Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.72 KB, 129 trang )

Tên sách: Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước
Tác giả: Nguyễn Lương Bích
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 1996
LỜI GIỚI THIỆU
Hoạt động ngoại giao là một bộ phận quan trọng của đấu tranh dựng nước, giữ nước lâu
dài và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu hoạt động đó trong sự phát triển phong
phú qua các thời kì lịch sử để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết có thể vận dụng
kết quả cho hiện tại đó là một việc làm vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Tiếc rằng cho tới nay vẫn chưa có một công trình giới thiệu một cách có hệ thống và tương
đối toàn diện họat động ngoại giao Việt Nam trong tiến trình lịch sử, kể cả một giáo trình
về lịch sử ngoại giao nước ta để giảng dạy cho sinh viên ở Học viện Quan hệ quốc tế cũng
mớỉ bắt đầu được xây dựng.
Với “Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước”, nhà sử học Nguyễn Lương Bích đã
đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta muốn tìm hiểu lịch sử dân tộc nói chung,
lịch sử ngoại giao của dân tộc nói riêng.
Trên cơ sở khai thác nhiều nguồn tư liệu gốc về lịch sử cổ - trung đại Việt Nam và Trung
Quốc, nhà sử học Nguyễn Lương Bích vốn là chuyên gia có nhiều công trình nghiên cứu
giá trị về thời kì lịch sử này, đã giới thiệu khá cụ thể hoạt động ngoại giao của Việt Nam
qua các thời kỳ lịch sử, từ những ngày đầu các vua Hùng lập quốc đến khi thực dân Pháp
phát động chiến tranh xâm lược và hoàn thành đánh chiếm Việt Nam vào cuối thê' kỉ XIX.
Thông qua các câu chuyện kể sinh động về những con người và những việc làm cụ thể,
người đọc ngày nay có điều kiện và cơ hội nhận rõ tâm lực, tài trí, bản lĩnh rất đáng tự hào
của cha ông xưa. Cũng qua đó nhận thức sâu sắc hơn về truyền thống tốt đẹp của ngoại
giao Việt Nam, một truyền thống được định hình ngay từ buổi đầu dựng nước, ngày càng
củng cố và phát triển, để đến khi bắt gặp ánh sáng của cách mạng thì càng có điều kiện
phát huy tất cả sức mạnh và hiệu qủa. Cơ sở vững bền của truyền thống ngoại giao Việt
Nam là tình yêu đất nước, ý chí độc lập, tinh thần dân chủ, nguyện vọng hòa bình và hữu
nghị, những giá trị tinh thần vĩnh hằng mà dân tộc ta luôn luôn gắn bó và phát huy.
Công trình “Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước" được nhà sử học Nguyễn
Lương Bích hoàn thành từ lâu, sau đó ông bị bệnh nặng rồi từ trần nên không có điều kiện


gia công sửa chữa thêm trước khi cho ra mắt bạn đọc. Đến nay, công trình được xuất bản,
nếu như bạn đọc thấy còn một số hạn chế nào đó về nội dung và hình thức, rồi góp ý xây
dựng để nhà xuất bản có điều kiện biên tập tốt hơn cho lần tái bản, chắc hẳn rằng tác giả ở
dưới suối vàng cũng ngậm cười hoan hỉ.
Ngày 25 tháng 5 năm 1996
ĐINH XUÂN LÂM
(Giáo sư sử học)
Chương một
1
BA NGHÌN NĂM TỪ ĐỐI NGOẠI HÒA BÌNH
TỚI ĐỐI NGOẠI CHỐNG XÂM LƯỢC
I. TỪ TRUYỀN THỐNG HÒA BÌNH HỮU NGHỊ VỚI CÁC DÂN TỘC ĐẾN LIÊN
MINH ĐỐI NGOẠI CHỐNG NGOẠI XÂM
Dân tộc Việt Nam ở Đông Nam Á dựng nước sớm, từ hàng nghìn năm trước Công nguyên,
nhưng đời sống của dân tộc và hoạt động của Nhà nước ta như thế nào từ thuở xa xưa ấy,
ngày nay chúng ta không được rõ lắm. Vì nước ta đã có những thời kỳ bị giặc ngoài xâm
lược liên tục hàng nghìn năm. Không mấy thế kỷ là không có ngoại xâm. Chiến tranh liên
miên, sử sách, dấu tích, kỷ vật gần như không còn. Nghiên cứu đời sống của Tổ tiên ta
trước Công nguyên và những thế kỷ đầu Công nguyên là cực khó. Tìm hiểu lịch sử ngoại
giao của Tổ tiên ta ở những thời kỳ đó lại càng khó.
Nhưng qua truyền thuyết và những tư liệu thành văn của nước ngoài, chúng ta cũng biết
được đôi điều về hoạt động đối ngoại của Tổ tiên ta thời Hùng Vương và thời An Dương
Vương.
Vào thời kỳ đó người Hán cũng thành lập Nhà nước Trung Quốc đầu tiên ở vùng Sơn Tây,
Cam Túc miền Bắc Á. Hai nước xa nhau hàng vạn dặm, cách nhau bởi nhiều lãnh thổ,
nhiều địa bàn cư trú của nhiều tộc người khác nhau. Vậy mà người Việt Nam thời bấy giờ
đã có những tiếp xúc ngoại giao đầu tiên với người Trung Quốc nơi xa xôi đó.
Sử sách Trung Quốc ghi nhận: năm Mậu Thân (tức năm thứ 5 đời vua Đương Nghiêu ở
Trung Quốc) theo dương lịch là năm 2353 trước Công nguyên, một sứ bộ ngoại giao đầu
tiên của vua Hùng nước ta đã chủ động tới thăm Trung Quốc. Theo sử Trung Quốc thì sứ

bộ của ta đã qua hai lần thông dịch mới tới được Trung Quốc. Điều đó cho thấy sứ bộ ta đã
tiếp xúc ngoại giao với nhiều dân tộc khác trên con đường tới Trung Quốc. Trong điều
kiện đường đất xa xôi, cách trở như vậy, mà sứ bộ của ta đã kỳ công đem tặng vua Nghiêu
(Trung Quốc) một con rùa rất lớn. Theo sử Trung Quốc thì con rùa này đã sống một nghìn
năm, trên mai rùa có khắc chữ, ghi sự việc từ khi trời đất mới mở mang. Ở phương Đông,
từ thời cổ, rùa là biểu tượng của sự sống trường tồn hàng nghìn, vạn năm. Về ngoại giao,
Nhà nước ta thời vua Hùng tặng Nhà nước Trung Quốc thời vua Nghiêu con rùa quý này
với một ý nghĩa tốt đẹp, mong muốn cho quan hệ thân thiện giữa hai nước được bền vững,
dài lâu.
Hơn một nghìn năm sau, Việt Nam và Trung Quốc vẫn xa nhau hàng vạn dặm, nhưng một
sứ bộ ngoại giao của ta lại sang thăm Trung Quốc lần thứ hai (vào năm thứ 6 đời vua
Thành Vương nhà Chu) tức năm 1110 trước Công nguyên. Theo sử Trung Quốc, qua ba
lần thông dịch, sứ bộ của ta mới tới kinh đô nhà Chu ở vùng Cam Túc. Sứ bộ ngoại giao ta
đem tặng vua nhà Chu Trung Quốc chim trĩ trắng là loại chim quý nhất ở phương Nam thời
ấy. Nhà Chu Trung Quốc trân trọng đáp lại, cho làm năm cỗ xe có kim chỉ nam để đưa sứ
bộ ngoại giao ta về nước (Những tư liệu về ngoại giao này đều có ghi chép trong các sử
sách của Trung Quốc thời trước, như: Sử ký Tư Mã Thiên, Thượng thư đại truyện, Hậu
Hán thư, Thiếu vi thống gián, Phương dư kỉ yếu, Việt kiệu thư, Cương mục tiền biên, Ngự
phê thông giám tập lãm.
2
Dựa theo truyền thuyết và theo sử sách của Trung Quốc, các sử gia Việt Nam cũng ñaõ
ghi lại những sự kiện trên trong: Lĩnh nam trích quái, Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn
thư, Việt sử thông giám cương mục, Việt sử thông giám khảo lược)
Những sự tiếp xúc đối ngoại của dân tộc ta mà sử sách Trung Quốc ghi lại được chứng
minh rằng dân tộc ta đã dựng nước sớm, tiến hành ngoại giao cũng sớm và rất chủ động
trong ngoại giao. Với những dân tộc ở xa như Trung Quốc thời ấy, dân tộc ta cũng chủ
động cho sứ tới giao thiệp, không ngoài mục đích tỏ tình thân thiện giữa hai dân tộc. Phong
cách ngoại giao của ta thời Hùng Vương còn cho thấy dân tộc ta là một dân tộc sớm có văn
hiến, hiểu biết được những biểu tượng cao đẹp của tình cảm con người với con người, của
dân tộc này với dân tộc khác và biết sử dụng những biểu tượng đó làm quà tặng trong giao

tiếp đối ngoại. Từ thời bấy giờ, dân tộc ta đã có ý thức đoàn kết, hữu nghị trong sáng, nhiệt
tình và chân thành với tất cả các dân tộc, dù ở xa ta hàng vạn dặm.
Đường lối, chính sách và phong cách ngoại giao vì hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc đã
trở thành truyền thống đối ngoại của dân tộc ta. Trong quá trình phát triển lịch sử, mối
quan hệ của dân tộc ta với các dân tộc khác không phải lúc nào cũng hòa bình, phẳng lặng,
yên tĩnh; trái lại, ta cũng luôn luôn bị dân tộc này, dân tộc khác gây xung đột bằng vũ lực,
nhiều khi rất quyết liệt, tàn khốc. Nhưng khi xung đột chấm dứt, ta lại chủ động giao hảo
với những dân tộc thù địch để thiết lập lại quan hệ hòa bình hữu nghị, xóa bỏ những hận
thù dân tộc, có hại cho cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người.
Trong các thời đại xã hội có giai cấp, nhất là thời phong kiến, quan hệ đối ngoại giữa các
nước phổ biến là một thứ quan hệ bất bình đẳng "cá lớn nuốt cá bé", nước lớn xâm lược
nước nhỏ, xâm lược chưa được thì bắt nước nhỏ phải làm chư hầu, phiên thuộc, phải nộp
cống, phục dịch nước lớn. Nước lớn muốn gì, nước nhỏ phải cung phụng không dám trái:
vàng bạc, châu báu, những thú vật quý hiếm, kể cả bắt người làm nô lệ . . . đủ thứ. Giữa
các nước nhỏ với nhau, quan hệ tuy không căng thẳng lắm, nhưng cũng không tránh khỏi
diễn ra cảnh khiêu khích, xung đột, lấn chiếm lẫn nhau. Quan hệ đối ngoại của nước ta đối
với các nước khác cũng không sao tránh được các thông lệ đó của thời đại.

