Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Lý Thường Kiệt - Dấu chân trên đất Tống phần 4 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.16 KB, 15 trang )

Lý Thường Kiệt - Dấu chân trên đất Tống
V. Dấu chân trên đất Tống.

Khoảng thượng tuần tháng 9 năm Ất Mão (1075) bắt
đầu những cuộc tiến quân của Lý theo chiến sách đã
được đặt ra : khôn khéo, bất ngờ và táo bạo.

1. Phá biên giới và đánh úp Khâm, Liêm.

Ngày 15-9 (Âm Lịch) tức ngày 27-10 năm 1075.
Quân của Vi Thủ An từ Tô Mậu vào đánh Cổ Vạn,
chiếm được trại Cổ Vạn dễ dàng, nhưng trận này có
lẽ chỉ để thăm dò. Tin tức đến triều đình Biện Kinh
của Tống mất gần tháng rưỡi, tức là đến tận trung
tuần tháng 11 (ÂL), vua Tống mới biết Cổ Vạn đã
mất rồi. Nhưng vua tôi Tống mới chỉ nghĩ là những
việc cướp nhỏ mà thôi, Thần Tông còn bảo Lưu Di
kể tên những người có chiến công và giúp đỡ những
người có nhà bị cướp và bị đốt.

Không thấy Tống có động tĩnh gì lớn, Lý Thường
Kiệt lệnh quân tràn vào đất Tống. Bộ binh ở các châu
dọc biên giới kéo đến chiếm các trại Vĩnh Bình, Thái
Bình; quân từ Quảng Nguyên và châu Môn ( của tù
trưởng Hoàng Kim Mãn) chiếm trại Hoành Sơn; quân
từ Lạng Châu vào lấy những châu Tây Bình rồi kéo
vào Cổ Vạn…Tướng Tống và chúa các trại ở Ung
châu tử trận rất nhiều : chúa trại Hoành Sơn là Lâm
Mậu Thăng, viên quản hạt Vĩnh Bình là Tô Tá, viên
quản hạt Thái Bình là Ngũ Cử, viên giáp áp trại Thái
Bình là Quách Vĩnh Nghiêm… đều chết. Biên giới


Ung châu gần như đã bị bỏ ngỏ.

Bấy giờ là vào khoảng thượng tuần tháng 11 (ÂL) tức
là cuối tháng 12-1075, Đôn quốc thái uý Đại tướng
quân Lý Thường Kiệt thống lĩnh đại quân từ Vĩnh An
men biển tiến quân vào đánh úp Khâm châu và Liêm
châu. Đường bể đi mất khoảng vài ngày là vào đến
Khâm, đồng thời bộ binh đóng gần biên giới Khâm
châu cũng kéo vào các trại Như Tích và Để Trạo.
Quân Tống hoàn toàn bị bất ngờ, ngày 20 tháng 11
(ÂL) tức 30-12-1075 Khâm châu bị chiếm. Ba ngày
sau (2-1-1076), Liêm châu cũng mất, chúa các trại
Như Tích và Để Trạo đều tử trận. Viên coi Khâm
Châu là Trần Vĩnh Thái trước đó đã có người báo cho
là Giao Chỉ sắp vào đánh, nhưng Thái không tin, đến
khi chiến thuyền của Lý đã tới đến nơi, Thái vẫn còn
bày rượu uống. Quân Lý đột nhập vào thành không
mất người nào, bắt Vĩnh Thái và bộ hạ, lừa lấy của
cải rồi đem giết hết. Về sau này người Khâm châu lập
đền thờ Vĩnh Thái nhưng vẫn chê cười Vĩnh Thái là
ngu muội.

Ở Liêm châu, vì đã biết tin Khâm châu mất nên có
phòng bị đôi chút. Song lúc đó quân Lý ào ạt kéo
vào, quân số lại đông gấp bội nên chiếm Khâm dễ
dàng, bắt tới 8 ngàn tù binh dùng để đưa đồ vật lấy
được xuống thuyền rồi cũng đem giết sạch. Viên coi
Khâm châu là Lỗ Khánh Tôn và bộ hạ như bọn
Lương Sở (tri huyện Hợp Phố), giáp áp Chu Thông
Thích, chỉ sứ Ngô Tông Lập… cũng đều tử trận.


