Lược sử ngoại giao VN các thời trước
Chương tám
NGOẠI GIAO THỜI LÊ - TRỊNH NGUYỄN
( Thế kỷ XVI - XVII ) – phần 1
Năm 1529 Nguyễn Kim tập hợp lực lượng tiến đánh
nhà Mạc để khôi phục ngôi vua cho nhà Lê. Công
cuộc chưa thành thì năm 1545, ông bị đầu độc chết.
Quyền bính rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm.
Sợ các con Nguyễn Kim đòi chia sẻ quyền lực với
mình, Trịnh Kiểm mưu giết con cả Nguyễn Kim là
Nguyễn Uông.
Con trai thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ tai vạ
tới mình, năm 1558 xin đi trấn thủ Thuận Hóa, tạo cơ
sở cho sự hình thành chính quyền họ Nguyễn ở Nam
Hà sau này.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết. Trịnh Tùng là con thứ,
giành quyền thay cha làm Tả thừa tướng, Tiết chế
chư quân. Năm 1599, Trịnh Tùng tự xưng Đô nguyên
soái, Tổng quốc chính, Thượng phụ, Bình An vương,
định lệ cấp bổng lộc cho vua Lê: được thu thuế 1.000
xã để tiêu dùng và 5.000 lính làm quân túc vệ. Còn
việc dân, việc nước, việc trong triều ngoài trấn đều
trong tay họ Trịnh, cha truyền con nối cầm giữ chính
quyền, lập thành một họ Chúa: Chúa Trịnh. Ở trong
Nam, Nguyễn Hoàng và con cháu cũng biệt lập một
chính quyền riêng, tự ý cha truyền con nối, cũng trở
thành một dòng họ Chúa: Chúa Nguyễn. Hai họ
Trịnh - Nguyễn chia đôi sơn hà, lấy sông Gianh
(Quảng Bình) làm ranh giới Nam Bắc, có triều đình
riêng, có quân đội riêng, có chính sách đối nội đối
ngoại riêng. Họ đã gây nội chiến, bảy lần đem đại
quân, mỗi lần hàng chục vạn người, đánh phá lẫn
nhau thật ác liệt.
Đối với bên ngoài, hai họ Trịnh - Nguyễn đều muốn
tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nước này nước
khác, để có lợi thế đánh phá lẫn nhau.
I- NGOẠI GIAO CỦA LÊ - TRỊNH Ở BẮC HÀ
1. Quan hệ với Trung Quốc
Bắc Hà tiếp tục nền nếp giao hảo với Trung Quốc,
cầu phong, nộp cống như các thời trước. Cầu phong,
như chúa Trịnh Tráng đã nhận định là để "lấy văn
bản có tính pháp lý”(Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử)
của nước lớn bảo đảm an ninh an toàn của nước nhỏ.
Năm 1637, chúa Trịnh cho sứ sang Trung Quốc cầu
phong cho vua Lê, nhưng nhà Minh lúc này đã suy
yếu không dám gia phong, chỉ gửi chiếu thư, “vỗ về
khen ngợi". Tuy vậy thái độ nước lớn không thay đổi,
vẫn ngạo nghễ, hống hách với nước nhỏ. Khoảng
năm 1630, một sứ thần của ta là Giang Văn Minh tới
Bắc Kinh. Trong một buổi triều kiến, vua Minh ra
câu đối cho sứ ta:
"Đồng trụ chí kim tồn cổ lục”.
(Đồng trụ tới nay, rêu xanh chưa hết)
Ý muốn nhắc lại rằng cột đồng trụ mà xưa Mã Viện
(thời Hán) dựng lên khi hắn đánh chiếm Việt Nam tới
nay vẫn còn đấy.
Giang Văn Minh không chịu khuất phục đáp lại bằng
vế đối:
“Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
(Bạch Đằng tự xưa máu đỏ vẫn còn)
Với vế đối của mình, Giang Văn Minh cũng nhắc lại
rằng: sông Bạch Đằng từ xưa vẫn còn đỏ máu giặc
xâm lược, để khẳng định nhân dân ta đã nhiều lần
đánh thắng ngoại xâm và cảnh cáo đừng kẻ ngoại
bang nào mưu đồ xâm lược nước ta mà thất bại.
Năm 1644, người Mãn Châu tiến vào xâm lược
Trung Quốc, đánh đổ nhà Minh, lập triều Thanh.
Nhưng nhà Thanh chưa tiến quân xuống tới miền
nam Trung Quốc. Trước tình hình. đó, năm 1647,
Trịnh Tráng cho quân ta sang chiếm giữ Quảng Tây.
Nhà Thanh từ Bắc Kinh phải cho người tới giao thiệp
với chúa Trịnh. Chúa Trịnh mới rút quân về.
Đầu năm 1651, nhà Minh bị quân Thanh đánh đuổi
phải chạy tản đi. Một người trong hoàng tộc nhà
Minh lập triều đình ở Nam Ninh (Quảng Tây) cho
người sang ta cầu cứu. Vua Lê, chúa Trịnh cho đem
quân và lương sang giúp Minh chống Thanh. Cuối
năm 1651, nhà Minh cho sứ sang phong Trịnh Tráng
làm Phó quốc vương.