Đối với Trung Quốc, nước ta thời Hùng Vương đặt quan hệ thân thiện trong một thời gian
dài như thế là hiếm có. Nhưng rồi thời thế đổi thay, mối quan hệ giữa hai nước cũng đổi
khác. Từ khi dựng nước ở vùng Cam Túc xa xôi, hẻo lánh, người Hán ngày càng mở rộng
biên giới, chiếm đoạt lãnh thổ của nhiều nước, xóa bỏ nhiều quốc gia lân cận, bành trướng
rất mạnh xuống phía Nam, và Trung Quốc nhanh chóng trở thành một nước rộng lớn bậc
nhất ở châu Á từ mấy thế kỷ trước Công nguyên.
Tới cuối thế kỷ thứ III trước Công nguyên, biên giới Trung Quốc đã mở rộng tới sát biên
giới ta. Lúc này, dù nước ta muốn giao hảo thì các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng
không chịu dừng bước bành trướng xâm lược. Nhà Hán bắt đầu xâm lược, đánh phá nước
ta liên tiếp trong nhiều thế kỷ. Cũng từ đó quan hệ đối ngoại của ta với các triều đại phong
kiến Trung Quốc không còn là hòa bình hữu nghị như trước. Dân tộc ta đã phải tiến hành
một cuộn đấu tranh vũ trang trường kỳ chống các đạo quân phong kiến Trung Quốc xâm

lược diễn ra liên tục trong hơn mười thế kỷ.
Cuối thế kỷ thứ III trước Công nguyên, ông vua bạo ngược Tần Thủy Hoàng của Trung
3
Quốc đã cho 50 vạn quân chia 5 đường đánh vào vùng lãnh thổ phía Bắc nước ta. Tổ tiên
chúng ta cùng các dân tộc anh em từ phía nam sông Trường Giang trở xuống đã đánh trả
rất quyết liệt. Quân Tần bị thất bại liên tiếp "Thây phơi, huyết chảy hàng mấy chục vạn
người" (Sử kí Tư Mã Thiên). Chủ tướng giặc là Đồ Thư bị giết tại trận. Sau đó nhà Tần
nhiều lần đưa thêm quân sang, tiếp tục xâm lược nước ta cho bằng được.
Sau hơn 10 năm đánh phá dã man, ác liệt, nhà Tần đã chiếm được một vùng đất đai rộng
lớn ở phía Bắc nước ta, chia đặt thành ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng (tức miền
Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay).
Sang hai thế kỉ cuối trước Công nguyên, các đế chế Tần, Hán tiếp tục xâm lược và đặt ách
đô hộ lên toàn bộ nước ta. Quân đô hộ chia vùng mới thôn tính thành bảy quận, gồm bốn
quận ở phía bắc, là Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố (tức là hai tỉnh Quảng
Đông, Quảng Tây ngày nay) và ba quận ở phía nam là quận Giao Chi (tức khu vực Bắc Bộ
nước ta ngày nay), quận Cửu Chân là miền Thanh - Nghệ - Tĩnh và quận Nhật Nam là từ
dãy Hoành Sơn trở vào.
Ngay từ khi quân nước ngoài bắt đầu xâm lược nước ta tới khi chúng đặt ách đô hộ, nhân
dân ta đã liên tiếp nổi dậy chống lại ách đô hộ của chúng khiến quân giặc phải tổn thất
nặng nề. Chúng phải luôn luôn đưa quân sang đàn áp các phong trào cứu nước của ta. Sánh
của Trung Quốc thời bấy giờ phải ghi nhận rằng “Quân lính miền Kinh Sở phải mệt mỏi vì
Âu Lạc” (Viên Khoan: Diêm thiết luận). Âu Lạc là tên nước ta thời An Dương Vương (từ
thế kỷ thứ III trước Công nguyên). Kinh Sở là miền Hồ Bắc, Hồ Nam của Trung Quốc
ngày nay.
Từ những thế kỷ đâu Công nguyên, phong trào chống ngoại xâm, cứu nước của nhân dân
ta ngày càng sôi nổi. Các hoạt động vũ trang chống ngoại xâm, cứu nước diễn ra khắp nơi.
Có phong trào ở miền ngược, có phong trào ở miền xuôi, có phong trào do nam cầm đầu,
có phong trào do nữ lãnh đạo.
Những năm đầu Công nguyên, hai vị nữ anh hùng dân tộc là Hai Bà Trưng (Trưng Trắc,
Trưng Nhị) đã liên kết được phong trào yêu nước của nhiều địa phương, tạo thành một

phong trào cứu nước rộng lớn, đánh đuổi quân thù, giành được chủ quyền dân tộc trong
một thời gian.
Thế kỷ thứ II sau Công nguyên, phong trào cứu nước càng sâu rộng. Các thế lực đô hộ
Trung Quốc đã xóa bỏ chế độ lại tướng ở nước ta, nhưng chúng phải thừa nhận rằng
“Những thủ lĩnh người Việt vẫn hùng cứ nông thôn". Nhân dân bảy quận luôn luôn khởi
nghĩa. Có những phong trào tương đối lớn: của Chu Đạt ở Cửu Chân, của Chu Bá ở Giao
Chỉ. Có phong trào mở rộng ở cả bốn quận miền Bắc, quân số hàng vạn người, liên kết
được với một số quan lại người Trung Quốc cùng chống lại chính quyền đô hộ. Đặc biệt là
phong trào cứu nước của nhân dân ta ở vùng huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam.
Nước ta, từ thượng cổ đã có nhiều dân tộc. Nhân dân huyện Tượng Lâm, gồm có người
Việt, người Chàm và nhiều dân tộc khác ở dọc dải Hoành Sơn, người Chàm là đông hơn
cả. Huyện Tượng Lâm và cả quận Nhật Nam đều ở xa thủ phủ đô hộ của giặc đặt tại vùng
lưu vực sông Hồng, do vậy lực lượng chiếm đóng của giặc ở vùng Nhật Nam, Tượng Lâm
4
không nhiều, nhân dân Nhật Nam có điều kiện khởi nghĩa liên tục. Trong thế kỷ thứ II,
nhân dân Tượng Lâm năm lần tiến hành khởi nghĩa. Từ cuộc khởi nghĩa lần thứ hai trở đi,
lần nào cũng có nhân dân và binh sĩ người Việt và các dân tộc anh em ở hai quận Giao Chỉ,
Cửu Chân hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa lần cuối vào năm 190 do một thủ lĩnh người Chàm
lãnh đạo đã giải phóng hoàn toàn huyện Tượng Lâm, lập thành một vương quốc nhỏ ở
miền Nam nước ta, lấy tên là Lâm Ấp .
Trong hai thế kỷ thử III, thứ IV, phong trào đánh giặc cứu nước vẫn diễn ra liên tục khắp
nơi. Lớn hơn cả là phong trào ở Thanh Hóa do Bà Triệu lãnh đạo.
Sang thế kỷ thứ V, thứ VI, phong trào chống giặc càng lớn mạnh. Giữa thế kỷ thứ V, người
anh hùng cứu nước là Lý Trường Nhân đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn trên khắp
nước. Trong vòng ba tháng, Lý Trường Nhân và nghĩa quân giết bọn quan lại, tướng sĩ đô
hộ, giải phóng hoàn toàn Tổ quốc và thành lập chính quyền độc lập của dân tộc, chính
quyền này tồn tại trong gần 20 năm.
Giữa thế kỷ thứ VI, một phong trào khởi nghĩa lớn do hai vị anh hùng Lý Bí (tức Lý Nam
Đế) và Triệu Quang Phục (tức Triệu Việt Vương) đã giành được quyền độc lập cho nước
nhà, lập nên triều Tiền Lý tồn tại trong hơn nửa thế kỉ.

Sang thế kỷ thứ VII, thứ VIII, cuộc chiến đấu giữa nhân dân ta và các thế lực phong kiến
Trung Quốc đô hộ càng quyết liệt hơn. Bọn đô hộ lúc ấy là tập đoàn thống trị nhà Đường -
một trong những tập đoàn bành trướng hiếu chiến bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Chúng phát động chiến tranh xâm lược liên miên, đánh chiếm đất đai của hầu hết các dân
tộc láng giềng ở khắp bốn phía. Phía đông, chúng đánh chiếm nước Triều Tiên, gọi Triều
Tiên là An Đông đô hộ phủ. Phía tây, chúng đánh chiếm Tây Tạng, gọi Tây Tạng là An
Tây đô hộ phủ. Phía bắc, chúng đánh chiếm lãnh thổ của các dân tộc Mông Cổ, Đột Quyết,
Uy Gua, lập thành An Bắc đô hộ phủ. Phía nam, bọn vua chúa hiếu chiến nhà Đường đánh
chiếm nước ta và gọi ta là An Nam đô hộ phủ. "An" có nghĩa "dẹp yên". An Nam, An
Đông, An Tây, An Bắc, có nghĩa là dẹp yên phía Nam, phía Đông, phía Tây, phía Bắc. Tên
“An Nam” mà người nước ngoài trước đây dùng gọi có từ khi nhà Đường xâm lược, thôn
tính nước ta.
Chống lại một tập đoàn thống trị bành trướng, hiếu chiến cuồng bạo là rất khó khăn. Vậy
mà nhân dân ta vẫn luôn luôn khởi nghĩa. Trong thế kỷ thứ VII có các phong trào khởi
nghĩa do Lý Tự Tiên, Đinh Kiến lãnh đạo. Sang thế kỷ thứ VIII xuất hiện một phong trào
cứu nước lớn mạnh do Mai Thúc Loan lãnh đạo. Mai Thúc Loan là người anh hùng xuất
thân cùng khổ, nhưng anh dũng kiên cường và rất mực thông minh, tài trí. Đường lối,
phương châm tổ chức và lãnh đạo chiến đấu của Mai Thúc Loan có nhiều điểm khác với
các phong trào đã có từ trước. Nhân dân vùng Hoan - Diễn (tức vùng Nghệ - Tĩnh) là quê
hương Mai Thúc Loan đã có thơ ca ngợi người anh hùng họ Mai là:
"Anh hùng độc đáo
Thiên cổ lạ kỳ
5
Ngàn năm ít thấy
Vạn đại vẫn còn...”
Nhân dân đã nhận định rất đúng. Ở người anh hùng áo vải Mai Thúc Loan có rất nhiều
điểm độc đáo. Trước khi phất cờ khởi nghĩa, ông tập hợp một số bạn chiến đấu, cùng họ lo
xây dựng căn cứ địa, dựng thành đắp lũy và truyền hịch cứu nước đi khắp vùng Hoan -
Diễn. Người yêu nước ơû khắp nơi theo về ngày càng đông. Theo sách sử Trung Quốc và
truyền thuyết của ta thì mùa hè năm Quý Sửu (năm 713) (Tân Đường thư (sách sử Trung

Quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện) Mai Thúc Loan bắt đầu ra quân đánh địch và thu
phục ngay được Châu Hoan (tức vùng Nghệ - Tĩnh ngày nay).
Trước thắng lợi rực rỡ ban đầu, các tướng lĩnh và toàn thể nghĩa quân yêu cầu vị anh hùng
trẻ tuổi Mai Thúc Loan lên ngôi Hoàng đế và họ tôn lên là Mai Đại Đế (tức ông vua lớn họ
Mai). Sau này, sử sách ghi ông là Mai Hắc Đế, tức ông vua đen họ Mai (vì da ông). Khi đã
lên ngôi vua, Mai Thúc Loan đề ra đường lối đối nội, đối ngoại rất rõ ràng, cụ thể và thật
sáng suốt.

Về đối nội, ông cho người đi các châu huyện báo tin thắng trận và kêu gọi nhân dân 32
châu trong cả nước cùng nổi dậy phối hợp chiến đấu. Tinh thần đại đoàn kết của ông được
nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Ông đã tập hợp được quân của cả 32 châu để cùng đánh
giặc. Sử Trung Quốc ghi chép rằng: "Mai Thúc Loan đã dấy quân 32 châư” (Tân Đường
thư (sách sử Trung quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện) để đánh chúng.
Về đối ngoại, ông tiến hành vận động liên minh quân sự với nước ngoài để cùng đánh giặc.
Đây là nét độc đáo trong kế sách đối ngoại của Mai Thúc Loan. Sử Trung Quốc ghi rằng
ông đã liên minh được với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp (tức Cam-pu-chia ngày nay) và
Kim Lân (tức Ma-lai-xi-a ngày nay) (Tân Đường thư (sách sử Trung quốc), q.207, Dương
Tư Húc truyện). Truyền thuyết của ta kể lại cụ thể: Mai Đại Đế khởi nghĩa năm Quý Sửu
(713) thì năm sau là năm Giáp Dần (714) , cử một tướng là Tiết Anh làm Lâm Ấp thông
vấn sứ và một tướng là Hoắc Đam làm Chân Lạp cáo dự sứ. Hai tướng chính thức đi sứ
sang hai nước Lâm Ấp, Chân Lạp để thông báo chiến thắng và đề nghị hai nước liên minh
quân sự cùng đánh giặc. Với hai nước láng giềng phía nam này thì ngay từ khi chuẩn bị
khởi nghĩa, Mai Thúc Loan đã cho một tướng là Ba Đội Hầu sang liên hệ. Theo truyền
thuyết thì hai nước Chân Lạp và Lâm Ấp đều nhiệt liệt hưởng ứng liên minh. Vua Chân
Lạp là Hồ A Khiêm cho tướng Tham Ninh Na và vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Dĩnh cho tướng
Chư Hương An thống lĩnh quân đội, mỗi nước 10 vạn người sang Việt Nam chiến đấu
dưới lá cờ đại nghĩa của Đại đế Mai Thúc Loan (Chư Cát Thị: Tân đính hiệu bình Việt
điện U linh tập).
Đoàn kết với các nước láng giềng, liên minh quân sự với các nước bạn để cùng chiến đấu
chống xâm lược là một sự phát triển mới trong đường lối đối ngoại và đường lối chiến

