Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Lược sử ngoại giao VN các thời trước - Chương mười NGOẠI GIAO THỜI NGUYỄN (Thế kỷ XIX) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.65 KB, 6 trang )

Lược sử ngoại giao VN các thời trước
Chương mười

NGOẠI GIAO THỜI NGUYỄN
(Thế kỷ XIX)

I. NGOẠI GIAO CỦA HỌ NGUYỄN Ở GIA ĐỊNH NHỮNG NĂM CUỐI THẾ KỶ
XVIII

Trong nhưng năm cuối thế kỷ XVIII, dòng chúa Nguyễn có Nguyễn Ánh nổi lên chống
lại phong trào Tây Sơn. Nguyễn Ánh tích cực hoạt động ngoại giao để tìm sự giúp đỡ từ
bên ngoài. Giúp đỡ về tinh thần và vật chất, về chính trị hay về quân sự, đối với Nguyễn
Ánh lúc này, đều là cần thiết.

Quan hệ ngoại giao giữa nhà nước với nhà nước tuy chưa có, nhưng Nguyễn Ánh vẫn
thường xuyên liên hệ với người phương Tây để thuê mượn họ giúp việc tổ chức quân đội
và nhờ họ mua sắm tàu thuyền, vũ khí châu Âu.

Người Pháp, người Bồ Đào Nha đã tới làm việc với Nguyễn Ánh. Từ nhưng năm cuối thế
kỷ XVIII, một số người Pháp đã cầm vũ khí cùng Nguyễn Ánh chống lại nhân dân Việt
Nam, chống phong trào Tây Sơn.

Năm 1790, Nguyễn Ánh nhờ võ quan Pháp củng cố quân đội và xây dựng lại thành Gia
Định theo kiểu thành châu Âu.

Bộ binh của Nguyễn Ánh có 40 võ quan Pháp.

Thủy binh của Nguyễn Ánh có hai tàu chiến kiểu châu Âu do võ quan Pháp chỉ huy.

Cuối năm 1790, Nguyễn Ánh cho người đi Gia-các-ta (thuộc In-đô-nê-xi-a), tìm mua
binh khí châu Âu



Năm 1791, Nguyễn Ánh viết thư gửi vua Bồ Đào Nha, nhờ một người lái buôn Bồ Đào
Nha là Chu-gi-nô-nhi đưa về nước xin mua 2 vạn súng điểu thượng, 2 nghìn cỗ đại bác
bằng gang, mỗi cỗ nặng 100 cân, 2 nghìn viên đạn gang, đường kích 10 tấc.

Năm 1793, Nguyễn Ánh lại nhờ hai người Pháp sang Ma-lac-ca và Goa (thuộc Ấn Độ)
mua vũ khí.

Với Trung Quốc, tuy chưa có ngoại giao chính thức, Nguyễn Ánh cũng đã hai lần cho
người sang Trung Quốc. Lần thứ nhất (1796), Nguyễn Ánh cho Chu Văn Yên sang Trung
Quốc mua sách và mua hàng hóa. Lần thứ hai (1798), Nguyễn Ánh cho Ngô Nhân Tĩnh
đem thư sang Quảng Đông hỏi thăm tin tức của Lê Chiêu Thống. Ngô Nhân Tĩnh đến
Quảng Đông, biết vua Lê Chiêu Thống đã chết, trở về ngay báo cho Nguyễn Ánh biết.
Được tin này, Nguyễn Ánh mưu đồ bỏ ngôi chúa, và chuẩn bị ngự trị ngôi vua.

II. NGOẠI GIAO TRIỀU GIA LONG (1802-1819)

Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long và từ
đây tiến hành ngoại giao với tư cách một quốc vương mở đầu triều đại mới.