Như vậy chiến lược của Lý Thường Kiệt bước đầu
thành công hoàn toàn, trong một thời gian ngắn đã
phá tan biên giới Ung và chiếm được hai châu Khâm,
Liêm. Đường đến thành Ung đã được mở rộng cả hai
phía : từ Khâm Liêm đánh vào và cả từ các trại phía
Tây Nam của Ung đánh vào. Bấy giờ tuy quân Tống
đã tan tác hết, nhưng Lý Thường Kiệt vẫn sợ dân
Tống oán thù mà gây bất lợi chăng ? Thường Kiệt
mới sai làm Phạt Tống lộ bố văn, yết dọc đường để
lấy danh nghĩa và gây thanh thế.

Phạt Tống lộ bố văn có đoạn viết : “ Có những dân
Giao Chỉ làm phản rồi trốn sang Trung Quốc. Các
quan lại dung nạp và dấu đi (chỉ vụ Nùng Thiện Mỹ ở
châu Ân Tình). Ta đã khiến sứ sang tố giác các việc
ấy, quan coi Quế Châu không chịu trả lời (chỉ việc
Lưu Di không chịu chuyển biểu). Ta lại sai sứ vượt
bể sang tố cáo với Quảng Châu, quan coi Quảng
Châu cũng không chịu báo. Vì vậy ta tới đuổi bắt dân
trốn ấy…” ; ý nói quân Lý sang đánh chỉ là tự vệ : “
Quan coi Quế Châu đã kiểm điểm dân các động và đã
tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao Chỉ”; lại
muốn dụ dỗ dân Tống : “ Trung Quốc dùng các phép
thanh miêu, trợ dịch, làm dân khốn khổ. Nay ta đem
quân tới cứu…”

Bia của Nhữ Bá Sỹ thời Tự Đức nhà Nguyễn chép về
Lý Thường Kiệt có đoạn chép : “…dân Tống thấy lời
tuyên cáo, vui mừng đem trâu rượu ra khao quân ta,

lại bảo dân Tống thấy hiệu Lý Thường Kiệt ở đàng
xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước
Nam; rồi cùng nhau bày hương án phục ở bên
đường”…e rằng sai sự thật. Theo ý của người chép,
thì Ung Châu gần vùng khê động, ở các trại biên giới
dân các động rất nhiều nên ảnh hưởng của vương
triều Tống chưa rõ rệt. Khi thổ binh của ta tràn vào,
dân ở đấy chắc theo gương mà hàng và cũng không
chống cự nhiều, sự tiến quân do đó dễ dàng. Vả lại
quân Lý đi đến đâu, giết người không nương tay tới
đó, khiến dân Tống rất sợ hãi. Sau này vào sâu nội
địa, quân dân Tống càng chống cự hăng thêm, điển
hình là trận vây thành Ung Châu khốc liệt.

2. Tiến sâu vào nội địa, vây Ung Châu.
Quân Lý thừa thế tấn công, thổ binh của các tù
trưởng tràn qua các trại phía Tây của Ung : Thái
Bình, Vĩnh Bình, Thiên Long, Cổ Vạn đều mất. Ngày
10 tháng chạp, các đạo quân này kéo thẳng đến vây
Ung Châu (18-1-1076).

Mặt Đông Nam, đại quân Lý Thường Kiệt chia làm
hai đạo, một đạo từ Khâm châu đánh thẳng lên phía
Bắc vào thành Ung, một đạo từ Liêm Châu tiến lên
phía Đông Bắc để chặn viện binh từ phía Đông tới
cứu Ung Châu. Đạo quân thứ hai chiếm châu Bạch,
châu Dung, giết một loạt các viên đô tuần kiểm ở đó
như Phạm Nhược Cốc, Vương Đạt rồi dừng lại đợi
viện binh Tống…Còn đạo quân thứ nhất vượt 120
cây số đường bộ và dãy núi Thập Vạn đến hội quân

với Lưu Kỷ, Tôn Đản, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An
đang chuẩn bị vây thành Ung châu.

Trong khi quân ta vây thành Ung, đến tận ngày 20
tháng Chạp (28-1-1076), tin Khâm châu mất mới về
được triều đình Tống. Vua tôi Tống hoang mang, cả
triều náo động. Quảng Nam tây lộ kinh lược sứ cấp
tốc xin 2 vạn binh, 3 ngàn ngựa và một tháng lương,
cùng với khí giới, đồ dùng và xin điều động quân khê
động; ti kinh lược Quảng Tây cũng dời đến thành
Tượng, gần phía Bắc Ung Châu để tiện việc điều
quân chống lại ta. Tống Thần Tông nghe theo, lại sai
người tới ti kinh lược Quảng Tây để chuẩn bị tướng
lệnh. Lúc đó Tống lại sợ ta nhân thể men biển tiến
nốt vào chiếm cả Quảng Châu, vua Tống lệnh cho
các quan coi Quảng Châu phòng bị cẩn mật, lại dụ
các tướng ở Quảng Tây phải cố thủ, giữ các nới hiểm
yếu, không được khinh địch.

