Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

NGỘ ĐỘC : PHUƠNG PHÁP XỬ TRÍ CHUNG (GENERAL APPROACH TO POISONINGS) PHẦN I ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.31 KB, 13 trang )

NGỘ ĐỘC : PHUƠNG PHÁP
XỬ TRÍ CHUNG
(GENERAL APPROACH TO
POISONINGS)
PHẦN I



1/ LIỆT KÊ 16 NGUYÊN NHÂN TỬ VONG THÔNG THƯỜNG
NHẤT DO NGỘ ĐỘC CẤP TÍNH ĐƯỢC BÁO CÁO Ở CÁC
TRUNG TÂM CHỐNG ĐỘC CHẤT (POISON CENTERS) ?
 Các thuốc giảm đau : 10,5 %
 Các chất tẩy (cleaning substances) : 9,5 %
 Các mỹ phẩm và các chất dùng cho cá nhân : 9,4 %
 Các di vật : 5.0 %
 Thực vật (Plants) : 4,9 %
 Thuốc pha chế chống cảm cúm và ho : 4,5 %
 Vết cắn/ Trúng nọc (Bites/envenomations) : 4,2 %
 Thuốc an thần/Thuốc ngủ/Thuốc chống loạn tâm thần : 4,1 %
 Thuốc dùng tại chỗ (topicals) : 4,1 %
 Thuốc trừ sâu (pesticides) : 4%
 Thuốc chống trầm cảm (antidepressants) : 3,9 %
 Thức ăn, ngộ độc thức ăn : 3,1 %
 Cồn (alcohols) : 2,9 %
 Hydrocarbons : 2,8 %
 Antihistamines : 2,7 %
 Các thuốc kháng khuẩn : 2,7%

2/ VAI TRÒ HIỆN NAY CỦA XI RÔ IPECAC TRONG ĐIỀU TRỊ
NGỘ ĐỘC CẤP TÍNH ?


Mặc dầu xi rô ipecac gây mửa trong vòng 20-30 phút nơi hầu hết các
bệnh nhân được cho một liều lượng điều trị, nhưng ít chất độc đã được
loại bỏ ; có những phương tiện hiệu quả hơn để khử độc đường tiêu hóa.
Ipecac có thể có một vai trò trong điều trị trẻ em tại nhà, thường có thể
được cho một liều sau khi trẻ uống thuốc ngộ độc.Tuy nhiên, vào lúc hầu
hết các bệnh nhân đến bệnh viện thì quá nhiều thời gian đã trôi qua để xi
rô ipecac có thể có lợi ích. Việc sử dụng ipecac cũng làm trì hoãn việc
cho than hoạt hóa (activated charcoal), mà than hoạt hóa này cần phải cho
càng nhanh càng tốt để có lợi ích tối đa.

3/ VAI TRÒ HIỆN NAY CỦA RỬA DẠ DÀY TRONG ĐIỀU TRỊ
NGỘ ĐỘC CẤP TÍNH ?

Rửa dạ dày tác dụng nhanh hơn xi rô ipecac trong việc tống xuất các chất
chứa trong dạ dày, và than hoạt hóa có thể cho vào trong ống rửa dạ dày
trước khi ống này được rút ra. Rửa dạ dày có thể được thực hiện mà
không phải thông khí quản nơi hầu hết các bệnh nhân, nhưng dụng cụ
đường khí, gồm cả máy hút, phải được chuẩn bị sẵn bên giường. Đặt
bệnh nhân nghiêng về phía trái, theo tư thế Trendelenbourg nhẹ, giúp
ngăn ngừa hít dịch nếu mửa xảy ra. Những ống mũi-dạ dày quá nhỏ
không thể lấy đi các viên thuốc hay những mảnh thuốc lớn ; bất cứ khi
nào thực hiện rửa dạ dày, nên đặt qua miệng một ống rửa cỡ lớn (36F hay
40F). Đặt một canule de Guedel để ngăn bệnh nhân không cắn vào ống.
Sự định vị thích hợp của ống rửa dạ dày phải được kiểm tra lâm sàng hay
quang tuyến trước khi rửa hay cho than hoạt hóa. Những trường hợp tử
vong đã được báo cáo do cho than hoạt hóa vào trong khí quản qua ống
mũi-dạ dày. Rửa dạ dày thường dành cho những bệnh nhân ngộ độc
nghiêm trọng hay đe dọa đến tính mạng, đến phòng cấp cứu 1-2 giờ sau
khi nuốt.