1. Ngoại giao với Trung Quốc

Cũng như các triều đại trước, nước đầu tiên mà Gia Long Nguyễn Ánh tiến hành ngoại
giao là Trung Quốc. Tháng 5 năm Nhâm Tuất, sau khi lên ngôi vua, Gia Long cho một
đoàn sứ giả đem đồ uống sang Quảng Đông cầu phong triều đình Trung quốc. Dẫn đầu
đoàn sứ giả là Trịnh Hoài Đức chánh sứ, Ngô Nhân Tĩnh và Hoàng Ngọc Uẩn là phó sứ.
Đoàn sứ giả sang Quảng Tây, bọn quan lại nhà Thanh ở đây nhận chuyển đồ cống lên
Bắc Kinh, còn giữ đoàn sứ ở lại Quảng Tây chờ lệnh triều đình có cho sứ giả lên Bắc
Kinh triều yết hay không.


Nguyễn Ánh cho đoàn sứ đem theo mấy tên tướng Tàu Ô Trung Quốc bị quân Nguyễn
bắt để nộp cho nhà Thanh. Triều đình Thanh lệnh cho quan tỉnh Quảng Tây xử tử những
tên tướng Tàu Ô, nhưng vẫn chưa lệnh cho sứ giả của Gia Long lên Bắc Kinh.

Thấy sứ giả đi từ tháng 5 mà mấy tháng sau vẫn còn ở Quảng Tây, Gia Long cho người
lên cửa ải Nam Quan, đưa thư sang hỏi quan tỉnh Quảng Tây và chờ tin trả lời.

Ít lâu sau, Gia Long được triều đình Bắc Kinh báo cho biết là đoàn sứ Trịnh Hoài Đức chỉ
mới là đoàn sứ đem nộp đồ cống, phải cho một đoàn sứ khác đem biểu văn cầu phong
sang. Khi đoàn sứ cầu phong tới Quảng Tây sẽ cùng đoàn sứ Trịnh Hoài Đức lên Bắc
Kinh.

Gia Long phải nghe theo, lại cho một đoàn sứ nữa gồm Lê Quang Định làm chánh sứ, Lê
Chính Lộ và Nguyễn Gia Cát làm phó sứ đem đồ cống và biểu văn sang cầu phong. Đoàn
sứ Lê Quang Định còn làm thêm một nhiệm vụ là báo cho nhà Thanh biết Gia Long đổi
tên nước ta là Nam Việt. Nước ta lấy tên nước là Đại Việt từ lâu đời. Có lẽ Gia Long sợ
Trung Quốc không bằng lòng: Trung Quốc là Đại Thanh, ta là Đại Việt, hai nước cùng
"Đại" cả, tức là ngang hàng nhau, cho nên Gia Long tự ý đổi là Nam Việt.

Mùa thu năm 1803, triều đình Bắc Kinh cho viên án sát tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Xâm đi
sứ sang Việt Nam tuyên phong cho Gia Long.

Sứ Trung Quốc Tề Bố Xâm chỉ sang Thăng Long để làm lễ tuyên phong như các thời
trước, không chịu vào Phú Xuân.

Gia Long phải từ Phú Xuân tiến hành "ngự giá Bắc tuần" để bái yết sứ Thanh và tiếp
nhận chiếu phong vương.

Đầu năm Giáp Tý (1804), sứ Trung Quốc tới Thăng Long. Ngày 13 tháng giêng năm
Giáp Tý, lễ tuyên phong tổ chức tại điện Kính Thiên.


Vua Thanh cho sứ đem gấm, đoạn và nhiều phẩm vật sang tặng vua Việt Nam. Về tên
nước ta, vuaThanh không muốn ta dùng tên Nam Việt là tên nước đã có từ thời Triệu Đà,
bao gồm cả hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. Nên sau này tên nước được gọi là Việt
Nam như ngày nay.