tranh chống xâm lược của dân tộc ta cách đây hơn một nghìn năm. Đó cũng là điểm rất cao
quý trong tài năng chỉ đạo chiến tranh của Mai Thúc Loan, người anh hùng dân tộc trẻ tuổi
của dân tộc ta, tuy xuất thân từ lớp người cùng khổ, lam lũ, nhưng tầm mắt chính trị , quân
sự và ngoại giao sâu rộng hơn người, biết kết hợp chặt chẽ chính trị, quân sự với ngoại
giao để đánh thắng giặc.
6
Do chỗ tập hợp được quân dân 32 châu và quân đội của hai nước láng giềng nên lực lượng
quân sự của Mai Đại Đế rất lớn mạnh. Sử nhà Đường ghi rằng quân ta lúc ấy có tới 40 vạn
người. Lực lượng nghĩa quân hùng hậu như vậy đã nhanh chóng quét sạch quân xâm lược
ra khỏi đất nước. Mai Đại Đế thiết lập chính quyền độc lập của ta được trên 10 năm thì
ông bị bệnh chết. Đây là một thiệt thòi lớn cho công cuộc chống ngoại xâm của đất nước ta
lúc bấy giờ.
Mặc dầu Mai Thúc Loan mất, nhưng phong trào đánh giặc cứu nước của ta không giảm
sút. Quân nhà Đường lại sang đô hộ thì một tướng của Mai Đại Đế là Phùng Hạp Khanh
tiếp tục sự nghiệp cứu nước của những anh hùng đi trước. Phùng Hạp Khanh về quê nhà ở
Đường Lâm (thuộc ngoại thành Hà Nội ngày nay) xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng
khởi nghĩa. Ông chưa kịp ra quân thì chết. Ba con trai ông, đứng đầu là Phùng Hưng cùng
nối chí cha.
Năm 769, người Côn Lôn, tức người bán đảo Mã Lai và người Chà Và, tức người đảo Ja-
va thuộc In-đô-nê-xi-a ngày nay, cùng đưa quân vào đánh lực lượng đô hộ nhà Đường trên
đất nước ta. Họ đánh vào tới sào huyệt của bọn đô hộ tại Tống Bình (tức Hà Nội ngày
nay). Được sự giúp sức cùng chiến đấu của hai đạo quân nước ngoài, nghĩa quân Phùng
Hưng phất cờ khởi nghĩa, chiếm giữ châu Đường Lâm và các châu huyện xung quanh
(gồm vùng Hà Nội bây giờ), xóa bỏ chính quyền địch xây dựng chính quyền độc lập của
ta, lập căn cứ tiến tới thành lập khu giải phóng, bước đầu dựng nền độc lập trên một phần
đất nước. Trước tình hình chính quyền đô hộ có nguy cơ bị sụp đổ, vua chúa nhà Đường
phải cho quân sang cứu viện. Lúc này quân đội của người Côn Lôn và người Chà Và đã rút
về nhưng binh tướng nhà Đường không sao tiến quân vào khu giải phóng của nghĩa quân
Đường Lâm.
Tuy vậy, Phùng Hưng và các tướng lĩnh nghĩa quân cũng biết sức giặc còn mạnh, chưa thể

một lúc đánh thắng ngay được. Phùng Hưng chủ trương trường kỳ chiến đấu chống giặc,
đưa chiến tranh giải phóng tiến lên từng bước vững chắc. Đây là một cống hiến mới của vị
anh hùng trẻ tuổi Phùng Hưng vào đường lối chiến tranh giải phóng dân tộc của ta. Đường
lối đó là: bước đầu xây dựng căn cứ địa, từ căn cứ địa phát triển thành khu giải phóng ngày
càng mở rộng ra nhiều vùng, tới khi so sánh lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi, thế và
lực của ta mạnh hơn địch, thì tiến hành một cuộc tổng công kích để giành thắng lợi quyết
định, kết thúc chiến tranh.
Trong 25 năm liền, nghĩa quân Phùng Hưng kiên trì đánh giặc theo đường lối đó, càng
đánh càng mạnh. Vùng giải phóng ngày càng mở rộng khác trước. Tới cuối năm 791, nghĩa
quân Phùng Hưng có thế mạnh hoàn toàn áp đảo địch. Mùa hè năm ấy, Phùng Hưng quyết
định mở trận tổng công kích. Quân giặc thất bại hoàn toàn. Cuộc tổng công kích thành
công nhanh chóng. Chính quyền độc lập trên cả nước được thành lập Phùng Hưng lên ngôi
vua, giữ nước một thời gian. Nhân dân suy tôn ông làm Bố Cái Đại Vương.
II- NGOẠI GIAO HÒA HOÃN THỜI HỌ KHÚC, HỌ DƯƠNG
Tiếp theo cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương, trong nửa đầu thế kỷ thử IX, phong trào
giải phóng ở ta lại nổ ra liên tiếp. Nhiều viên quan đô hộ nhà Đường bị giết hoặc bị đuổi về
nước . Giữa thế kỷ thứ IX, nhà Đường tăng cường bộ máy đàn áp. Chúng cho một võ quan
cao cấp của triều đình làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ để cầm đầu toàn bộ binh quyền và
chính quyền của chúng trên đất nước ta. Nhưng tiết độ sứ cũng không làm gì được. Thế và
7
lực của nhà Đường sụp đổ tới nơi. Từ thế kỷ thứ VIII, phong trào nông dân Trung Quốc
khởi nghĩa chống nhà Đường đã liên tiếp nổ ra, mạnh nhất là ở các vùng biên cương. Tại
các nước bị nhà Đường đô hộ, không phải chỉ có nước ta chống đối lại, mà ở các nước bị
đô hộ khác là An Đông, An Tây, An Bắc phong trào đấu tranh giành độc lập cũng rất quyết
liệt. Cho nên từ giữa thế kỷ thứ VIII, triều đình nhà Đường đặt ra chức tiết độ sứ là một
chức võ quan cao cấp có quyền tổng chỉ huy tất cả quân đội ở khu vực biên cương Trung
Quốc và những nước ở gần biên cương bị nhà Đường đô hộ. Tiết độ sứ có toàn quyền về
quân sự để chỉ huy dập tắt những phong trào khởi nghĩa của nông dân trong nội địa Trung
Quốc và trấn áp các phong trào giải phóng ở các nước bị đô hộ bên ngoài biên cương. Do
tình hình rối loạn trong nước ngày càng tăng, việc liên lạc giữa triều đình nhà Đường với

miền biên cương ngày càng khó khăn, các tiết độ sứ dần dần nắm cả mọi quyền hành
chính, tài chính, nghiễm nhiên trở thành những ông vua thật sự ở miền biên cương, thay
mặt triều đình nhà Đường giải quyết tất cả mọi việc ở địa phương. Có những tiết độ sứ
tách khỏi quyền chi phối của triều đình nhà Đường, biệt lập thành một giang sơn riêng. chỉ
thỉnh thoảng mới triều cống vua Đường. Họ tự truyền chức cho nhau, cha truyền cho con
hoặc anh truyền cho em, gọi là quyền "Lưu hậu”, vua Đường đành chịu. Họ tự tuyên bố
quan lại văn võ, tự định đoạt mọi việc quân, việc dân ở địa phương không cần thỉnh thị
triều đình, vua Đường cũng đành chịu.
Tĩnh hải quân tiết độ sứ của nhà Đường đặt ở nước ta cũng có quyền hành lớn như vậy,
nhưng hoàn toàn bất lực, vì phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của người Việt Nam
ngày càng lên cao.
Cuối thế kỷ thứ IX, những binh lính người Việt dưới quyền tiết chế của tiết độ sứ nhà
Đường đã nổi lên làm một cuộc binh biến rất lớn, đánh đuổi tiết độ sứ cùng toàn bộ quan
lại, quân sĩ của chúng về nước. Cả nước sạch bóng quân xâm lược. Một người anh hùng
dân tộc là Khúc Thừa Dụ lên cầm quyền trị nước, chấm dứt ách thống trị của bọn xâm lược
nhà Đường.
Về đối nội, nhân dân ta từ đây tự tổ chức lấy chính quyền độc lập của mình. Về đối ngoại,
Khúc Thừa Dụ thi hành một chính sách mềm dẻo nhằm ngăn chặn nhà Đường mưu đồ tái
chiếm nước ta, để ta rảnh tay xây dựng đất nước. Do đấy, Khúc Thừa Dụ tự nhận mình là
tiết độ sứ, thay mặt nhà Đường cầm quyền ở Việt Nam. Với phương thức đối ngoại này
của Khúc Thừa Dụ, quan hệ giữa nước ta và nhà Đường tưởng như không có gì khác trước,
nhưng về căn bản rất khác. Khác ở chỗ người Việt Nam tự cai trị người Việt Nam, nước
Việt Nam hoàn toàn tự chủ. Tự nhận mình là tiết độ sứ, Khúc Thừa Dụ một mặt buộc triều
đình nhà Đường phải chấp nhận, vì nhà Đường lúc này tổ chức được một cuộc hành quân
mới để xâm lược nước ta cũng rất khó, nên ưng thuận để không mất thể diện; mặt khác ta
ngăn chặn được các tiết độ sứ ở miền biên cương gần nước ta không thể lợi dụng thời cơ
lấy danh nghĩa nhà Đường để đánh phá ta, vì ta vẫn nhận thần phục nhà Đường.
Chủ trương ngoại giao hòa hoãn, mềm dẻo của Khúc Thừa Dụ tạo điều kiện cho nhân dân
ta và họ Khúc giữ vững chủ quyền dân tộc trong khoảng nửa thế kỷ. Nhưng không phải vì
thế mà giặc ngoài đã chịu từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng.

8
Năm 907 Khúc Thừa Dụ mất và cũng là lúc Trung Quốc bước vào thời kỳ đại loạn, gọi là
thời "Ngũ đại thập quốc" tức “Năm triều đại mười quốc gia". Năm triều đại nối tiếp nhau ở
triều đình trung ương và mười quốc gia lần lượt xuất hiện trong nội địa Trung Quốc. Thoạt
đầu là nhà Đường bị diệt, nhà Hậu Lương cướp ngôi. Ở ta, con Khúc Thừa Dụ là Khúc
Hạo lên cầm quyền thay cha, và ngay năm 907 cho người sang giao hảo với triều đại mới ở
Trung Quốc là nhà Hậu Lương. Nhà Hậu Lương buộc lòng phải thừa nhận Khúc Hạo làm
tiết độ sứ. Nhưng năm sau (908), Hậu Lương lại phong cho tiết độ sứ ở Quảng Châu (tức
Quảng Đông) kiêm nhiệm cả chức tiết độ sứ ở nước ta. Điều này là một chứng minh lịch
sử cho thấy: dù trong nước có lâm vào cảnh đại loạn, rối ren thế nào chăng nữa, các tập
đoàn phong kiến Trung Quốc cũng không từ bỏ dã tâm xâm chiếm nước ta.
Nhưng viên tiết độ sứ Quảng Châu, mặc dầu được nhà Hậu Lương phong cho kiêm nhiệm
tiết độ sứ An Nam, cũng không dám sang nhận chức ở nước ta. Mười năm sau (tức năm
917), tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Cung chống lại triều đình trung ương, lập nước riêng ở
Quảng Châu, xưng hoàng đế, đóng đô ở Phiên Ngung, sách sử gọi là nhà Nam Hán. Bọn
Lưu Cung cũng có tham vọng bành trướng xuống phía Nam, đánh cướp nước ta, nhưng lúc
ấy (năm 917 - 918 ) Nam Hán sức còn yếu, phạm vi thế lực chỉ mới trong khu vực Quảng
Đông và một phần Quảng Tây nên vẫn phải giao hảo với ta. Lúc ấy, ở ta Khúc Hạo đã mất,
con là Khúc Thừa Mỹ làm tiết độ sứ.
13 năm sau, tức năm 930, nước Nam Hán có một quá trình đánh đông, cướp tây, đã mạnh
hơn trước, nên Lưu Cung vua nước Nam Hán cho một đạo quân bất thần đánh sang nước
ta. Khúc Thừa Mỹ không kịp đối phó, bị sa vào tay quân cướp nước. Đạo quân xâm lược
tiến xuống tới châu Ái (miền Thanh Hóa bây giờ) thì bị một danh tướng của Khúc Thừa
Mỹ là Dương Đình Nghệ ở châu Ái đánh bật trở lại. Quân Nam Hán phải rút ra miền đồng
bằng Bắc Bộ. Nhưng chúng không thể ở yên.
Chỉ mấy tháng sau (tháng 3 năm 931), Dương Đình Nghệ đem toàn bộ quân đội của mình
tiến ra Bắc đánh giặc. Tướng giặc là Lý Tiến hoảng sợ, phải phi báo về triều đình Nam
Hán xin thêm quân. Vua Nam Hán là Lưu Cung cho tướng Trần Bảo đem quân sang cứu
nguy. Quân Trần Bảo chưa tới nơi, tướng giặc Lý Tiến đã bị quân ta đánh cho đại bại, phải
chạy trốn về nước. Dương Đình Nghệ cùng toàn bộ đại quân tiến vào đóng trong thành Đại