4/ VAI TRÒ HIỆN NAY CỦA THAN HOẠT HÓA (ACTIVATED
CHACOAL) ?

Trong nhiều công trình nghiên cứu, than hoạt hóa đã được chứng tỏ là ưu
việt hơn những thủ thuật rửa dạ dày để điều trị ngộ độc cấp tính.Thủ thuật
rửa dạ dày đòi hỏi thời gian và gây vài nguy cơ cho bệnh nhân. Thời gian,
trong đó thủ thuật rửa dạ dày hay gây mửa bệnh nhân với ipecac, là lúc
thuốc đang được hấp thụ một cách tích cực. Bằng cách cho một liều than
hoạt hóa ngay khi bệnh nhân đến phòng cấp cứu, như thế phương tiện
hiệu quả nhất để khử nhiễm đường tiêu hóa đã được thực hiện. Tuy nhiên,
không phải tất cả các thuốc đều được than hoạt hóa hấp thụ. Các thuốc
không được hấp thụ gồm có lithium, axít và kiềm, potassium, sắt, và có lẽ
những thuốc khác chưa được nghiên cứu. Những bệnh nhân nuốt với số
lượng nhỏ, do bất cẩn (thường là trẻ em), không cần phải điều trị bằng
than hoạt hóa.

5/ THÁI ĐỘ XỬ TRÍ ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN NGỘ ĐỘC KHÔNG
CÓ TRIỆU CHỨNG ?

Vài tác giả chủ trương chỉ cần quan sát theo dõi những bệnh nhân ngộ
độc không có triệu chứng, và chỉ điều trị khi các triệu chứng phát triển.
Mặc dầu thái độ xử trí này là an toàn đối với nhiều bệnh nhân đã uống
thuốc quá liều nhưng không đáng kể, nhưng nếu bệnh nhân đã uống vào
cái gì đó rất nguy hiểm, thì một cơ hội ngăn ngừa sự hấp thụ có thể bị mất
đi nếu không làm gì trước khi các triệu chứng xuất hiện. Cấp một liều
than hoạt hóa cho tất cả những bệnh nhân với một bệnh sử ngộ độc thuốc
cố ý, được thực hiện dễ dàng và giúp đảm bảo xử lý bệnh nhân an toàn và
đúng lúc.

6/ CÓ VAI TRÒ CỦA THUỐC XỔ TRONG ĐIỀU TRỊ NGỘ ĐỘC

CẤP TÍNH HAY KHÔNG ?

Theo lý thuyết thì các thuốc xổ (cathartics) làm gia tốc thời gian chuyển
vận qua đường tiêu hóa, cho phép tống than hoạt hóa bắt kịp các viên
thuốc trong ruột và ngăn ngừa sự tách rời thuốc khỏi than hoạt hóa. Các
thuốc xổ không được chứng tỏ làm giảm sự hấp thụ thuốc hay cải thiện
tiên lượng đáng kể sau khi ngộ độc, nhưng chúng có thể gây mửa, đau
bụng, và các bất thường điện giải. Việc sử dụng thuốc xổ không được
biện minh.

7/ VAI TRÒ CỦA TƯỚI RỬA TOÀN BỘ RUỘT
(WHOLE[*]BOWEL IRRIGATION) TRONG ĐIỀU TRỊ NGỘ
ĐỘC CẤP TÍNH.

Thủ thuật tưới rửa toàn bộ ruột (whole-bowel irrigation) sử dụng một
dung dịch điện giải polyethylene glycol, như GoLYTELY hay Colyte,
(không được hấp thụ) cho phép tống nhanh nhanh thuốc và các chất hoá
học qua đường tiêu hóa. Thủ thuật này dường như hữu ích nhất khi nuốt
vào các viên thuốc hay các chất hóa học cản quang, bởi vì sự tiến triển
của chúng qua đường tiêu hóa có thể được theo dõi bằng quang tuyến.
Thủ thuật này cũng thường được sử dụng khi các gói thuốc bán bất hợp
pháp ở đường phố (street drugs), như heroin hay cocaine, đã được nuốt
vào và cần được tống xuất nhanh qua đường tiêu hóa càng nhanh càng tốt
và nên được xét đến sau khi ngộ độc các thuốc thải chậm. Hạn chế của
thủ thuật này là ở chỗ nếu bệnh nhân không thức tỉnh, hợp tác, và có thể
ngồi vào ghế, sẽ có nguy cơ mửa và hít dịch, ngoài vấn đề phải phục vụ
một bệnh nhân không tri giác nằm trên giường và tiêu chảy ồ ạt.