Gia Long cho một đoàn sứ giả do Lê Bá Phẩm làm chánh sứ, Trần Minh Nghĩa, Nguyễn
Đăng Đệ làm phó sứ đem thư, tặng phẩm sang tạ vua Thanh. Tặng phẩm tức là lễ cống
hàng năm, gồm 200 lạng vàng, 1.000 lạng bạc, 100 tấm lụa, 100 tấm the, 2 chiếc sừng tê,
100 cân ngà voi và 100 cân quế tốt. Gia Long lại xử hậu hĩ, nộp luôn cả cống phẩm năm
sau (1805) và cống phẩm năm trước (1803) chưa nộp. Như vậy tổng cộng tặng phẩm do
đoàn sứ Lê Bá Phẩm đưa đi là 600 lạng vàng, 3.000 lạng bạc, 300 tấm lụa, 300 tấm the, 6
cái sừng tê, 300 cân ngà voi và 300 cân quế tốt.

Năm 1809, triều đình nhà Nguyễn cho một đoàn sứ 36 người do Nguyễn Hữu Thận làm
chánh sứ đem nộp cống phẩm hai năm (1808-1809). Đoàn sứ 36 người, gồm có chánh sứ,
2 phó sứ, 9 hành nhân, 2 lục sự, 4 thư ký, 1 điền hộ, 2 thông sự và 15 người theo hầu.

Một tháng sau, tức tháng tư âm lịch, Gia Long lại cho một đoàn sứ do Võ Trinh làm
chánh sứ đem tặng vật sang mừng “Khánh tiết ngũ tuần" tức mừng vua Thanh 50 tuổi.
Đồ mừng gồm có 2 đôi ngà voi, 4 bộ sừng tê, 100 tấm trừu, 100 tấm the, 100 tấm lụa và
100 tấm vải.
__________________
2. Ngoại giao với Xiêm

Trước khi lên ngôi vua, Gia Long đã sống lưu vong nhiều năm ở Xiêm, từng được Xiêm
giúp đỡ nhiều lần, khi giúp lương, khi giúp quân để chống lại phong trào Tây Sơn. Năm
1806, Gia Long chính thức lên ngôi vua, Xiêm lại cho đem biếu Gia Long ba chiếc
thuyền chiến.


Đáp lại, năm 1808, Gia Long cho sứ sang Xiêm, tặng vua Xiêm 2 cân kỳ nam, 3 cân quế,
100 tấm lụa, 200 tấm the, 50 tấm vải đen và trắng.

Đầu năm 1810 (tháng 12 năm Kỷ Tỵ), nhân việc tang vua Xiêm, Gia Long cho hai đoàn
sứ sang Xiêm. Một đoàn sang dự lễ tang, đem đồ phúng gồm 1.000 cân đường phổi,
1.000 cân đường phèn, 1.500 cân đường cát, 500 cân sáp ong, 100 tấm lụa trắng, 100 tấm
vải trắng.

Một đoàn sang tặng vua Xiêm mới lên ngôi. Lúc ấy Xiêm có hai vua mới, Gia Long đưa
quà tặng cả hai vua. Tặng vua thứ nhất: 2 cân kỳ nam, 3 cân nhục quế, 100 tấm lụa, 200
tấm the màu, 100 tấm sa màu, 100 tấm vải nhỏ. Tặng vua thứ hai: 1 cân kỳ nam, 1 cân 8
lạng nhục quế, 50 tấm lụa, 100 tấm the màu, 50 tấm sa màu, 50 tấm vải trắng.

Năm sau, tức năm 1811, Gia Long lại cho đem quà tặng sang Xiêm. Tặng vua Xiêm thứ
nhất: 120 tấm lụa trắng, 100 tấm vải trắng, 2.000 cân đường cát, 500 đường phổi, 500 cân
đường phèn. Tặng vua Xiêm thứ hai: 80 tấm lụa trắng, 80 tấm vải trắng, 1.000 cân đường
cát, 300 cân đường phổi, 300 cân đường phèn.

Cuối năm 1813, Gia Long lại cho sứ đem tặng phẩm sang Xiêm. Tặng vua Xiêm thứ
nhất: 2 cân quế, 50 tấm lụa vàng, 40 tấm sa, 200 tấm lụa trắng, 500 cân đường phổi, 500
cân đường phèn, 2.000 cân đường cát, 16 tảng đá xanh. Tặng vua Xiêm thứ hai: 1 cân
quế, 25 tấm lụa vàng, 25 tấm sa, 100 tấm lụa trắng, 300 cân đường phổi, 300 cân đường
phèn, 1.000 cân đường cát.