La (tức Hà Nội bây giờ).
Quân địch cùng chủ tướng Trần Bảo sang tới nơi, định vây thành Đại La thì bị quân ta
đánh tập kích rất mạnh. Toàn bộ quân giặc bị tiêu diệt, Trần Bảo chết tại trận. Nam Hán
không dám tiến quân sang nữa.
Đầu năm 932, Dương Đình Nghệ lên cầm quyền trị nước. ông cũng làm theo họ Khúc, vẫn
xưng là tiết độ sứ. Sử sách không ghi rõ là tiết độ sứ của triều đình nào ở Trung Quốc
trong thời kỳ "Ngũ đại thập quốc” đó. Đây cũng chỉ là một kế sách đối ngoại mềm dẻo của
Dương Đình Nghệ, tỏ ra không cắt đứt quan hệ "phiên thần" đối với các triều đình Trung
Quốc, nhưng thật ra chẳng thuộc triều đình nào trong cái "Ngũ đại thập quốc" ấy.
Dương Đình Nghệ cầm quyền được 6 năm thì năm 937 bị một tên tướng phản bội là Kiều
Công Tiễn ám hại. Tên phản bội đê hèn này, đối nội thì giết chủ để tranh quyền tiết độ sứ,
nhưng lại sợ sức mạnh của người con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền, đương cai quản
9
châu Ái lúc đó, nên về đối ngoại Kiều Công Tiễn làm một việc nhục nhã là cho người sang
"xưng thần" với vua Nam Hán và xin Nam Hán cho quân sang cứu.
Vua Nam Hán là Lưu Cung vội nắm lấy cơ hội để xâm lược nước ta, liền cho con trai là
Lưu Hoằng Thao làm Giao vương (có nghĩa là làm vua Châu Giao, tức là làm vua nước ta),
cầm đại quân theo đường biển tiến sang ta. Còn Lưu Cung đem quân đóng tại trấn Hải
Môn, gần kề biên giới nước ta để làm hậu ứng cho con, khi cần thiết chính hắn cũng sẽ kéo
quân sang nước ta.
Nhưng tình hình diễn biến rất nhanh, vượt ra ngoài ý đồ của bọn cướp nước và tên bán
nước. Quân Nam Hán chưa tới nơi thì tên phản bội Kiều Công Tiễn đã bị ngô Quyền từ
châu Ái đưa quân ra bắt và giết chết.
Sau khi trừ xong nội phản và biết quân cướp nước đang tiến tới miền ven biển nước ta,
Ngô Quyền quyết định đường lối đối ngoại của nước nhà lúc này là phải nhanh chóng tiêu
diệt giặc ngoại xâm. Biết rõ tình hình địch và sức địch, Ngô Quyền nói với các tướng sĩ:
"Hoằng Thao là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe tin Công
Tiên đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi; quân ta sức còn mạnh,
địch với quân mỏi mệt tất phải được. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước
thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa

biển trước, vót nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước triều lên tiến vào bên
trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hay hơn kế ấy” (Đại Việt sử ký
toàn thư).
Sau khi định xong kế hoạch, Ngô Quyền đưa quân ra vùng cửa Bạch Đằng. ông cùng quân
và dân địa phương làm cọc “đóng ở hai bên cửa biển" (Đại Việt sử ký toàn thư). Khi quân
Hoằng Thao tới gần cửa biển của ta, Ngô Quyền theo kế hoạch đã định, cho quân ra khiêu
chiến, nhử quân giặc vào đúng trận địa để đánh. Khi thuyền chiến của địch vào đúng trận
địa đã phục sẵn cũng là lúc nước thủy triều xuống, Ngô Quyền lệnh cho quân ta phản công.
Trước sức phản công mạnh mẽ của ta địch vội vàng tháo chạy. Thuyền chiến của giặc đâm
vào cọc tan vỡ gần hết. Quân Nam Hán chết đuối quá nửa. Chủ tướng giặc Hoằng Thao bị
bắt sống và bị giết tại trận. Trận đánh diễn ra trong tháng 11 năm 938. Vua Nam Hán - Lưu
Cung đóng quân tại Hải Môn được tin con chết tại trận, quân sĩ tan hết, chỉ còn biết khóc
thương con, không dám tiếp tục gây chiến, đành đem quân trở về Phiên Ngung (Quảng
Châu).
Sử của ta ghi rằng: sau trận thua đau này, vua Nam Hán - Lưu Cung cho là tên Lưu Cung
của hắn xấu và xui quá, nên đổi là Lưu Yểm. Trận thua đau ở Việt Nam thật là thấm thía
đối với vị vua bại trận. Nhưng dù đổi tên hay không thì nhà Nam Hán cũng không thể tồn
tại lâu và cũng không còn sức để mưu đồ xâm lược Việt Nam.
Chương hai
NGOẠI GIAO CỦNG CỐ ĐỘC LẬP
I- NGOẠI GIAO THỜI NGÔ - ĐINH
10
Sau khi đánh thắng quân Nam Hán, đầu năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, cầm quyền trị
nước, bỏ danh hiệu tiết độ sứ, dứt khoát cắt đứt quan hệ lệ thuộc các vương quyền phương
Bắc. Ngô Quyền lập triều đình, đặt trăm quan (không rõ niên hiệu, tên hiệu là gì), sau này
sách sử ghi là Ngô Vương. Về đối ngoại, Ngô Quyền không giao thiệp với Nam Hán mà
ông vừa đánh cho đại bại và cũng không liên hệ với nước nào trong "Ngũ đại thập quốc"
lúc ấy. Nhưng ông cho phép những người Trung Quốc chạy loạn được sang sinh cơ lập
nghiệp ở lãnh thổ do mình cai quản. Ngô Quyền cũng tiếp nhận những tướng sĩ Trung
Quốc bị thất bại trong nội chiến xin sang trú ngụ ở nước ta. Một số tướng sĩ Trung Quốc

được Ngô Quyền thu dung cho làm việc tại triều hoặc tại các địa phương.
Ngô Quyền làm vua được 6 năm thì mất. Đáng lẽ con Ngô Quyền lên nối ngôi cha. Nhưng
em vợ Ngô Quyền là Dương Tam Kha cướp ngôi vua. Một số quan lại, tướng sĩ của Ngô
Quyền không chịu, nổi lên chống lại Dương Tam Kha, mỗi người cầm quân chiếm giữ một
địa phương, lập thành giang sơn riêng, gây nên tình trạng cát cứ, trước còn ít, sau lên tới 12
sứ quân.
Dương Tam Kha làm vua được 6 năm. Tới năm 950, con của Ngô Quyền là Ngô Xương
Văn cùng một số tướng cũ của Ngô Quyền nổi lên đánh úp, bắt được Dương Tam Kha.
Năm sau (951), Ngô Xương Văn lên ngôi vua lấy hiệu là Nam Tấn Vương. Nhưng nạn sứ
quân cát cứ các địa phương vẫn không xóa bỏ được mà ngày càng tăng. Trước tình hình
trong nước rối ren, sợ nước ngoài xâm lược, năm 954 Ngô Xương Văn cho sứ sang giao
hảo với Nam Hán . Vua Nam Hán lúc ấy là Lưu Thanh cho ngay sứ sang nhận ta là phiên
thần, lại phong chức tiết độ sứ cho Ngô Xương Văn, âm mưu kiếm cớ xâm nhập tiến tới
chiếm đóng nước ta. Được tin ấy, Ngô Văn Xương cho ngay người đi sang chặn sứ Nam
Hán lại trước khi tới biên giới, và dọa sứ Nam Hán rằng: giặc biển đương làm loạn, đường
đi rất khó, đừng sang mà chết! (Đại việt sử ký toàn thư). Sứ Nam Hán hoảng sợ quay về.
Mộng bành trướng của Nam Hán tới đây thật sự chấm dứt.
Ở ta, tình trạng sứ quân cát cứ kéo dài hơn 20 năm. Một trong thủ lĩnh 12 sứ quân là Đinh
Bộ Lĩnh đánh tan các sứ quân khác, thống nhất được đất nước. Đinh Bộ Lĩnh là con của
Đinh Công Trứ - một người bạn chiến đấu của Ngô Quyền, từ thời hai người còn là tướng
thân cận của Dương Đình Nghệ.
Năm 968, nạn cát cứ đã chấm dứt, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua. Khác với Ngô Quyền, ông
lập hẳn một triều đại, lên ngôi hoàng đế, xưng là Minh Hoàng đế , đặt mình ngang hàng
với các hoàng đế Trung Quốc, sử sách gọi ông là Đinh Tiên Hoàng (tức Đinh Tiên Hoàng
đế) là gọi theo niên hiệu Tiên Hoàng đế mà người ta đặt cho ông khi ông đã mất.
Về quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì từ thời Ngô đã không có. Khi Đinh Bộ Lĩnh lên
ngôi vua, quan hệ ngoại giao với Trung Quốc cũng chưa đặt ra ngay, vì Trung Quốc chưa
chấm dứt được nạn “Ngũ đại thập quốc". Ở ta, trong khi Đinh Bộ Lĩnh tiến hành thống
nhất đất nước thì Triệu Khuông Dận ở Trung Quốc cũng nổi lên dẹp loạn "Ngũ đại thập
quốc". Năm 960, Triệu Khuông Dận diệt được nhà Hậu Chu - một triều đại cuối cùng của

"Ngũ đại", nhưng còn "thập quốc". Triệu Khuông Dận lập nên triều Tống và tiếp tục thanh
toán "thập quốc”.
11
Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua được 2 năm thì năm 970 ở Trung Quốc, Tống Thái Tổ (tức
Triệu Khuông Dận) tiến quân xuống phía nam đánh Nam Hán. Năm 971, Nam Hán bị diệt.
Từ đấy biên giới Tống sát với nước ta. Tống đặt quan hệ giao hảo với ta, chưa có ý đồ gì
khác, vì Trung Quốc chưa thống nhất, Tống còn phải lo đối phó với một số nước "thập
quốc” ở phía bắc và phía đông. Cho nên quan hệ buổi đầu giữa hai nước là hòa bình hữu
nghị. Có điều đặc biệt trong đường lối, phong cách ngoại giao của Đinh Tiên Hoàng là ông
vẫn làm vua, vẫn cầm quyền trị nước, nhưng trong các văn bản quan hệ ngoại giao thì ông
lại cho con trai là Đinh Liễn đứng tên, tức là ông cho con ông ra mặt giao thiệp với hoàng
đế nhà Tống. Thái độ đó của Đinh Tiên Hoàng, có thể triều Tống không bằng lòng, nhưng
nhà Tống chưa làm gì được.
Tới năm 979, nhà Tống diệt được nước cuối cùng trong “thập quốc" là nhà Bắc Hán ở phía
bắc, thống nhất được Trung Quốc rộng lớn. Do đấy, nhà Tống lúc này quân đông thế
mạnh. Trong khi đó ở ta, cũng năm 979 vua Đinh Tiên Hoàng và con lớn là Đinh Liễn đều
bị cận thần sát hại. Con nhỏ là Đinh Toàn mới 5 tuổi lên nối ngôi, vua Tống tính ngay
chuyện xâm lược nước ta. Thế là quan hệ ngoại giao giữa ta và Tống trở thành xấu.
Khoảng những tháng đầu năm 980, viên quan Tống coi Ung Châu (tức miền Quảng Tây
bây giờ) báo cáo về triều đình Tống rằng:
"An Nam quận vương và con là Liễn đều bị giết, nước đã gần mất, có thể nhân lúc này
đem quân địa phương đánh lấy được, nếu bỏ lúc này không mưu sự sợ mất cơ hội...” (Đại
Việt sử ký toàn thư).
Tống triều vội nắm lấy cơ hội. Ngay tháng 7 năm 980, Tống triều quyết định "xuất kỳ bất ý
đem quân đánh úp. . . như sét đánh không kịp bưng tai " (Đại Việt sử ký toàn thư). Nhà
Tống bắt đầu họp quân, tuyển tướng.
Sang tháng 8, vua Tống hạ lệnh cho các tướng Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Khích Thủ
Tuấn (có sách viết là Hác Thủ Tuấn.), Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng, Giả Thực,
Vương Soạn... "họp quân bốn mặt, hẹn ngày cùng sang xâm lược" (Đại Việt sử ký toàn
thư). Khí thế Tống rất mạnh.