8/ VAI TRÒ CỦA THAN HOẠT HÓA CHO NHIỀU LIỀU TRONG
ĐIỀU TRỊ NGỘ ĐỘC CẤP TÍNH ?


Than hoạt hóa cho nhiều liều (multiple-dose charcoal) đã được chứng tỏ
làm gia tăng sự thải của nhiều loại thuốc đã được hấp thụ bởi đường tiêu
hóa hay được cho băng đường tĩnh mạch. Thủ thuật này được gọi là thẩm
tách vị-tràng (gastrointestinal dialysis, “ entérodialyse ” ) và đã được
chứng tỏ có hiệu quả đối với ngộ độc theophylline và có lẽ đối với ngộ
độc phenobarbital. Nhiều loại thuốc khác cũng đã được chứng tỏ có dược
động học (pharmacokinetics) bị biến đổi bởi than hoạt hóa cho nhiều liều,
nhưng không rõ điều này có tạo nên một khác nhau về lâm sàng hay
không. Nhiều trong các thuốc này có các thể tích phân bố lớn, và việc làm
gia tăng sự thải lượng nhỏ trong máu có thể không có lợi ích. Than hoạt
hóa cho nhiều liều được sử dụng thường nhất sau ngộ độc theophylline,
phenobarbital, carbamazepine, và quinine.

9/ LỢI TIẾU CƯỠNG BỨC (FORCED DIURESIS) CÓ LỢI
TRONG ĐIỀU TRỊ NGỘ ĐỘC CẤP TÍNH KHÔNG ?

Vài loại thuốc được bài tiết không bị biến đổi trong nước tiểu vì vậy việc
gia tăng lưu lượng nước tiểu nhiều trên mức cơ bản có thể không có lợi.
Tuy nhiên, bằng cách biến đổi pH của nước tiểu bằng các dịch tiêm
truyền bicarbonate cùng với gia tăng lưu lượng nước tiểu, trong vài
trường hợp, sự thải thuốc có thể được gia tăng. Điều này thường được sử
dụng nhất đối với ngộ độc salicylates và phenobarbital. Bằng cách cho 3
ống thuốc sodium bicarbonate trong 1 L D5W, cùng với KCl và truyền
dung dịch này với tốc độ đủ để gây ra ít nhất một lưu lượng nước tiểu
bình thường, và một pH nước tiểu 7,5 hoặc lớn hơn, sự thải salicylates và
phenobarbital có thể được gia tăng. Lượng dịch được cho vào và thải ra
và pH nước tiểu nên được theo dõi hàng giờ với ống Foley được đặt tại
chỗ. Với sự hiện diện của phù phổi hay não, có thể xảy ra trong trường
hợp ngộ độc nặng bởi salicylates, lợi tiểu kiềm (alkaline diuresis) là nguy

hiểm và không nên được thực hiện.

Lợi tiểu kiềm cũng có thể có tác dụng một cách tương tự đối với thuốc
diệt cỏ chlorphenoxy, nhưng những ngộ độc cấp tính bởi những tác nhân
này hiếm xảy ra. Việc sử dụng dung dịch muối thể tích lớn để điều trị ngộ
độc lithium là thông thuờng, và điều quan trọng là duy trì lưu lượng nước
tiểu và nồng độ sodium trong huyết thanh thích đáng. Tuy nhiên, người ta
không rõ lợi tiểu cưỡng bức bằng nước muối để điều trị ngộ độc lithium
có lợi ích thêm so với việc chỉ đảm bảo một lưu lượng bình thường qua
thận.

10/ KHI NÀO THÌ NHỮNG KỸ THUẬT NGOÀI THÂN THỂ, NHƯ
THẨM TÁCH MÁU (HEMODIALSIS) HAY HEMOPERFUSION
ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH ?