Giữa năm 1814, vua Xiêm cho sứ đem tặng phẩm sang biếu Gia Long. Gia Long hậu đãi
sứ và gửi tặng vua Xiêm thứ nhất: 40 lạng vàng, 500 lạng bạc; tặng vua Xiêm thứ hai: 20
lạng vàng, 100 lạng bạc.

Cuối năm 1814, vua Xiêm cho sứ đem quà sang tặng Gia Long. Gia Long đáp lại, tặng
vua Xiêm thứ nhất: 40 lạng vàng, 500 lạng bạc; tặng vua Xiêm thứ hai: 20 lạng vàng, 300

lạng bạc.

Mùa thu năm 1816, vua Xiêm cho sứ đem quà tặng Gia Long. Gia Long đáp lại, tặng vua
Xiêm thứ nhất: 40 lạng vàng, 500 lạng bạc; tặng vua Xiêm thứ hai: 20 lạng vàng, 300
lạng bạc.

Mùa thu năm 1817, Xiêm báo tin vua Xiêm thứ hai chết. Gia Long cho sứ sang tặng vua
Xiêm thứ nhất: 300 tấm lụa trắng, 300 tấm the trắng, 300 tấm vải nhỏ trắng. Phúng tang
vua Xiêm thứ hai: 300 cân sáp ong, 100 tấm vải trắng, 300 cân đường phổi, 300 cân
đường phèn, 2.000 cân đường cát.

Như vậy trong suốt thời gian thời Gia Long, quan hệ giữa ta với Xiêm là tốt, hòa hảo hữu
nghị.

3. Quan hệ với Chân Lạp, Ai Lao và các nước Đông Nam Á

Đối với Chân Lạp, mùa thu năm 1807, Chân Lạp cho sứ sang cầu phong. Gia Long
phong vua Chân Lạp là Nặc Chân làm Cao Miên quốc vương và định lệ cho Chân Lạp 3
năm cống một lần. Mấy năm sau, Chân Lạp có biến, nội bộ hoàng tộc tranh giành ngôi
vua, quốc vương Chân Lạp Nặc Chân phải chạy sang Việt Nam. Năm 1813 Gia Long cho
tổng trấn Gia Định - Lê Văn Duyệt đem 13.000 quân đưa Nặc Chân về Chân Lạp, tiếp tục
giữ ngôi vua.

Thấy của cải của triều đình Chân Lạp không có gì Gia Long tặng vua Nặc Chân 3.500
lạng bạc, 5.000 quan tiền và 1 vạn hộc thóc. Gia Long còn cho quân giúp Chân Lạp đắp
hai thành lớn.

Tháng bảy năm Quý Dậu (1813), hai thành ở Chân Lạp đắp xong, vua Chân Lạp cho đem
tặng Gia Long 88 thớt voi. Biết triều đình Chân Lạp còn túng thiếu, Gia Long không
nhận biếu mà nhận mua 88 con voi theo thời giá bấy giờ. Thời giá mua bán voi khi ấy là:


Voi cao 6 thước trở lên là hạng nhất, giá 50 lạng bạc .

Voi cao 5 thước 3 tấc là hạng nhì, giá 40 lạng bạc.

Voi cao 4 thước 4 tấc trở lên là hạng ba, giá 30 lạng bạc.

Đối với nước láng giềng Ai Lao, Gia Long có thông hiếu. Sứ ta và sứ Ai Lao thường qua
lại, không có vấn đề gì giữa hai nước.

Đối với các nước khác ở Đông Nam Á, nước ta thời Gia Long, không có quan hệ ngoại
giao cấp nhà nước, nhưng nhân dân các nước trong khu vực thường qua lại buôn bán với
nhau.