Hai ngày sau, được tin Liêm châu mất nốt, cả triều
Tống thêm lo sợ và bối rối. Tống Thần Tông dặn ti
kinh lược Quảng Tây : “Nếu xem chừng có quân
Giao Chỉ tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ
mấy chỗ hiểm yếu mà thôi…” sau đó lại dặn lại :
“Nếu quân bỏ thành mà đi chỗ khác, thì lo rằng lòng
dân rối sợ. Hãy bảo các quan ti đều phải trở lại thành
mình”, hai đạo chiếu trái ngược nhau.

Tống Thần Tông một mặt cắt chức Quảng Tây kinh
lược sứ Lưu Di, cho Thạch Giám lên thay; một mặt

khẩn cấp điều binh lương và mộ đinh tráng quanh đó
đem tới Quế Châu. Tống còn định đem quân Hà Bắc
xuống miền Nam để ti kinh lược Quảng Tây dùng,
mục đích ngăn chặn quân Lý tiến lên phía Bắc. Quan
trọng hơn cả, Thần Tông và Vương An Thạch sai
Triệu Tiết làm An Nam đạo hành doanh mã bộ quân
đô tổng quản, kinh lược chiêu thảo sứ, chuẩn bị đem
quân sang đánh trả thù.

3. Trận Ung Châu.

Thành Ung rất chắc chắn, lại có An Phủ đô giám Tô
Giàm là tướng lão luyện, dũng cảm đã từng nhiều lần
đánh nhau với quân khê động, ngày trước can Thẩm
Khỉ và Lưu Di đừng nên khiêu khích gây chiến với ta
mà không được. Bấy giờ quân Lý kéo theo hai ngả
tới thành Ung vào khoảng trung tuần tháng Chạp
(cuối tháng 1-1076), mấy vạn quân của Lý Thường
Kiệt, Lưu Kỷ và các tù trưởng khác vây thành Ung
vài vòng kín như bưng.

Tô Giàm ban đầu tin rằng Ung cách Quế Châu có 14
ngày đường, nên viện binh thế nào cũng sẽ đến kịp
cho nên đóng cửa thành cố thủ. Kiểm điểm binh
lương, trong thành Ung lúc ấy chỉ có 2.800 quân. Dân
thành Ung tất cả được gần 6 vạn người bấy giờ sợ hãi
đạp nhau mà chạy. Tô Giàm đem hết của cải trong
thành bày ra rồi dùng lời phủ dụ dân chúng, lại dọa
giết những người chạy trốn, chúng mới chịu ở lại.
Trước đó con Giàm là Tử Nguyên làm quan ở Quế

Châu đem gia đình đến thăm cha, lúc sắp trở về thì
Ung bị vây, Tô Giàm lại bắt Tử Nguyên để vợ con ở
lại chỉ được về Quế Châu một mình mà thôi. Xem thế
thì biết lần này Giàm hăng hái quyết tâm chống lại
quân ta, mà lại được lòng quân dân lắm.

Quân Lý vây thành ráo riết, Giàm mộ hơn 100 quân
cảm tử, trèo thuyền trên sông Ung đến đánh quân ta,
giết được 10 voi lớn và hai tướng. Lại dùng thứ cung
thần tí bắn được một phát nhiều tên giết lính rất
nhiều, ta dùng máy bắn đá bắn vào thành sát thương
dân và quân Ung. Hai bên kèn cựa nhau đến gần một
tháng trời, không làm sao phá được thành.

Bấy giờ tin Ung bị vây đã về đến Quý Châu, Kinh
lược sứ Lưu Di sai đô giám Trương Thủ Tiết đem
quân đi cứu. Thủ Tiết nghe quân ta đông gấp bội nên
sợ không dám đến ngay, lại trú quân ở đường để xem
Giàm chống cự với ta thắng thua thế nào. Ung Châu
bị vây gấp quá, Tô Giàm cho người mang lạp thư (tức
là thư viết vào giấy rồi bọc trong nến mà ngậm vào
miệng) phá vòng vây ra cấp cáo với Trương Thủ Tiết.
Tiết bất đắc dĩ kéo quân đi, đến giữ ải Côn Lôn giữa
Tân châu và Ung châu, cách Ung 40 cây số. Lý
Thường Kiệt được tin chia quân đón đánh, chỉ một
trận phá tan quân cứu viện, giết chết Trương Thủ Tiết
và bắt nhiều tù binh.