Năm 1663, nhà Minh không còn, vua Thanh cho sứ
sang Việt Nam. Chúa Trịnh cho sứ sang đáp lễ. Năm
1667, vua Thanh là Khang Hy phong vua Lê làm An
Nam quốc vương. Nhưng việc giao hảo giữa ta và
Thanh không được lâu. Trong vòng hai mươi năm
sau, quân Thanh liên tục xâm chiếm biên giới nước
ta.
Năm 1688, quân Thanh đánh chiếm các động thuộc
ba châu Vị Xuyên, Bảo Lạc, Thủy Vĩ, miền Tây Bắc
nước ta, đặt tuần ty thu thuế buôn bán. Nhà Lê đưa
thư yêu cầu trả lại đất, nhà Thanh không trả và không
rút quân về Trung Quốc.
Năm sau (1689) quân Thanh lại xâm phạm miền
Đông Bắc nước ta, lấn chiếm châu Lộc Bình (Lạng
Sơn). Nhà Lê cho người đi Thanh tranh biện đòi lại,
nhưng cuối cùng đất vẫn mất.
Tuy vậy, bên ta không ngừng đấu tranh đòi đất. Năm
1728, Trung Quốc phải trả ta khu mỏ đồng Tụ Long
ở phía bắc tỉnh Tuyên Quang.
Năm 1771, nhà Thanh lại lấn chiếm đất đai châu Lộc
Bình (Lạng Sơn). Nhà Trịnh cho quân lên biên giới,
nhà Thanh phải rút quân về nước.
2. Quan hệ với Lào và tiếp xúc với người phương
Tây
Trong các nước láng giềng, triều đình Lê - Trịnh có
quan hệ chặt chẽ với Lào. Thời kỳ này, nước Lào có
biến, một người con của vua Lào là Triều Phúc chạy
sang Việt Nam lánh nạn.
Năm 1696, chúa Trình cho đưa Triều Phúc về Lào để
lên ngôi vua. Năm 1718, chúa Trịnh gả một người
con gái tôn thất cho vua Lào - Triều Phúc.
Với các nước phương Tây, triều đình Lê - Trịnh chưa
đặt quan hệ ngoại giao chính thức, nhưng chấp nhận
cho các giáo sĩ tới giảng đạo và các nhà buôn tới
buôn bán, lập thương điếm.
Từ năm 1613, thuyền buôn Hà Lan đem hàng tới bán
ở Bắc Hà. Năm 1637, người Hà Lan được chúa Trịnh
cho phép mở hiệu buôn ở Phố Hiến và Thăng Long.
Phố Hiến là một khu vực trong thị xã Hưng Yên ngày
nay.
Năm 1672, người Anh cũng được chúa Trịnh cho tới
mở hiệu buôn. Điều kiện cho họ tới lập thương điếm
ở Bắc Hà là phải đem súng ống, đạn được phương
Tây sang bán cho chúa Trịnh để chúa Trịnh tiến hành
chiến tranh đánh phá chúa Nguyễn trong Nam.
Khác với Hà Lan và Anh, người Pháp cho cố đạo đi
trước, mở đường cho những mưu đô xâm lược của
chủ nghĩa thực dân Pháp. Năm 1745, một cố đạo
Pháp là Saint Phalles bỏ đạo đi buôn, tới mở cửa hiệu
ở Bắc Hà. Tám năm sau, năm 1753, Saint
Phalles gửi thư về nước yêu cầu chính phủ Pháp lập
căn cứ Pháp ở miền Bắc Việt Nam. Saint Phalles viết:
"Vương quốc này là một trong những nước mạnh
nhất của vùng Đông Ấn Độ. . . Nó rộng bằng hai
phần ba nước Pháp Thủ đô là Kẻ Chợ rộng như
Paris Tôi đã đến đó nhiều lần. Kẻ Chợ ở trên một
con sông gọi là sông Cái Thuyền bè chen chúc dưới
bến, đông đúc quá sức tưởng tượng. Dân số của nước
này rất đông. Có rất nhiều thị trấn. Có những thị trấn
đông dân từ 3 đến 10 vạn người. Xứ này có nhiều
sông ngòi, kênh đào, thuyền tàu đi lại dễ dàng ".
Vì thực dân phương Tây có những mưu đồ và hành
động xấu như vậy cho nên ở Bắc Hà, từ năm 1687 trở
đi các chúa Trịnh luôn luôn cấm đạo. Các giáo sĩ
phương Tây khó tới được. Các lái buôn phương Tây
cũng dân dần ít đến.
Năm 1780, nhà Thanh đem quân đánh chiếm một khu
vực rộng lớn ở miền Tây Bắc nước ta, gồm đất đai
sáu châu: Hoàng Nham, Hợp Phì, Quảng Lãng,
Trung Phụ, Lễ Tuyền, Khiên Châu. Triều đình Lê -
Trịnh đòi, nhưng nhà Thanh không chịu trả.