Tháng 9, vua Tống cho đem thư sang hăm dọa ta, coi như một tối hậu thư. Đây là một văn
kiện ngoại giao của kẻ xâm lược mà sử sách của ta lần đâu tiên ghi lại. Đó là một văn kiện
khá dài, lời lẽ rất thô bạo, hống hách. Có những đoạn viết:
" … Nay thành triều ta, lòng nhân trùm muôn nước; cơ nghiệp thái bình kể cũng đã thịnh,
điều lễ phân phong đã sắp sửa làm, muốn ngươi đến chầu cho ta được vui khỏe, mà ngươi
khỏi cái tủi áp mặt vào góc nhà để làm rầy cho ta, khiến ta phải dùng đến kế chặt xác băm
xương, làm cỏ nước người, lúc ấy hối sao kịp. . .
Người có theo về không? Chớ rước lấy tội lỗi. Ta đương chỉnh bị xe ngựa, quân lính, sắp
sửu các thứ chiêng trống, nếu quy thuận thì ta tha cho, nếu trái lệnh thì ta quyết đánh. Theo
hay không, lành hay dữ, tự người nghĩ lấy. . . " (Đại Việt sử ký toàn thư).
12
Đe dọa ngoại giao như thế này không phải là một việc làm ngẫu nhiên mà là quốc sách của
kẻ bành trướng, một bước mở đầu của chiến tranh xâm lược. Binh thư tối cổ và tối ưu của
đường lối chiến tranh xâm lược rất coi trọng biện pháp "phạt giao" (Binh pháp Tôn Tử.
Thiên thứ ba: Mưu công). "Phạt giao” có nghĩa là đánh bằng ngoại giao, tức là dùng ngoại
giao để đe dọa, nạt nộ, lừa gạt người để bắt người phải hàng phục, phải cống nạp, phải
chịu sự thống trị của mình. "Phạt giao" thành công thì khỏi phải vũ trang xâm lược. “Phạt
giao" dù không hoàn toàn được như ý muốn thì cũng làm cho kẻ bị đe dọa phải e sợ, giảm
sút tinh thần chiến đấu, khiến kẻ xâm lược đánh cướp nước người được dễ dàng, nhanh
chóng.
Nhưng nhà Tống đe dọa ta vô ích. Quân dân ta quyết không đầu hàng và sẵn sàng trả lời họ
bằng vũ lực. Lúc này trong nước, vua Đinh tuy còn nhỏ, nhưng có Thập đạo tướng quân Lê
Hoàn làm nhiếp chính, giữ chức Phó vương, trông nom mọi việc quân việc dân. Khi được
tin nhà Tống chuẩn bị ra quân xâm lược nước ta, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn cử tướng
Phạm Cự Lạng (Có sách viết là Phạm Cự Lưỡng) làm Đại tướng quân để điều động quân
sĩ và định kế hoạch ra quân đánh địch.
Trước khi lên đường dẹp giặc, Đại tướng quân Phạm Cự Lạng cùng các tướng lĩnh quyết
định làm một cuộc đảo chính vì lợi ích của nhà nước. Trong một buổi triều đình đương
họp, Phạm Cự Lạng cùng các tướng lĩnh nhung phục oai nghiêm, đem quân tiến thẳng vào
triều. Tại giữa điện đình, Phạm Cự Lạng nói với mọi người:

"Nay chúa thượng trẻ thơ, chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngoài, mong lập
được chút công thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn Thập đạo tướng quân làm Thiên tử,
rồi sau sẽ đem quân đi đánh giặc thì hơn” (Đại Việt sử ký toàn thư)
Trăm quan tại triều và Dương Thái Hậu mẹ vua nhỏ Đinh Toàn đều “vui lòng quy phục"
(Đại Việt sử ký toàn thư).
Tháng 4 năm 981, cuộc kháng chiến chống nhà Tống xâm lược bắt đầu. Quân Tống theo
ba đường đánh sang ta. Một đường bộ vào Lạng Sơn (Có tài liệu viết đạo quân bộ vào theo
cửa ải Thông Quốc ở Quảng Ninh ngày nay). Một đường thủy theo ven biển vào sông
Bạch Đằng. Một đường thủy thứ hai vào Tây Kết. Nhưng trên cả ba đường hành quân, giặc
đều bị quân ta đánh cho bại trận.
Đạo bộ binh tiên phong của giặc đi tới Chi Lăng thì bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn. Chủ
tướng quân tiên phong là Hầu Nhân Bảo bị quân ta bắt và giết chết. Đạo bộ binh đi sau
khiếp sợ, quay đầu chạy về nước. Đạo thủy quân của giặc vào sông Bạch Đằng bị quân ta
đánh bật ra, tan vỡ gần hết. Tướng thủy quân của giặc phải đem tàn quân chạy về Quảng
Châu. Đạo thủy quân thứ hai của Tống bị quân ta đánh cho đại bại ở Tây Kết; quân sĩ
“chết đến quá nửa, thây chất đầy đồng" (Đại Việt sử ký toàn thư). Hai tướng giặc là Quách
Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị quân ta bắt sống. Với trận Tây Kết, cuộc kháng chiến
chống Tống lần thứ nhất kết thúc. Quân ta đại thắng. Các tướng Tống chạy về nước đều bị
vua Tống hành tội và giết chết. Chỉ có một tướng thoát tội xử tử, nhưng bị giáng chức.
13
Cuộc chiến tranh xâm lược bị thất bại rất lớn là một đòn thấm thía cho nhà Tống, khiến
gần 100 năm sau, nhà Tống nhiều lần muốn xâm lược nước ta mà không dám tính đến việc
đem quân sang đánh. Không những thế, nhà Tống còn phải cố nén chịu đựng, nhượng bộ
trước thái độ ngoại giao cứng rắn của Lê Hoàn và e dè cả trong quan hệ đối ngoại với con
Lê Hoàn là Lê Long Đĩnh.
II- NGOẠI GIAO CỦA NGƯỜI "VÁC NÚI, LẬT BIỂN"
Người "vác núi lật biển" (phụ sơn đảo hải - Tống sử) là danh hiệu người Tống dùng để chỉ
Lê Hoàn từ sau khi họ thua về quân sự. Về ngoại giao, Lê Hoàn cũng rất khôn khéo và
cứng rắn, nên người Tống càng e ngại, dè dặt. Họ nhìn nhận Lê Hoàn như một nhân vật
thật sự kiên cường, dũng mãnh, không biết sợ là gì, có thể làm những việc kinh thiên động

địa. Đúng là Lê Hoàn giỏi về nhiều mặt: giỏi quân sự, giỏi nội trị, mà ngoại giao cũng rất
giỏi.
Riêng về ngoại giao, trong quan hệ với nhà Tống, Lê Hoàn thực hiện một chính sách vừa
mềm dẻo vừa cứng rắn; mềm dẻo để giữ vững hòa hảo giữa hai nước, nhưng cứng rắn để
hạn chế những thái độ hống hách, nước lớn của nhà Tống.
Sau khi đánh thắng quân Tống, Lê Hoàn chủ động cho sứ sang Tống. Trong thời gian từ
năm 982 đến 985, sứ thần hai nước, ta và Tống thường qua lại, nhưng Lê Hoàn không đả
động gì đến việc trả tù binh cho Tống. Mãi tới năm 986, tức 5 năm sau khi chiến tranh kết
thúc, Lê Hoàn mới chấp nhận giải quyết vấn đề tù binh và báo cho Tống biết.
Cuối năm 986, vua Tống cho hai quan văn là Lý Nhược Chuyết và Lý Giác sang ta để nhận
tù binh và mang sắc vua Tống phong Lê Hoàn chức "Tiết độ sứ”. Sắc phong này chỉ có ý
nghĩa là nhà Tống phải chính thức thừa nhận Lê Hoàn là người cầm quyền trị nước của ta
và chịu từ bỏ mưu đồ xâm lược nước ta. Trên thực tế, Lê Hoàn vẫn là hoàng đế của một
nước độc lập, không phải tiết độ sứ của một địa phương nào của Tống.
Lê Hoàn trao trả cho Tống những binh sĩ và hai tướng Tống bị bắt tại trận là Quách Quân
Biện, Triệu Phụng Huân.
Năm sau (987), vua Tống lại cho Lý Giác sang sứ nước ta, sứ không ghi rõ là sang về việc
gì. Lý Giác là một văn thần, học vấn rộng, thơ văn giỏi. Lần này, muốn để cho sứ Tống
thấy nước ta là một nước thi thư, có văn hiến, có nhiều nhân tài, nhiều trí thức, nên Lê
Hoàn cử một nhà sư là Đỗ Thuận tham gia tiếp sứ. Thời Ngô, Đinh, Lê, Lý, các nhà sư là
tầng lớp có học thức nhiều hơn cả. Sư Đỗ Thuận giả làm một người "nhà đò" chở thuyền
đi theo đoàn thuyền lên đón sứ Tống tại chùa Sách, ở hạ lưu sông Thương (có sách nói là
sứ nhà Tống vào cửa biển Ngãi Am (Nam Định)). Đoàn sứ nhà Tống đi đường bộ từ biên
giới tới chùa Sách thì xuống thuyền đi đường thủy vào kinh thành Hoa Lư (lúc ấy chưa đặt
kinh đô tại Thăng Long).
Đoàn đón sứ của ta bố trí cho Lý Giác (trưởng đoàn sứ nhà Tống) đi trên chiếc thuyền có
nhà sư Đỗ Thuận mang danh chủ thuyền, cùng một vài quan lại của ta tham dự vào việc
thù tiếp Lý Giác trên dọc đường đi.
14
Có một buổi "nhà đò" Đỗ Thuận cầm chèo đưa thuyền đi, sứ Tống Lý Giác đứng ở mạn

thuyền, ngắm cảnh trời mây, sông nước, nhìn thấy hai con ngỗng bơi lội dưới sông liền
ngâm hai câu thơ:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Lái đò Đỗ Thuận ngâm tiếp theo ngay:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.
Bốn câu của hai người hợp thành một bài thơ hay. Sứ Tống Lý Giác rất khâm phục. Không
phải chỉ khâm phục vì thấy một người lái thuyền biết làm thơ, họa thơ, ứng đối nhanh, mà
còn khâm phục vì thấy mình ngâm hai câu có sẵn trong một bài thơ tứ tuyệt của một nhà
thơ nổi tiếng thời Đường là Lạc Tân Vương và thay đổi một vài chữ cho hợp với cảnh vật
lúc ấy, vậy mà người lái thuyền Đại Việt ngâm tiếp ngay hai câu, lại chính cũng là hai câu
cuối bài thơ của Lạc Tân Vương, và cũng thay đổi vài chữ cho thích hợp.
Bài thơ của Lạc Tân Vương là:
Nga, nga, nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chúy bát thanh ba
Dịch:
(Ngỗng, ngỗng, ngỗng
Nghếch cổ lên trời kêu
Lông trắng phô nước biếc
Chân hồng quẫy sóng xanh)
Bốn câu thơ của Lý Giác và Đỗ Thuận hợp lại là:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngường diện hướng thiên nha
15
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba
Dịch:

(Ngỗng ngỗng, hai con ngỗng .
Ngửa mặt nhìn chân trời
Nước xanh phô lông trắng
Chèo hồng đẩy sóng xanh).
Lý Giác rất khâm phục người lái đò thông minh, uyên bác, và qua tài trí của người lái đò,
Lý Giác rất khâm phục trình độ văn hiến và tài năng của nhân dân ta. Như thế là việc nhà
sư Đỗ Thuận chèo thuyền tiếp sứ đã đạt được mục đích của Lê Hoàn.
Khi tới Hoa Lư, Lý Giác làm một bài thơ gửi tặng người lái đò thi sĩ. Trong bài thơ có câu
"Thiên ngoại hữu thiên ửng viễn chiêú” (Ngoài trời lại có trời soi nữa), có ý nói: ngoài vị
thiên tử của nhà Tống còn có vị thiên tử nữa ở Đại Việt. Sử cũ ghi rằng "Nhà sư Đỗ Thuận
đem thơ này dâng vua. Vua đưa cho nhà sư Ngô Khuông Việt xem. Khuông Việt nói: "Thơ
này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống " (Đại Việt sử ký toàn thư).
Khi Lý Giác sứ Tống trở về nước, vào triều từ biệt vua ta Lê Hoàn, sử ghi "Lý Giác lạy ra
về” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Đây là trường hợp hiếm có. Sứ thần phương Bắc sang Việt Nam, thường cậy mình là
người thay mặt thiên tử, thiên triều, coi mình như ngang hàng vua Đại Việt, nên rất ngạo
nghễ, hống hách, có khi bắt bẻ cả vua Đại Việt, nói gì đến lạy. Vậy mà sứ Tống đã lạy vua
Lê Hoàn khi ra về vì Lý Giác rất mực khâm phục và tôn quý Lê Hoàn, vị anh hùng dân tộc
vĩ đại của Đại Việt.
Năm 990, vua Tống lại cho một đoàn sứ giả sang ta, mang chiếu thư của vua Tống phong
thêm cho Lê Hoàn hai chữ “Đác tiến". Việc chỉ có thế mà nhà Tống phái một đoàn sứ giả
đi, đứng đầu là Tống Cảo chánh sứ và Vương Thế Tác phó sứ. Hai viên chánh, phó sứ này
tỏ ra ngạo mạn, hống hách. Chúng báo sang là ta phải cho thuyền sang đón chúng tại Liêu
Châu (thuộc Quảng Đông). Để giữ giao hảo giữa hai nước, Lê Hoàn cho một tướng đem
chín thuyền to và 300 quân sang Liêu Châu đón sứ.
Thuyền đón sứ đi khoảng một tháng mới tới trạm tiếp sứ của ta đặt ở gần kinh thành Hoa
Lư. Từ trạm tiếp sứ, sứ Tống nhìn ra thấy dưới sông thuyền chiến san sát, quân sĩ ta đương
chèo thuyền, đánh chiêng trống, hò reo tập trận. Bên sườn núi gần kinh thành, cờ xí, khí
giới rợp trời, quân sĩ binh phục sặc sỡ, đi lại tấp nập. Đây là một cách uy hiếp tinh thần sứ
Tống ngay khi chúng mới tới.

16
Công việc của sứ là đem một chiếu thư của vua Tống tới vua ta. Theo lễ nghi ngoại giao
phong kiến, khi nhận chiếu thư của thiên tử nước lớn, vua ta phải lạy bức chiếu thư đó.
Nhưng nhận chiếu thư của vua Tống, Lê Hoàn không lạy, sứ Tống cũng đành chịu.
Mở tiệc chiêu đãi sứ thần nhà Tống, vua Lê Hoàn cho đặt yến tiệc tại bãi biển, để chủ và
khách vừa ăn yến, vừa liên hoan múa hát, lấy trò bắt cá làm vui. Tổ chức chiêu đãi như thế
là rất trọng thể, nhưng lại rất bất tiện khó xử cho sứ, ăn mất ngon. Vì trong khi yến tiệc, Lê
Hoàn tuy là vua, nhưng tự cởi mũ áo, bỏ giày, đi chân không lội xuống nước đâm cá. Các
quan dự tiệc cũng cởi đai, mũ, đi chân không lội xuống nước tham gia trò đâm cá như Lê
Hoàn. Mỗi khi có người đâm trúng cá thì mọi người hò reo nhảy múa. Sứ nhà Tống tại bàn
tiệc trở nên lúng túng, không dám làm theo. Trong khi ăn uống, Lê Hoàn thường tự hát để
mời rượu các sứ thần. Sứ nhà Tống đón cốc rượu mà không hát đáp lại được nên rất
ngượng ngùng, không ăn uống được.
Sau bữa tiệt ở bãi biển, một hôm nhà vua ta cho người khiêng một con trăn lớn, dài vài
trượng đến sứ quán, nói với sứ nhà Tống: "Nếu ăn được, sẽ cho làm cỗ để mời". Sứ khiếp
sợ, không dám nhận. Một buổi khác, Lê Hoàn cho dắt hai con hổ tới sứ quán để cho sứ
thần vui chơi. Sứ càng sợ, không dám nhận (Những chuyện ta tiếp sứ Tống Cảo đều có ghi
trong tờ tâu của Tống Cảo với vua Tống và chép trong Tống sử).
Khi Tống Cảo, Vương Thổ Tác xin phép về nước, Lê Hoàn bảo thẳng vào mặt sứ: "Sau
này có quốc thư thì nên để giao nhận ngay ở đầu địa giới, không phiền sứ thần đến đây
nữa" (Đại Việt sử ký toàn thư).
Khi về tới nước, bọn Tống Cảo phải tâu đúng như thế với vua Tống. Vua Tống cũng phải
bằng lòng, không làm gì được hơn (Đại Việt sử ký toàn thư)
5 năm sau (tức năm 995), tại miền biên giới giữa nước ta và nước Tống, đôi khi có những
cuộc xung đột vũ trang nhỏ do quân địa phương gây nên. Theo báo cáo của quan lại nhà
Tống ở Quảng Tây, Liêm Châu là Trương Quan, Vệ Chiêu Tiểu gửi vua Tống thì ta đã cho
hơn 100 thuyền chiến sang đánh cướp trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu, gần biên giới
nước ta, rồi lại cho hơn 5.000 hương binh đánh sang đất Ung Châu (Quảng Tây). Không rõ
đó là những sự việc có thật hay quan lại nhà Tống ở vùng biên giới có ý vu cáo để gây
chuyện với ta. Nhưng vua Tống bỏ qua những lời tâu ấy, không muốn có điều gì bất hòa

với ta. Sau đó, bọn Trương Quan, vệ Chiêu Tiểu lại tâu dối vua Tống là vua Lê Hoàn đã bị
mất ngôi, phải chạy ra hải đảo làm nghề cướp biển và cũng đã chết rồi. Vua Tống phải cho
người đi dò xét xem hư thực thế nào thì thấy bọn này tâu láo. Vua Tống cho đem hành tội
bọn Trương Quan, Vệ Chiêu Tiểu. Vệ Chiêu Tiểu bị xứ chém; Trương Quan sợ, phát bệnh
mà chết. Sau khi hành tội bọn này, vua Tống cho Lý Nhược Chuyết sang sứ nước ta, mang
chiếu thư và đai ngọc tặng vua Lê Hoàn "mong ta vẫn giữ quan hệ láng giềng tốt" (Đại
Việt sử ký toàn thư).
Lê Hoàn nhận chiếu thư và đai ngọc một cách bình đẳng với thiên tử nhà Tống, chứ không
làm lễ phiên thần. Lê Hoàn bảo sứ Tống là Lý Nhược Chuyết rằng:
17
"Việc cướp trấn Như Hồng là bọn giặc biển ở cõi ngoài, Hoàng đế có biết đó không phải là
quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu (chỉ nước ta) chống lại thì đầu tiên đánh vào
Phiên Ngung (Quảng Châu) rồi đánh đến Môn Việt (vùng Phúc Kiến) há chi đánh một trấn
Như Hồng mà thôi" (Đại Việt sử ký toàn thư).
Thời xưa, triều đình Việt Nam tiếp sứ phương Bắc ít khi nói được những điều cứng rắn
như thế.
Năm 997, theo yêu cầu của Lê Hoàn, vua mới cửa nhà Tống là Tống Chân Tông phải hạ
lệnh không cho sứ sang Việt Nam, mỗi khi có gì đưa sang Việt Nam thì chỉ cho quan đem
đến biên giới rồi báo sang ta; ta cho người lên biên giới nhận. Từ đây cho tới khi Lê Hoàn
mất, đôi khi chỉ có sứ ta sang Tống mà không có sứ Tống sang ta.
Đây là một thắng lợi ngoại giao tỏ rõ sức mạnh của dân tộc ta vào thời kỳ Lê Hoàn làm
vua và ưu thế của người Việt Nam trong quan hệ đối ngoại thời đó. Đối với nhà Tống,
quan hệ hòa hảo giữa hai nước vẫn giữ vững, nhưng chỉ mình sang nước người mà người
không được sang nước mình, chấm dứt mọi hành động hống hách, hạch sách của sứ Tống
đối với nhân dân Việt Nam.
Những thắng lợi ngoại giao của Lê Hoàn có ảnh hưởng tốt trong nhiều năm sau khi ông đã
qua đời.
Năm 1005 Lê Hoàn mất, miếu hiệu là Đại Hành Hoàng đế, sách sử thường viết là Lê Đại
Hành. Cuối năm 1005, Lê Long Đĩnh lên nối ngôi, nhưng chưa đặt quan hệ với nhà Tống
ngay, vì sau khi Lê Hoàn chết bọn vua chúa nhà Tống mưu tính đánh cướp nước ta.

Vua Tống cho viên tri châu Quảng Châu là Lăng Sách và viên an phủ sứ miền biển là
Thiệu Việp tìm hiểu tình hình và chuẩn bị kế hoạch xâm lược nước ta. Sau hơn một năm
liệu định phương lược, tháng 7 năm 1006, bọn Lăng Sách tâu lên vua Tống xin đem quân
đánh nước ta và y quả quyết :
"Nếu triều đình chuẩn y, xin lấy binh ở các châu Quảng Nam và cho thêm 5.000 quân tinh
nhuệ ở Kinh Hồ, theo hai đường thủy bộ cùng tiến thì lập tức bình định được" (Đại Việt sử
ký toàn thư).
Nhưng vua Tống không dám quyết. Sức mạnh của dân tộc ta thời Lê Hoàn trị nước vẫn
làm cho vua Tống e ngại. Cho nên Tống và ta tiếp tục giao hảo. Năm 1007 Lê Long Đĩnh
cho sứ sang biếu vua Tống một tê ngưu và đề nghị mấy điều:
1. Vua Tống cho vua ta một bộ áo giáp, mũ trụ trang sức bằng vàng.
2. Để người Việt Nam sang buôn bán tại Ung Châu (ngày nay là Nam Ninh).
Vua Tống nhận lời tặng áo giáp, mũ trụ cho Lê Long Đĩnh và nhận để người Việt Nam
sang buôn bán tại Liêm Châu và trấn Như Hồng. Về con tê ngưu, vua Tống không muốn
18
nhận, lấy lý do là tê ngưu từ xa đến, không hợp thủy thổ, muốn trả lại, nhưng không dám,
sợ mất lòng vua Việt Nam, để sứ ta về nước rồi mới cho đem con tê ngưu thả ra bãi biển.
III- ĐÁNH RỒI MỚI ĐÀM
Năm 1010, nhà Lý thay nhà Lê lên cầm quyền nước ta. Lý Thái Tổ cho sứ sang giao hảo
với nhà Tống. Bọn triều thần nhà Tống có ý muốn từ chối, không nhận quan hệ với triều
Lý, tức là có ý muốn kiếm chuyện với ta. Nhưng vua Tống do dự, nên nhà Tống vẫn tiếp
nhận sứ ta. Tuy vậy, nhà Tống không thật tâm giao hảo vẫn để cho quan quân vùng biên
giới thường xuyên lấn chiếm, cướp đất, cướp người, cướp của của ta.
Năm 1014, một cuộc xung đột tương đối lớn xảy ra. Hai viên tướng nhà Tống là Dương
Trương Huệ và Đoàn Kính Chi đem 20 vạn quân Hạc Thác (là thổ dân vùng Tả giang, Hữu
giang, Quảng Tây), tiến sang đánh cướp vùng Cao Bằng. Vua Lý Thái Tổ cho quân lên
đánh. Giặc tan ngay, hơn một vạn giặc chết tại trận. Quân ta bắt sống rất nhiều quân giặc
và ngựa của chúng. Sau trận đánh này, vua Lý cho đem một trăm con ngựa trong số ngựa
bắt được của giặc sang biếu vua Tống, vừa cố giữ giao hảo, vừa gián tiếp cảnh cáo trìêu
đình Tống về những vụ xâm lấn mà quân Tống gây ra. Vua Tống hạ lệnh cho quan lại các