Những thuốc có thể được loại bỏ một cách thành công bằng các kỹ thuật
ngoài thân thể (extracorporal techniques) chỉ khi chúng có các thể tích
phân bố tương đối nhỏ và được tìm thấy với những lượng đáng kể trong
tuần hoàn. Đây chỉ là trường hợp đối với vài loại thuốc. Trong thực tiễn,
các thuốc thường được thẩm tách nhất sau khi bị ngộ độc gồm có aspirin,
lithium, và có lẽ theophylline. Thẩm tách (dialysis) có ưu điểm hơn
hemoperfusion ở chỗ kỹ thuật này thường được bắt đầu dễ dàng và nhanh
hơn và có thể điều chỉnh những bất thường dịch và chất điện giải trong
khi loại bỏ thuốc. Charcoal hemoperfusion có thể hiệu quả hơn trong việc
loại bỏ các thuốc được liên kết cao với protein huyết tương bởi vì ái tính
đối với thận có thể cao hơn ái tính đối với chất mang protein. Bất lợi của
hemoperfusion là nếu không được thực hiện bởi những tay lành nghề, thủ
thuật có thể đưa đến sự đông máu thường xuyên. Giảm canxi-huyết và hạ
nhanh tiểu cầu thường xảy ra. Charcoal hemoperfusion thường được chỉ
định đối với các thuốc như theophylline, phenobarbital, và một vài chất ít

thông thường hơn như paraquat và amatoxin.

11/ CHẨN ĐOÁN NGỘ ĐỘC THUỐC CÓ THỂ ĐƯỢC THỰC
HIỆN NHƯ THỂ NÀO KHI BỆNH NHÂN MẤT TRI GIÁC VÀ
KHÔNG THỂ LÀM BỆNH SỬ ?

Đôi khi, chẩn đoán ngộ độc cấp tính khó thực hiện và đòi hỏi công tác
thám tử đối với người thầy thuốc. Nên cho dextrose (hay làm xét nghiệm
nhanh tại giường xác định nồng độ glucose-huyết) và naloxone (Narcan)
nơi tất cả những bệnh nhân bị mất tri giác ; Một đáp ứng dương tính đối
với một trong hai thứ thuốc này xác định chẩn đoán. Chừng nào có thể
được, việc xem xét các lọ thuốc mà bệnh nhân đang giữ là quan trọng, và
cần gọi điện thoại đến các hiệu thuốc (nơi các toa thuốc đã được thực
hiện) để xác định xem có còn những toa thuốc kê đơn những loại thuốc
khác hay không. Khám phá những chất hóa học nào bệnh nhân đang có,
bao gồm những thuốc đường phố (street drugs), là luôn luôn quan trọng .
Nếu thấy được các dấu kim chích, hãy xét đến những thuốc đường phố
thường được cho bằng đường tĩnh mạch, như các thuốc nha phiến,
cocaine, và amphetamine. Khám vật lý là hữu ích trong việc thu hẹp lại
chẩn đoán vào một họ thuốc hay chất hoá học. Ý niệm này thường được
gọi là các hội chứng độc chất (toxic syndromes).

CÁC HỘI CHỨNG ĐỘC CHẤT THÔNG THƯỜNG NHẤT

ANTICHOLINERGIC
 Những dấu hiệu thông thường : Sa sút trí tuệ và nói lầm bầm, tim
nhịp nhanh, da đỏ và khô, giãn đồng tử, giật rung cơ (myoclonus),
nhiệt độ hơi cao, bí tiểu, giảm nhu động ruột. Co giật và loạn nhịp
tim có thể xảy ra trong những trường hợp nặng.
 Những nguyên nhân thông thường : Thuốc kháng histamine

(nntihistamines), thuốc kháng hội chứng Parkinson, atropine,
scopolamine, amantadine (Amantan), antipsychotics, thuốc chống
trầm cảm (antidepressants), thuốc chống co thắt (antispasmodics),
thuốc giãn đồng tử (mydriatics), thuốc làm giãn cơ vân (skeletal
muscle relaxants), nhiều loại dược thảo (đặc biệt là jimson weed).