4. Quan hệ với người phương Tây

Giữa năm 1803, nước Anh cho sứ tới thông hiếu, đưa quà tặng và xin cho mở cửa hiệu
buôn bán ở núi Trà Sơn, cảng Đà Nẵng. Gia Long không đồng ý và không nhận quà tặng.

Một năm sau, tức giữa năm 1804, chính phủ Anh lại cho sứ đưa thư và đưa quà tặng, xin
mở hiệu buôn ở Đà Nẵng. Gia Long vẫn không chấp nhận.

Do chính sách bế quan của Gia Long như vậy nên trong thời Gia Long, việc buôn bán với
người phương Tây bị hạn chế.

Năm 1817, Gia Long cho một số quan lại nghiên cứu đo vẽ bản đồ vùng ven biển nước ta
cùng với 143 cửa biển từ Quảng Yên vào Hà Tiên. Giữa năm có thuyền buôn của người
phương Tây tới Đà Nẵng, họ nhân dịp này tặng triều đình Gia Long bản đồ đảo Hoàng Sa
của ta do họ vẽ. Gia Long tặng họ 20 lạng bạc.


Cuối năm 1817, một tàu của Pháp tới Đà Nẵng xin vào kính dâng tặng phẩm, Gia Long
không nhận, không để họ lên kinh đô Huế mà vẫn để các quan ở Quảng Nam, Đà Nẵng
tiếp đãi họ.

Gia Long còn truyền lệnh: nếu tàu Pháp kéo cờ và bắn 21 phát súng chào mừng thì trên
đài Điện Hải của ta cũng bắn 21 phát súng đáp lại. Nhưng từ đấy về sau, tàu các nước
khác đến, dù họ bắn súng chào nhiều thế nào, ta cũng chỉ bắn ba phát súng làm hiệu đáp,
không bắn hơn.

Giữa năm 1818, Gia Long chuẩn y cho các thương nhân nước ngoài, từ Ma Cao và các
nước phương Tây đến buôn ở Gia Định được nộp thuế cảng và thuế hàng hóa bằng bạc
ngoại quốc, hoặc bằng nửa bạc nửa tiền, hoặc toàn bằng tiền đều được cả.

Thuế thuyền nước ngoài đến buôn bán, từ năm 1818, định ngạch ở hai nơi, Thuận An, Đà
Nẵng và Gia Định khác nhau.

Tới buôn ở Thuận An, Đà Nẵng, thuyền chiều ngang từ 25 đến 14 thước, mỗi thước đánh
thuế 96 quan. Thuyền chiều ngang từ 13 đến 7 thước, mỗi thước đánh thuế 60 quan.

Tới buôn ở Gia Định, thuyền chiều ngang từ 25 thước đến 14 thước, mỗi thước đánh thuế
160 quan. Thuyền chiều ngang từ 13 thước đến 7 thước, mỗi thước đánh thuế 100 quan.

Ngoài những thuế trên, thuyền buôn nước ngoài còn phải nộp tiền cho ba thứ lễ, là lễ
dâng vua, lễ dâng hoàng thái hậu (mẹ vua) và lễ dâng hoàng thái tử (con trưởng của vua),
thêm một lễ thứ tư nữa là lễ cho quan cai tàu. Riêng tiền lễ cai tàu mỗi năm cũng thu
được 8 - 9 nghìn quan.

Còn thuyền buôn của dân ta từ Quảng Bình trở vào đi buôn ở Hạ Châu (Xanh-ga-po),
phần nhiều là thuyền nhỏ, từ giữa năm 1818, đánh thuế như sau: thuyền chiều ngang 9
thước, đánh thuế mỗi thước 20 quan, thuyền chiều ngang 10 thước trở lên, mỗi thước

đánh thuế 30 quan.

Ở thời Gia Long, tuy đã là hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, quan hệ ngoại giao của nước ta
vẫn còn bó hẹp, quan hệ ngoại thương cũng rất hạn chế. Chưa có ngoại thương song
phương. Chỉ có người nước ngoài đến buôn bán ở ta là chính. Nhà nước và nhân dân ta
chưa làm ngoại thương.

×