địa phương phải đón tiếp sứ ta thật chu đáo và chính vua Tống cũng tiếp sứ ta rất trọng
hậu.
Năm 1028, nhà Tống lại cho quân cướp phá vùng châu Lạng. Thủ lĩnh người Tày vùng
châu Lạng là Thân Thừa Quí đem quân đánh đuổi giặc sang tận đất Tống, giết tướng Tống
và bắt nhiều quân Tống. Viên quan Tống coi Ung Châu phải cầu hòa, khi đó Thân Thừa
Quí mới rút quân về .
Năm 1034, quan lại nhà Tống dụ dỗ bọn Trần Công Vĩnh ở vùng biên giới đem 600 dân
chạy sang theo Tống. Vua Lý Thái Tổ cho hơn một nghìn quân sang đất Tống đuổi bắt.
Thấy quân ta sang, vua Tống sợ chiến tranh xảy ra, phải hạ lệnh cho quan lại địa phương
trả lại ta bọn Trần Công Vĩnh và hơn 600 dân.
Năm 1050, viên quan Tống ở Ung Châu dụ dỗ bọn tù trưởng ở châu Tô Mậu của ta đem
hơn ba nghìn dân sang với Tống và Tống cho đưa cả vào thành Ung Châu. Vua Lý Thái
Tông cương quyết đòi lại Vua Tống buộc phải cho đem trả tất cả hơn ba nghìn người mà
bọn quan lại nhà Tống đã dụ dỗ .
Năm 1059, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ một số dân vùng châu Lạng sang Tống. Thân Thiệu
Thái là phò mã nhà Lý, cai quản vùng châu Lạng, được lệnh triều đình đưa quân lên vùng
biên giới đòi nhà Tống trả lại dân. Tướng Tống ở Ung Châu là Tống Sĩ Nghiêu đem quân
đánh sang châu Lạng, bị quân ta do Thân Thiệu Thái chỉ huy đánh cho đại bại. Tướng giặc
Tống Sĩ Nghiêu phải đem tàn quân chạy về nước. Tướng ta đưa quân vào đất Tống giết
chết Tống Sĩ Nghiêu. Triều đình Tống cho viên quan coi Quế Châu là Tiêu Cố đem quân
xuống tăng viện cho vùng Ung Châu, cùng viên quan coi Ung Châu là Tiêu Chú và các
tướng Tống ở Ung Châu phải quyết chiến, đánh lui kỳ được quân ta. Quân ta lại từ biên
giới tiến thêm sang. Cả Ung Châu náo động. Các tướng Tống phải xin thêm 3.000 quân
thiện chiến ở Kinh Hồ xuống cứu viện.
19
Thân Thiệu Thái vẫn rầm rộ tiến quân lên Ung Châu, bắt sống tại trận viên chỉ huy quân
Tống là Dương Bảo Tài và nhiều quân giặc, trâu, ngựa...
Triều đình Tống hoảng sợ, Vua Tống cách chức hai viên quan coi Quế Châu và Ung Châu
là Tiêu Cố và Tiêu Chú, cho một viên triều thần là Dư Tĩnh làm an phủ sứ đem thêm quân
xuống Ung Châu cùng các tướng Tống tại đây lo tính việc bảo vệ Ung Châu. Vua Lý cho

quân tăng viện sang đất Tống. Thanh thế quân ta trên đất Tống càng mạnh. Các tướng
Tống ở Ung Châu bất lực. Triều đình Tống phải xin thương lượng với ta. Các tướng Tống
ở Ung Châu là bọn Dư Tĩnh, Lý Sự Trung phải chủ động nhận lỗi với ta rằng những cuộc
xung đột ở biên giới là do các tướng Tống ở biên giới gây ra, đề nghị ta cử người cùng
thương lượng giải hòa.
Thấy nhà Tống không còn hống hách, phải xin lỗi cầu hòa, triều đình nhà Lý chấp nhận
thương lượng, lệnh cho Thân Thiệu Thái đem quân về, cho đại học sĩ Phí Gia Hựu sang
Tống hội thương.
Trong cuộc thương lượng, tướng Tống là Dư Tĩnh đề nghị ta trả lại tướng Dương Bảo Tài
và các binh sĩ nhà Tống bị ta bắt. Dư Tĩnh được lệnh vua Tống đem nhiều tiền bạc tặng Phí
Gia Hựu để mong được như ý. Nhưng đề nghị của Tống không được chấp nhận. Bên ta chỉ
đồng ý không đưa quân vào đất Tống, nhưng cương quyết giam giữ trừng trị bọn Dương
Bảo Tài, để trả đũa việc nhà Tống dụ dỗ, lừa bắt dân ta ở vùng biên giới. Nhà Tống đành
phải chịu.
Năm 1062, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ người Tày là Nông Tôn Đán ở phía tây bắc Cao
Bằng đem dân, nhường đất, theo về Tống. Nhà Tống lấy vùng đất ấy đặt thành châu Thuận
An và bổ dụng cha con Nông Tôn Đán làm quan của nhà Tống. Không chịu mất đất mất
dân, vua Lý Thánh Tông cho phò mã Lê Thuận Tôn, người dân tộc thiểu số là châu mục
châu Phong đi sứ sang Tống đòi đất, đòi dân. Nhà Tống buộc lòng phải trả ta vùng đất ấy,
nhưng không trả dân và giữ cha con Nông Tôn Đán làm quan cho Tống. Ta không cho sứ
đi đòi nữa, nhưng cho quân đi đánh đồn, lấy lại tất cả những vùng đất ở biên giới đã bị lấn
chiếm; nhà Tống đành chịu.
Quan hệ với nhà Tống ngày càng căng thẳng. Cuối năm 1073, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ
Nông Thiện Mỹ, một thủ lĩnh vùng gần Thất Khê (Cao Bằng ngày nay) đem 700 dân chạy
sang theo Tống. Đầu năm 1075, triều đình nhà Lý viết thư sang triều đình Tống đòi Tống
trả lại ta Nông Thiện Mỹ và 700 dân, Tống không nghe và không trả lời. Bởi lẽ nhà Tống
chuẩn bị xâm lược nước ta và Quảng Tây là trung tâm chuẩn bị chiến tranh. Triều đình
Tống dồn nhiều tiền của, công sức, binh lính, quân trang, quân dụng cho Quảng Tây.
Triều đình nhà Lý và danh tướng Lý Thường Kiệt quyết đánh trước, phá tan những căn cứ
chuẩn bị chiến tranh của nhà Tống ở Quảng Tây và Quảng Đông. Chỉ có thế mới xóa bỏ

được ý đồ xâm lược của Tống.
Trong khi quan hệ với nhà Tống ở phương Bắc căng thẳng như vậy thì ở phương Nam
quan hệ giữa nhà Lý với Chiêm Thành thuận lợi hơn. Nhà Lý không đánh thuế vải trắng
mà thương nhân Chiêm Thành đưa vào buôn bán ở nước ta. Bởi vậy quan hệ giữa ta và
20
Chiêm Thành ngày càng thân thiện. Vua Chiêm Thành cho sứ đem nhiều sản vật quý hiếm
biếu nhà Lý.
IV. ĐÁNH THẮNG RẤT OANH LIỆT, LẠI "DÙNG BIỆN SĨ BÀN HÒA" ĐỂ KẾT
THÚC CHIẾN TRANH
Trước khi tiến quân vào đất Tống, Lý Thường Kiệt cho truyền “Lệ bố" đi khắp miền
Quảng Đông, Quảng Tây.
"Lệ bố": "Lệ" là để ngỏ, “bố” là bố cáo. Lệ bố là những tờ hịch nói công khai cho dân
chúng biết. Nội dung các lệ bố nhằm mấy điều:
1. Nói rõ mục đích cuộc hành quân của ta không phải là để cướp nước hại dân.
2. Vạch rõ những sai trái, ngang ngược của triều đình nhà Tống và quan lại Tống đối với
nước ta.
3. Kể tội tể tướng Tống là Vương An Thạch và triều đình Tống đã dùng “tân pháp” để đàn
áp, bóc lột nhân dân Tống.
4. Nêu cao ý nghĩa cuộc hành quân của ta không phải chỉ vì lợi ích của ta mà còn vì lợi ích
của nhân dân Tống.
Có lệ bố viết cụ thể:
"… Nay bản chức vâng lệnh Quốc vương, chỉ đường Bắc tiến, muốn dẹp tan làn sóng yêu
nghiệt, làm phân rõ đất đai nhưng không phân biệt dân chúng....
… Ta nay ra binh cứu dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền đi để mọi người biết. . . "
Có lệ bố nêu lý do cuộc hành quân của ta:
"Có những dân làm phản trốn sang Tống. Các quan Tống dung nạp và giấu đi. Ta đã cho
sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế Châu không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt biển
sang tố cáo với Quảng Châu, quan coi Quảng Châu cũng không chịu báo. Vì thế, quân ta
tới đuổi bắt nhưng dân trốn ấy...”.
Lệ bố của Lý Thường Kiệt truyền đi, được nhân dân Tống hoan nghênh. Cho nên khi quân

Lý Thường Kiệt tiến vào nội địa Tống, người dân Tống không hoang mang, không sợ
chạy, không chống đối cuộc hành quân của ta.
Sau khi đã truyền lệ bố đi các nơi và biết chắc dân Tống không phản đối cuộc hành quân
của ta, quân ta từ nhiều ngả tiến vào đất Tống.
Quân ta chiến thắng liên tiếp, lần lượt tiêu diệt hơn 10 căn cứ quân sự của Tống ở Quảng
Tây. Cuộc hành quân của ta trên đất Tống làm cho triều đình nhà Tống hoang mang lúng
túng và quân tướng Tống ở miền nam nước Tống thua thiệt nghiêm trọng.
21
Sau khi hạ thành Ung Châu và giành nhiều thắng lợi lớn trên đất Tống, Lý Thường Kiệt rút
quân về nước. Mùa thu năm 1076, sau khi đem quân từ Quảng Tây về, Lý Thường Kiệt
cho đắp ở bờ sông Cầu một khúc đê cao như bức thành đất, dài gần 7 vạn bước (khoảng 30
ki-lô-mét), chạy dài từ bến đò sông Như Nguyệt tới chân núi Nham Biền. Bên ngoài đê,
đóng cọc tre mấy lớp để làm giậu, giữ lấy chân đê . Toàn bộ khúc đê cao này là một chiến
lũy kiên cố để chặn đánh địch, không cho chúng qua sông Cầu tiến vào Thăng Long.
Những ngày đầu năm 1077, tướng Tống là Quách Quỳ đem đại quân vượt biên giới tiến
sang ta. Sau 10 ngày hành quân rất chật vật, ngày 18 tháng 1 năm 1077, quân Tống mới tới
bờ bắc sông Cầu, nhưng không sang được vì không có thuyền.
Đối diện với quân Tống bên bờ bắc là phòng tuyến kiên cố của ta ở bên bờ nam và có đại
quân ta đóng ngay tại phòng tuyến.
Quân Tống nửa đêm bắc cầu phao qua sông, liều chết đánh sang bờ nam. Quân ta kiên
quyết chống lại. Giữa lúc chiến sự diễn ra quyết liệt, Lý Thường Kiệt cho đọc bài thơ
khích lệ tướng sĩ:
Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
Tiệt nhiên đinh phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành kham thủ bại hư.
Dịch là:
Sông núi nước Nam, Nam đế ở
Điều này sách trời đã ghi rõ
Giặc càn sao vẫn sang xâm phạm