THUỐC GIỐNG GIÁO CẢM (SYMPATHOMIMETIC)
 Những dấu hiệu thông thường : mê sảng (delusion), paranoia, tim
nhịp nhanh, cao huyết áp, sốt cao, ra mồ hôi, dựng lông
(piloerection), giãn đồng tử,
tăng phản xạ gân xương. Co giật và loạn nhịp tim có thể xảy ra
trong những trường hợp nặng.
 Những nguyên nhân thông thường : Cocaine, amphetamine,
methamphetamine (và những dẫn xuất MDA, MDMA,
MDEA,DOB), các thuốc giảm sung huyết (phenylpropanolamine,
ephedrine, pseudoephedrine). Ngộ độc caféine và théophylline gây
nên những dấu hiệu tương tự, do sự phóng thích catecholamine,
ngoại trừ những dấu hiệu thực thể tâm thần.

OPIATE/THUỐC AN THẦN
 Những dấu hiệu thông thường : Lú lẫn/suy sút hệ thần kinh trung
ương, co đồng tử, hạ huyết áp, tim nhịp chậm, hạ thân nhiệt, phù
phổi, giảm nhu động ruột, giảm phản xạ gân xương, những vết kim
chích.
 Những nguyên nhân thông thường : Chất ma túy (narcotics),
barbiturates, benzodiazepines, ethchlorvynol, glutethimide,
methyprylon,

CHOLINERGIC
 Những dấu hiệu thông thường : Lú lẫn/ suy giảm hệ thần kinh

trung ương, yếu người, tiết nước bọt, chảy nước mắt, són tiểu và
phân. Đau quặn dạ dày-ruột, nôn, chảy mồ hôi, co cứng cơ cục bộ,
phù phổi, co đồng tử, tim nhịp chậm (hay tim nhịp nhanh), co giật.
 Những nguyên nhân thông thường : thuốc trừ sâu organophosphate
và carbamate, physostigmine, edrophonium, vài loại nấm (Amanita
muscaria, Amanita pantherina, Inocybe, Clitocybe).

SEROTONIN
 Những dấu hiệu thông thường : Sốt, run rẩy, mất điều hòa, kích
động, thay đổi trạng thái tâm thần, ra mồ hôi, giật rung cơ
(myoclonus), ỉa chảy, cứng.
 Những nguyên nhân thông thường : Fluoxetine, sertraline,
paroxetine, venlafaxine, clomipramine.

12/ KHÁM PHÁT HIỆN ĐỘC CHẤT VÀ NHỮNG XÉT NGHIỆM
PHỤ KHÁC CÓ THỂ CHẨN ĐOÁN NGỘ ĐỘC CẤP TÍNH NHƯ
THỂ NÀO ?

Xét nghiệm phát hiện độc chất (toxicology screen) máu và nước tiểu nên
được thực hiện trên bất cứ bệnh nhân nào có triệu chứng ngộ độc quan
trọng và khi chẩn đoán không được chắc chắn. Những phương pháp thay
thế cho xét nghiệm phát hiện độc chất toàn bộ bao gồm xét nghiệm những
nồng độ nhỏ của những độc chất nghi ngờ, thực hiện xét nghiệm định
lượng nước tiểu đối với những drugs of abuse, hay lấy bệnh phẩm nhưng
hoãn lại cho đến khi người ta xác định rằng một khám phát hiện độc chất
được chỉ định.

Những xét nghiệm không phải độc chất học thường hữu ích, bao gồm
điện tâm đồ, có thể giúp chẩn đoán ngộ độc thuốc chống trầm cảm ba
vòng hay các thuốc tim ; một phim ngực, nếu chứng tỏ phù phổi không

do tim (noncardiogenic pulmonary edema) sẽ khiến ta nghĩ đến ngộ độc
salicylates hay opiates ; và một thăm khám thận-niệu quản-bàng quang
(kidney-ureters-bladder screen), nhằm phát hiện chất cản quang làm nghi
ngờ rằng bệnh nhân đã nuốt vào một kim loại nặng bao gồm sắt,
phenothiazines, chloral hydrate, hay các chất dung môi chlorinated
hydrocarbon. Các xét nghiệm chức năng gan có thể giúp chẩn đoán ngộ
độc các độc chất gan, như acetaminophen hay tetrachloride. Phân tích
nước tiểu có thể cho thấy sự hiện diện của các tinh thể calcium oxalate,
gợi ý chẩn đoán ngộ độc ethylene glycol. Tình trạng axít-kiềm của bệnh
nhân cũng quan trọng. Nếu nhiễm axít chuyển hóa không giải thích được
và kéo dài, thì luôn luôn phải tìm kiếm những manh mối chẩn đoán ngộ
độc aspirin, methanol, hay ethylene glycol. Nhiều loại thuốc khác có thể
gây nên một tình trạng nhiễm axít chuyển hóa kéo dài và không giải thích
được, nhu uống axít, cyanide, carbon monoxide, theophylline và những
chất khác. Trong thăm dò tình trạng nhiễm axit kéo dài, có thể dùng
osmolatity huyết thanh, được thực hiện bằng cách giảm điểm đông lạnh.
Một dị biệt lớn hơn 10 giữa osmolality được đo và osmolality được tính
toán luôn luôn có ý nghĩa, mặc dầu một osmolol gap bình thường không
loại bỏ bệnh nhân đã uống chất độc.

