gây nhiều khuyết tật
bẩm sinh nặng. Người ta đã quan sát, ghi nhận rằng:
Khoảng 50% bà mẹ sinh con có khuyết tật, đã từng bò
sốt nổi ban mảng đỏ trong khi mang thai. Khoảng
50 - 80% phụ nữ mang thai nhiễm Rubella trong 12
tuần đầu tiên và 30% phụ nữ mang thai từ tuần 13
của thai kỳ trở đi sẽ sinh con có một hoặc nhiều
khuyết tật sau:
Hầu hết những khuyết tật na
ày, hoặc chỉ xuất hiện sau
khi sinh hoặc chỉ là những khuyết tật chức năng, nên
không thể phát hiện bằng cách theo dõi thai qua siêu
Cấy virus trong cổ họng hay nước tiểu: đắt tiền
nên rất ít khi được sử dụng.
Dùng PCR, được sử dụng nhiều hơn.
Đònh lượng kháng thể IgM và IgG trong huyết
thanh thông dụng nhất: IgM xuất hiện sớm trong
huyết thanh của bệnh nhân nhiễm Rubella lần
đầu hoặc tái nhiễm. Cũng có những trường hợp
IgM âm tính gia
û hay dương tính giả. IgG cần
được xét nghiệm hai lần và nếu có tăng lên 4 lần
thì mới khẳng đònh được có mắc bệnh - một lần
khi đang bệnh và một lần trong thời kỳ hồi phục.
Rubella bẩm sinh được chẩn đoán khi phân lập
được virus hoặc PCR dương tính hoặc IgM
dương tính hoặc có hồ sơ chứng minh IgM và
IgG vẫn dương tính trong 1 năm sau sinh; hoặc
các kháng thể nầy đột nhiên tăng trong những

năm sau ở một trẻ chưa tiêm chủng.




Dò tật mắt: đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, nhãn
cầu nhỏ và dò tật khác.
Dò tật tim: tồn tại ống động mạch, thông liên thất
hay liên nhó hay cả hai, hẹp động mạch phổi
v v…
Tai điếc do thần kinh.
Dò tật thần kinh trung ương: đầu nhỏ hay thoái
hóa não, có thể đưa đến viêm não - màng não.
Chậm phát triển thể lực và tâm thần.
Thiếu máu và giảm tiểu cầu.
Gan lách to, vàng da nặng.
Tinh hoàn ẩn, thóat vò bẹn.
Động kinh hoặc có cơn gồng co cứ
ng toàn thân
v v….









ĐIỀU TRỊ RUBELLA

Cho đến nay, vẫn chưa có cách điều trò Rubella.
Chỉ có điều trò triệu chứng: sốt, đau nhức xương khớp…
Người ta cũng đã bỏ việc tiêm Immunoglobuline cho
các bà mẹ mang thai bò nhiễm Rubella vì nó cũng
không giúp được ngăn chận virus xuất hiện trong
huyết thanh sau khi nhiễm bệnh.
YHSS
5
âm. Các trường hợp mẹ mang thai bò tái nhiễm cũng
có thể đưa đến khuyết tật bẩm sinh tuy nhẹ hơn.
DỰ PHÒNG NHIỄM RUBELLA
Từ năm 1962, sau một đại dòch Rubella xảy ra tại
Hoa Kỳ, người ta đã phân lập được virus Rubella và
đến năm 1969, vaccine chống lại Rubella đã được
công nhận hiệu quả, an toàn và được bán ra trên thò
trường. Hiện nay, ở các nước phát triển, hầu như
rất hiếm gặp bệnh nhiễm nầy vì có chương trình
tiêm vaccine rộng rãi dự phòng Rubella. Từ năm
2001 – 2004, tại Hoa Kỳ chỉ có 14 trường hợp nhiễm
Rubella được ghi nhận và bá
o cáo, nhưng chỉ có 4
trường hợp Rubella bẩm sinh; 3 trong số nầy là do
các bà mẹ vừa di dân sang.
Tại Hoa Kỳ, dù đã có chương trình tiêm chủng
Rubella từ 1969, nhưng cũng chỉ có khoảng 91%
người lớn và 95% trẻ em độ tuổi đi học là có kháng
thể chống lại Rubella. Năm 2003, Tổ chức Y tế thế
giới đã thông báo, có 57% các nước đã đưa vaccine
Rubella vào chương trình tiêm chủng quốc gia, và
Rubella vẫn còn có những trận dòch xảy ra hằng

năm ở nhiều nơi trên thế giới.
Đặc điểm vaccine dự
phòng Rubella có trên thò
trường hiện nay:
Là những virus sống, đã được làm giảm độc tính.
Vaccine hiện nay có tính sinh kháng thể cao hơn
vaccine của những năm đầu tiên, sau 1969.
95% người được tiêm có kháng thể chống lại
virus Rubella trong vài tuần.
Chiến lược tiêm vaccine dự phòng Rubella được
To å chức y tế thế giới khuyến cáo hiện nay là: tiêm
mũi đầu tiên cho trẻ
12 – 15 tháng tuổi và tiêm
nhắc lại một lần trong tuổi đi học. Nhân viên y tế
cả nữ lẫn nam đều phải tiêm vaccine để hạn
chế số lượng người mang virus trong môi trường
bệnh viện.
Vaccine đôi khi gây ra viêm đau khớp, nhất là ở
phụ nữ trẻ; tuy nhiên triệu chứng nầy chỉ kéo dài
khoảng một tuần.
Chống chỉ đònh tiêm vaccine Rubella: có thai và
các bệnh nhân đang bò bệnh hay đang sử dụng
thuốc gây suy giảm miễn dòch. Đối với phụ nữ,
tuyệt đối kho
âng tiêm vaccine trong khi mang thai
và chỉ nên để có thai 3 tháng sau khi tiêm mũi
cuối cùng. Bà mẹ chưa có kháng thể bảo vệ
chống Rubella lại đang mang thai có thể tiêm
vaccine cho các con trong nhà tuy rằng trong cổ
họng của các bé sẽ có sự hiện diện của một

lượng ít virus.






×