Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

GÂY MÊ CHO PHẪU THUẬT NGOẠI TRÚ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.69 KB, 4 trang )

GÂY MÊ CHO PHẪU THUẬT NGOẠI TRÚ

Một trong những thay đổi lớn nhất trong hệ thống chăm sóc sức khoẻ trong 2 thập
kỷ qua là sự chuyển từ phẫu thuật nội trú sang phẫu thuật ngoại trú. Khái niệm gây
mê và phẫu thuật ngoại trú đã được biết đến nhiều năm. Năm 1899 Ries thông báo
rằng những bệnh nhân gây mê phẫu thuật ngoại trú tỉnh sớm và biến chứng ít hơn.
Năm 1900, Cushing mô tả phẫu thuật phục hồi khối thoát vị bằng cách sử dụng
Cocain tê tại chỗ. Năm 1909 Nicoll báo cáo 1 loạt các trường hợp phẫu thuật ngoại
trú ở trẻ em, Ông nhấn mạnh sự cần thiết phải lựa chọn bệnh nhân cẩn thận. Người
ta ước tính rằng trên 60% các ca phẫu thuật mổ phiên được thực hiện ở Mỹ và
Canada, còn ở United Kingdom hơn 50% các trường hợp mổ phiên được phẫu
thuật ngoại trú. Tại châu á, nghiên cứu của Thái về biến chứng gây mê ở 20 bệnh
viện ở khắp TháI lan (n=163;403) cho thấy chỉ có 7% các bệnh nhân mổ ngoại trú
được gây mê. Tuy nhiên do vấn đề kinh tế và sự quá tải nhiều bệnh viện đang mở
rộng dịch vụ mổ ngoại trú, với nỗ lực này giúp chúng tôi tìm ra cách để thu hẹp
khoảng trống trong gây mê.
Lựa chọn bệnh nhân:
Các bệnh nhân được lựa chọn căn cứ vào: Thứ nhất là tình trạng sức khoẻ, thứ 2
diều kiện kinh tế. Những bệnh nhân này có ASA 1 hoặc 2, bao gồm cả tình trạng
bệnh lý gần đây được kiểm soát như: Tăng huyết áp, Đái tháo đường không phụ
thuộc Insulin. Giới hạn trên của chỉ số khối của cơ thể là 30- 34 (kg/m
2
) được áp
dụng ở 1 vài nơi phẫu thuật ngoại trú. Tuổi cao nhất là trên 70 tuổi, cần đánh giá
các xét nghiệm sinh học nhiều hơn là thời gian tuổi tác, cũng cần quan tâm đến
khoảng cách từ bệnh viện đến nhà bệnh nhân và người chịu trách nhiệm chăm sóc
bệnh nhân tại nhà trong 24 giờ đầu.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng các câu hỏi đơn giản trước khi phẫu thuật có thể có
hiệu quả trong việc lựa chọn bệnh nhân để xác định các bệnh lý thường gặp. Hội
chẩn cản tạân với các bác sĩ gây mê để làm giảm tối thiểu các vấn đề. Những trẻ
sơ sinh đẻ non chưa được 60 tuần tuổi nên được cân nhắc với phãu thuật ngoại trú


và xem xét vấn đề hỗ trợ hô hấp. Bố mẹ chúng có thể phải được hướng dẫn cách
chăm sóc trước và sau cuộc phẫu thuật.
Chuẩn bị bệnh nhân
Một vài nghiên cứu chỉ ra rằng các dung dịch có thể an toàn nếu được uống trên 2
giờ trước phẫu thuật mà không làm tăng thể tích dịch dạ dày. Hơn nữa dịch đưa
vào bằng đường uống có thể làm pha loãng dịch dạ dày, làm rỗng dạ dày. Kết quả
là làm giảm thể tích dịch dạ dày. Một ưu điểm nữa là những bệnh nhân này sẽ thấy
không thoải mái nếu hạn chế uống nước trước khi mổ, kết quả của việc cho uống
đường miệng làm giảm lo lắng, giảm cảm giác khát và đói. Uống nhiều nước trước
mổ sẽ làm giảm buồn ngủ, chóng mặt, khát cũng như mệt mỏi và nôn sau phẫu
thuật. Đối với nhiều bệnh nhân có nguy cơ trào ngược phổi nên dùng kháng H
2

Metoclopramide có thể làm giảm acid và thể tích chứa trong dạ dày.
Kỹ thuật vô cảm
Phẫu thuật ngoại trú có thể sử dụng gây mê toàn thân, tê vùng hoặc tê tại chỗ.
Ngoài ra thường sử dụng thuốc an thần đối với bệnh nhân tê vùng. Các trang thiết
bị mới như là Fine pencil-pointed (Whitacre, kim Sprotte) cho phép phòng PDPH,
những thuốc mê và thuốc giãn cơ mới (ví dụ: Sevoran, Desflurane, Mivacurium,
Rapacurium) được tìm thấy. Mast thanh quản và ống combitude ngày nay đã được
sử dụng. Ưu điểm của thiết bị này bao gồm thông thoáng đường thở và tiết kiệm
thuốc mê, giảm tai biến đau họng sau mổ, giảm sự rối loạn huyết động cấp tính
trong khởi mê và thoát mê, tránh phải dùng giãn cơ và thuốc đối kháng giãn cơ.
Giảm đau và nôn sau mổ:
Có nhiều loại thuốc giảm đau được sử dụng sau mổ.Điều quan tâm đầu tiên khi sử
dụng thuốc giảm đau opioid là làm tăng biến chứng nôn và buồn nôn sau mổ. Gần
đây việc tăng sử dụng thuốc giảm đau chống viêm Non-steroidal có thể làm giảm
nhu cầu sử dụng opioid sau mổ.
Kết luận:
Việc mở rộng gây mê và phẫu thuật ngoại trú tiếp tục được phát triển trong các

phẫu thuật nhỏ.Việc mở rộng gây mê ngoại trú có thể sẽ khác nhau giữa các nước
phụ thuộc vào nhu cầu của từng địa phương, mức độ phát triển của dịch v ụ chăm
sóc sức khoẻ tại nhà và khả năng kinh tế.Việc sử dụng thuốc và kỹ thuật mới cho
gây mê ngoại trú tạo điều kiện cho việc tỉnh sớm. Những khoảng trống này có thể
được thu hẹp bằng cách áp dụng phương pháp gây mê ngoại trú với chất lượng cao
với giá thành thấp.

×