11/ NÓI VỀ VÀI THUỐC GIẢI ĐỘC HỮU ÍCH ĐỐI VỚI NHỮNG
NGỘ ĐỘC THÔNG THÔNG THƯỜNG ?

NALOXONE VA DEXTROSE là những thuốc giải độc thông thường
nhất và nên được cho một cách thường quy nơi những bệnh nhân ngộ độc
mất tri giác. Tiêm tĩnh mạch 2mg naloxone khiến bệnh nhân tỉnh dậy,
chẩn đoán ngộ độc nha phiến cấp tính (acute opiate overdose). Những
liều ít hơn có thể không có hiệu quả và không nên được sử dụng, trừ khi
biết rằng bệnh nhân là một người nghiện nha phiến (opiate addict) và
rằng liều 2mg naloxone sẽ gây nên hội chứng cai nha phiến. Nhiều thuốc

và những chất hóa học có thể gây nên hạ đường huyết, gồm có ethanol,
và vì lý do này dextrose cũng nên được cho, trừ phi có thể xác định nhanh
rằng glucose-huyết bình thường.

PHYSOSTIGMINE là một thuốc giải độc đối với hội chứng chống tiết
choline (anticholinergic syndrome). Physostigmine có thể được dùng để
chẩn đoán hay điều trị khi chẩn đoán hội chứng kháng cholinergic được
nghi ngờ. Physostigmine không nên dùng để điều trị ngộ độc thuốc chống
trầm cảm ba vòng. Co giật và loạn nhịp chậm đã được báo cáo khi được
sử dụng trong bối cảnh này. Một liều lượng 1 đến 2 mg tiêm chậm bằng
đường tĩnh mạch nơi một người lớn thường là đủ.

DIGOXIN IMMUNE Fab (DIGIBIND) là một chất giải độc an toàn và
có hiệu quả đối với ngộ độc digitalis glycoside và có thể làm biến mất
loạn nhịp tim và tăng kali-huyết, có thể đe dọa tính mạng. Trái với
naloxone, Digibind không tác dụng tức thời, và một đáp ứng đầy đủ với
điều trị có thể không được nhận thấy cho đến không 20 phút sau khi cho
thuốc. Đối với một ngộ độc digitalis đe dọa tính mạng, khi liều lượng và
nồng độ huyết thanh không được biết, nên cho 10 lọ Digibind.

ATROPINE và PRALIDOXIME (PROTOPAM) là những chất giải
độc được sử dụng trong ngộ độc chất ức chế cholinesterase. Nhóm thuốc
trừ sâu này gồm có các organophosphates và carbamates, thường được
tìm thấy trong những thuốc trừ sâu gia dụng. Atropine được sử dụng để
làm khô các dịch tiết, chủ yếu của phổi, và pralidoxime chủ yếu được sử
dụng để làm biến mất độc tính lên cơ vân của những tác nhân này, gồm
có yếu và co cứng cơ cục bộ (fasciculations).

FLUMAZENIL là một chất đối kháng benzodiazepine, được chứng tỏ là
hữu ích trong các trường hợp ngộ độc benzodiazepine cấp tính có triệu

chứng ngộ độc đáng kể. Sử dụng flumazenil có thể gây nên hội chứng cai
benzodiazepine, bao gồm co giật. Flumazenil không nên được sử dụng
khi các thuốc trầm cảm ba vòng hay những thuốc làm dễ co giật khác đã
được uống đồng thời với benzodiazepine. Liều lượng thông thường của
người trưởng thành là 0,2 mg, tiếp theo 30 giây sau bởi 0,3 mg, tiếp theo
30 giây sau bởi 0,5 mg, được lập lại cho đến một liều toàn thể 3 mg.

×