Bay phải chịu đòn thất bại to
Được động viên, quân ta đánh càng mạnh. Quân giặc thiệt hại rất nặng. Sau trận đánh này,
quân Tống bị quân ta vây chặt ở bờ bắc sông Cầu trong 40 ngày liền. Quân Tống sang Việt
Nam 10 vạn, bị chết 8 vạn, chỉ còn 2 vạn; 20 vạn phu cũng chết một nửa, 1 vạn ngựa thì
còn hơn 3 nghìn. Lương ăn cũng đã cạn. Quân Tống ở cái thế, không thể tiếp tục chiến
tranh được nữa.
Biết quân Tống đã cùng đường, Lý Thường Kiệt mở đường cho giặc: "Dùng biện sĩ để bàn
hòa, khiến tướng giặc phải buông vũ khí, quân ta đỡ tốn xương máu mà giữ yên xã tắc”.
Ông đưa tin cho địch: "Rút quân về thì giao hảo".
22
Tướng Tống là Quách Quỳ buộc phải nhận lời Lý Thường Kiệt, xin rút quân về nước. Tuy
đình chiến, nhưng quân Tống vẫn sợ; mấy vạn người nửa đêm ù té chạy khỏi chiến trường,
không dám để quân ta biết. Thấy thế, quân ta không truy kích, để cho chúng rút chạy an
toàn.
Nhưng giặc sợ mà vẫn chưa hết tham. Dọc đường chạy về nước, bọn chỉ huy quân Tống để
một số tướng sĩ ở lại chiếm giữ mấy châu vùng biên giới của ta. Biết vậy, nhưng ta không
cho quân đuổi theo đánh chiếm lại ngay. Ta chủ trương để cho đạo quân Tống xâm lược
rút về nước, chấm dứt chiến tranh, sau sẽ thu hồi những vùng đất giặc còn giữ bằng đàm
phán ngoại giao kết hợp với uy hiếp quân sự.
Khi đại quân của giặc đã rút đi, Lý Thường Kiệt cho quân lên thu hồi bốn châu vùng biên
giới mà chúng còn chiếm đóng. Thấy quân ta tới, quân giặc ở đây cũng rút hết. Riêng châu
Quảng Nguyên (Cao Bằng) có nhiều mỏ vàng, mỏ bạc, nhà Tống không muốn trả. Lý
Thường Kiệt một mặt cho quân đóng uy hiếp bên ngoài Quảng Nguyên, phao tin sẽ đánh
vào Quảng Nguyên, một mặt ông cùng triều đình cho sứ sang Tống đàm phán. Đầu năm
1078, một sứ bộ của nhà Lý do Đào Tôn Nguyên dẫn đầu đem 5 con voi tặng vua Tống và
đòi lại châu Quảng Nguyên. Thấy sứ bộ ta sang, đem quân, đem voi vào đất Tống, vua tôi
nhà Tống e ngại nên đã chỉ thị cho các địa phương mà sứ ta đi qua: "Sứ Giao Chỉ tiến tới
Kinh, vì chúng mới cướp ta, nên phải lo đề phòng. Khi còn ở dọc đường cũng như khi tới
Kinh, hễ chúng ra vào phải cắt người theo dõi, xem xét".
Tháng 10 năm 1078, sứ bộ Đào Tôn Nguyên tới Kinh đô nhà Tống, vào gặp vua Tống.

Thấy cái thế không thể giữ được, vua Tống phải nhận lời trả lại châu Quảng Nguyên cho ta
khi ta trả lại cho nhà Tống những tù binh ta đã bắt trên đất họ và trên chiến trường nước ta.
Sứ ta ra về. Triều đình nhà Lý nhận lời trả tù binh cho nhà Tống. Cuối năm 1079, ta trả cho
nhà Tống 221 tù binh. Vua Tống đành phải bằng lòng và chỉ thị cho quan lại của họ ở
Quảng Tây phải nhận tù binh và trả Quảng Nguyên cho ta. Những kẻ tham lam, hiếu chiến
nhà Tống rất tiếc. Họ chê trách, mỉa mai vua Tống:
Nhân tham Giao Chỉ tượng
Khước thất Quảng Nguyên kim.
Dịch là:
Vua tham voi Giao Chỉ
Nên mất vàng Quảng Nguyên.
Thật ra vua tôi triều đình Tống lúc ấy cũng tiếc lắm. Nhưng thế không lấy được, đành phải
trả. Không những phải trả những đất mới chiếm giữ trong chiến tranh, mà mấy năm sau, vì
ta đòi rát quá, nên nhà Tống còn phải trả cho ta tất cả vùng đất sáu huyện gần biên giới mà
họ đã chiếm đoạt từ trước khi có chiến tranh.
23
Nhà Tống phải nhượng bộ ta, vì do gây sự với ta mà họ đã thiệt hại rất lớn. Riêng về cuộc
tiến công sang nước ta, nhà Tống chi mất 5 triệu đồng, 19 lạng vàng, chết gần 1 vạn ngựa,
quân sống sót trở về chỉ còn hơn 2 vạn; như vậy là khoảng 20 vạn quân chết trận ở Đại
Việt, cộng với hơn 10 vạn quân bị ta tiêu diệt trên đất Tống. Ta phá hủy hơn 10 thành trại
trên đất Tống, bắt rất nhiều tù binh, thu rất nhiều chiến lợi phẩm. Từ sau những chiến
thắng to lớn của ta lần này, trong suốt hai trăm năm sau, tức là cho tới khi triều Tống mất
nước, họ không dám xâm lược, lấn chiếm nước ta. Quan hệ ngoại giao giữa ta và nhà Tống
trở lại bình thường.
Chương ba
NGOẠI GIAO TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC THỜI TRẦN
(thế kỷ XIII)
Nói đến lịch sử ngoại giao thời đại tiếp theo thời Lý, tức thời nhà Trần thì chủ yếu là nói
đến những hoạt động ngoại giao của triều đình nhà Trần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
chống quân Nguyên xâm lược kể từ ngày chúng mới đe dọa ngoại giao tới sau khi chiến

tranh kết thúc, không phải tiến hành ngoại giao hòa bình để xin lại tù binh. Về quân sự, dân
tộc ta ba lần đánh thắng quân Nguyên. Về ngoại giao, dân tộc ta cũng kiên trì dũng cảm
đấu tranh với địch và đã giành nhiều thắng lợi quan trọng, góp phần không nhỏ vào những
chiến thắng chống xâm lược vô cùng vĩ đại của dân tộc ta vào thời Trần.
I. ĐE DỌA NGOẠI GIAO VÀ TRẤN ÁP NGOẠI GIAO
Ở nước ta, đầu thế kỷ XIII, nhà Trần lên cầm quyền thay thế nhà Lý, quan hệ đối ngoại với
nhà Tống vẫn tiếp tục bình thường, mặc dầu có dấu hiệu trục trặc lúc ban đầu. Nhà Trần
được thiết lập đầu năm 1226. Nhà Tống (Trung Quốc) không chấp nhận quan hệ ngoại
giao với nhà Trần, ý muốn kiếm chuyện với ta, nhưng còn do dự, vì sự thất bại của nhà
Tống thời Lý Thường Kiệt còn ám ảnh vua tôi nhà Tống, chưa quên được.
Năm 1229, Trần Thái Tông cho sứ sang Tống cầu phong. Nhà Tống không đáp lại. Nhà
Trần không cần và cũng không có quan hệ gì thêm. Nhưng Tống cũng không yên ổn để có
thái độ trịch thượng lâu dài đối với ta. Đến năm 1232, người Mông Thát đã bắt đầu xâm
lược Trung Quốc, sau đó thống trị Trung Quốc, lập nên triều đại nhà Nguyên. Trước hết họ
đánh phá nước Kim, lúc ấy là một nửa lãnh thổ Trung Quốc về phía bắc. Năm 1234, Mông
Thát chiếm đóng cả nước Kim và bắt đầu đe dọa nước Tống, lúc ấy là nửa phía nam Trung
Quốc.
Năm 1234, Mông Thát cho hai đạo quân tiến đánh Tống, một đạo đánh xuống Tương
Dương, Phàn Thành; một đạo tiến xuống Thành Đô (Tứ Xuyên). Đầu năm 1236, Mông
Thát đánh Thành Đô. Cuối năm 1236, nhà Tống phải đặt quan hệ giao hảo với nhà Trần,
họ cho sứ mang các thư phong vương cho vua Trần. Sự giao hảo vội vàng của nhà Tống
với ta cho thấy những lo ngại của họ trước cuộc chiến tranh xâm lược ồ ạt của Mông Thát
vào đất Tống và chung quanh đất Tống. Cho sứ sang gấp nước ta, nhà Tống muốn tranh
thủ quan hệ hữu hảo với ta, phòng trước sự tiếp xúc của Mông Thát với ta, có thể bất lợi
cho Tống.
24
Hành động thân thiện của nhà Tống là một bảo đảm cho ta không có gì phải lo đối phó với
Tống, mà cái chính phải lo tính lúc ấy là cuộc xâm lược của Mông Thát đang ngày càng
mở rộng và tiến sâu xuống phía nam. Những biến động trên đất Tống, do sự thâm nhập của
quân Mông Thát, có thể ảnh hưởng tới nền an ninh biên giới nước ta. Và cũng rất có thể

Mông Thát đưa chiến tranh xâm lược của chúng vào nước ta. Cho nên về đối ngoại lúc
này, ta phải lo đối phó với Mông Thát là chủ yếu.
Từ năm 1236, sau khi đánh Thành Đô, quân Mông Thát tiến dần xuống phía nam, thường
cho du binh đột nhập vùng Quảng Đông, Quảng Tây cướp phá rồi rút đi, gây tình hình rối
ren cao độ ở miền nam nước Tống. Giặc cướp nổi lên khắp nơi, quan, tướng nhà Tống ở
đây không sao trấn trị được.
Cuối năm 1240, giặc cướp trên đất Tống tràn qua biên giới vào vùng Lạng Giang (tức
Lạng Sơn) giết người cướp của. Viên quan trấn thủ Lạng Giang đưa tin cáo cấp triều đình.
Đây chưa phải là giặc Mông Thát mà là người nước Tống, một nước còn quan hệ thân
thiện với ta. Triều đình nhà Trần có thái độ và phương hướng xử trí thích đáng, cương
quyết không dung thứ mọi hành động xâm lấn từ bên ngoài, bất luận kẻ xâm lấn là ai. Sử
cũ ghi: "Nhà vua sai thị thần là Bùi Khâm đi trù liệu sắp xếp việc này", "đi chỉnh lý công
việc biên thùy ở mặt bắc". Thực chất của sự việc là Bùi Khâm được lệnh cầm quân lên
Lạng Giang dẹp giặc và củng cố biên phòng.
Một năm sau (1241), giặc cướp bên Tống lại tràn sang cướp phá miền biên giới nước ta.
Triều đình nhà Trần cho đốc tướng Phạm Kính An đem quân lên biên giới đánh giặc.
Chính vua Trần lúc ấy là Trần Thái Tông cũng tự cầm đầu một đạo quân, theo đường thủy
tiến ra vùng biển Quảng Ninh. Vua Trần đưa quân vượt biên thùy, sang hẳn đất Tống để
đánh giặc cướp trên suốt một dải ven biển, từ trại Vĩnh Bình lên Khâm Châu, Liêm Châu
rồi mới trở về. Hành động quân sự này của vua Trần vừa giúp Tống đánh dẹp giặc cướp,
bảo đảm an ninh miền biên giới nước ta vừa tạo điều kiện cho vua Trần và các tướng lĩnh
đi cùng hiểu sâu hơn tình hình quân dân Tống, thấy được tận mắt khả năng tiến triển của
cuộc chiến tranh Mông - Tống, từ đó định ra sách lược của ta để đối phó với cả hai bên
Mông và Tống, khi chiến tranh lan tới biên giới nước ta.
Tình hình an ninh ở miền nam nước Tống ngày càng xấu. Quan lại nhà Tống vùng này bất
lực. Quân ta rút về thì giặc cướp lại hoành hành, lại xâm phạm biên giới nước ta. Nhà Trần
thấy cần phải hành động mạnh mẽ, kiên quyết hơn. Năm 1242, vua Trần cho tướng đưa
quân lên đóng tại lộ Bằng Tường thuộc đất Tống, cách biên giới nước ta chừng vài chục
ki-lô-mét. Khi quân của triều đình nhà Tống xuống đảm nhiệm được việc giữ gìn trật tự
miền biên giới thì quân ta rút về.

Do đấy miền biên giới nước ta và Tống tạm yên. Nhưng miền biên giới nước ta giáp Vân
Nam thì dần dần biến động nghiêm trọng.
Vân Nam thời đó chưa phải là đất Trung Quốc, mà là lãnh thổ của một số dân tộc độc lập,
trong đó có nước Đại Lý ở liền sát biên giới nước ta. Giữa ta và Đại Lý trải mấy trăm năm,
quan hệ biên giới được duy trì tốt. Nếu Mông Thát đánh chiếm Đại Lý thì miền biên giới
nước ta giáp Đại Lý sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng. Mà Đại Lý mất nước là điều không tránh
25

×