Thành Ung bị vây hơn một tháng không xong, ta
dùng vân thê là một thứ thang mây bắc vào thành cho

tù binh trèo lên trông vào, Tô Giàm sai bắn hoả tiễn
đốt cháy thang. Ta lại đào đường hầm định chui vào
thành, Giàm biết, để ta đến gần rồi phóng hoả đốt hết
các huyệt. Cầm cự nhau mãi, quân hai bên cùng thiệt
hại rất nhiều, quân Lý mất đến vạn rưởi người, voi
chết cũng nhiều. Ta lại dùng hoả công bắn vào thành,
thành Ung thiếu nước không dập tắt được cháy,
nhưng vẫn không sao phá được.

Vây đến hơn bốn chục ngày, Thường Kiệt sắp phải
kéo quân lui về, thì có người hiến kế dùng phép thổ
công, lấy đất bỏ vào bao bì, xếp chồng vào nhau
thành bực thềm để lên thành. Vậy là bao đất chất đầy
hàng vạn dưới chân thành Ung, quân Lý trèo vào
thành đông như kiến, Ung châu mất. Bấy giờ là ngày
23 tháng giêng tức 1-3-1076. Lý Thường Kiệt khởi
binh từ tháng 11 năm trước đến tháng Giêng năm sau
mới phá được Ung Châu sau 42 ngày vây hãm.
4. Làm cỏ thành Ung.

Ung châu có một nhúm quân trong cái thành nhỏ bé,
cầm cự được quân Lý trong hơn bốn chục ngày, cũng
kiệt quệ lắm rồi, lương hết, giếng cạn, người trong
thành chết đói chết khát kể hàng đống. Tô Giàm tuy
dũng cảm nhưng thế quân ta quá mạnh, khi Lý
Thường Kiệt đem quân vào thành, Giàm còn cố
chống cự rất hăng, nhưng biết thế không sao được
bèn nói với bộ hạ : “Ta quyết không chịu chết về tay
giặc”. Giàm trở về dinh, giết hết cả nhà gồm 36
người rồi tự thiêu mà chết. Vì cảm nghĩa khí của Tô

Giàm, quân dân thành Ung cũng không ai chịu hàng,
Lý Thường Kiệt tức giận ra quân làm cỏ thành Ung,
giết không chừa người nào.

Tống sử còn ghi quân Lý giết hết cả quan lại, lính
tráng, thổ đinh, cư dân cả thảy hơn năm vạn người,
lại sắp đầu người thành đống, mỗi đống 100 đầu
người, mà có đến 580 đống. Lý Thường Kiệt làm cỏ
xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi
định đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Nhưng
được tin vua Tống sắp đưa quân vào cõi, Thường
Kiệt sợ bị đánh úp, vả lại quân ta chinh chiến lâu
cũng đã mỏi mệt, ông rút quân ca khúc khải hoàn.

Như vậy trong hơn 3 tháng trời, Lý Thường Kiệt
cùng binh khê động tâm phúc các nơi tiến quân vào
đất Tống, phá hết các cứ điểm của Tống mà có thể
dùng để đánh ta, phá thành Ung, Khâm, Liêm; đốt
các trái Vĩnh Bình, Thái Bình, Cổ Vạn, Thiên Long,
giết người vô số rồi rút quân về, chuẩn bị đợi Tống
sang.

5. Lạm bàn.

Từ xưa đến nay, người Việt mà sang đánh đất Bắc chỉ
có Lý Thường Kiệt. Có người chê trách Lý Thường
Kiệt lạm giết người vô số, nhưng Lý Thường Kiệt là
vũ tướng, ra quân lấy xã tắc làm trọng. Mục đích là
được việc cho nước nhà thì thôi. Thường Kiệt nếu
không giết người, không đốt thành, không phá kho

tàng, cướp của cải thì sau này, kho tàng đó, sức người
đó, của cải đó lại dành để đánh sang Đại Việt, diệt cỏ
tận gốc, binh đao vô tình, quân Lý đã chết đến hàng
vạn, thì Tống mất tới 6 vạn người cũng không là quá.

( Tài liệu sử dụng : 1. Lý Thường Kiệt – Hoàng Xuân
Hãn tặng tất cả những người hy sinh cho Tổ Quốc; 2.
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim; 3. Đại cương
lịch sử Việt Nam - tập 1; 4. Lịch sử thế giới Trung
đại; 5. Lịch sử Trung Quốc 5000 năm - tập 2)

-Hết-

×