Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

TỰ HẠN CHẾ TƯ PHÁP HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HOA KỲ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.12 KB, 21 trang )

TỰ HẠN CHẾ TƯ PHÁP HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT HOA KỲ


Vấn đề hành vi thẩm phán không được làm, hoặc
không nên làm, là một vấn đề không liên quan nhiều
đến thẩm quyền xét xử, mà liên quan đến vấn đề địa
vị người xét xử - tức là vấn đề các thẩm phán trong
hệ thống cần phải xét xử hoặc từ chối xét xử một số
loại tranh chấp nhất định. Mười nguyên tắc tự hạn
chế tư pháp dưới đây là những yếu tố cần được kiểm
tra đối chiếu và hạn chế quyền lực của thẩm phán
Mỹ. Những tập quán này xuất phát từ nhiều nguồn
khác nhau – như Hiến pháp Hoa Kỳ và hiến pháp các
bang, luật của Quốc hội và cơ quan lập pháp bang, và
thông luật. Một số nguyên tắc được áp dụng nhiều
cho tòa phúc thẩm hơn là tòa sơ thẩm, hầu hết các
nguyên tắc đều được áp dụng cho cả hệ thống tư pháp
bang lẫn liên bang.

Phải tồn tại một tranh cãi rõ ràng

Hiến pháp Hoa Kỳ quy định: “Quyền lực tư pháp căn
cứ vào Hiến pháp này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các
vụ việc trên phương diện luật pháp và công lý, các
điều luật của Hoa Kỳ, các hiệp ước đã hoặc sẽ ký
dưới thẩm quyền của Chính phủ” (Điều III, Mục 2).
Từ mấu chốt trong câu này là từ “các vụ việc”. Từ
năm 1789, các tòa án liên bang đã chọn cách giải
thích thuật ngữ này theo nghĩa đen: Phải có một tranh
cãi thực tế giữa các bên đối nghịch hợp pháp, đáp


ứng tất cả các tiêu chí kỹ thuật để có thể cấu thành
một vụ kiện. Tranh chấp phải liên quan đến việc bảo
vệ một quyền có ý nghĩa và không tầm thường, hoặc
nhằm ngăn cản hoặc uốn nắn một vấn đề sai lệch ảnh
hưởng trực tiếp đến các bên tham gia vụ kiện.
Nguyên tắc chung này có ba hệ quả.

Hệ quả thứ nhất là tòa liên bang không được đưa ra ý
kiến cố vấn, hoặc các phán quyết về các tình huống
mang tính giả định, hoặc chưa gây ra sự va chạm
giữa các bên đối nghịch. Tranh chấp phải là thực tế
và hiện hữu trước khi tòa đồng ý chấp nhận xét xử.

Hệ quả thứ hai là các bên tham gia vụ kiện phải có
địa vị phù hợp. Hệ quả này giải quyết vấn đề ai là
người được đưa vụ kiện ra tòa. Người mang vụ kiện
ra tòa đã phải chịu (hoặc sẽ phải chịu ngay lập tức)
một thiệt hại trực tiếp và đáng kể. Theo nguyên tắc
chung, một bị đơn không thể đưa ra một khiếu kiện
nhân danh người khác (trừ trường hợp bố mẹ của
người chưa đủ tuổi hoặc trong các loại vụ việc đặc
biệt được gọi là hành động pháp lý tập thể). Ngoài ra,
thiệt hại theo luận điểm của bên nguyên phải được cá
nhân hóa, và là thiệt hại trực tiếp, chứ không phải là
một phần của một khiếu nại chung nào đó.

Hệ quả thứ ba là tòa án thường không xét xử một vụ
việc đã biến thành giả định (moot) – tức là khi các
khách thể hoặc địa vị của các bên tham gia đã bị thay
đổi lớn tính từ thời điểm đầu tiên vụ kiện được lập hồ

sơ đến khi nó được đưa ra trước các thẩm phán. Nếu
người khởi kiện chết hoặc không còn là một bên xung
đột, thì hầu hết cơ quan xét xử đều coi đó là một vụ
việc mang tính giả định. Tuy nhiên, đôi lúc thẩm
phán có thể quyết định họ cần phải xét xử vụ việc,
cho dù tình trạng khách quan và địa vị các bên đã có
dấu hiệu bị thay đổi rất nhiều. Điển hình là các vụ
việc trong đó một người đã thách thức tính hợp pháp
của việc một bang từ chối cho phép phá thai hoặc cho
phép tắt hệ thống hỗ trợ sự sống của những người
bệnh vô phương cứu chữa. (Trong trường hợp đó,
đến khi vụ việc được đưa ra tòa phúc thẩm, thì người
mẹ đã sinh con hoặc người hấp hối có thể đã chết).
Trong các vụ việc này, thẩm phán tin rằng vấn đề
quan trọng đến mức phải được tòa án giải quyết. Nếu
tuyên bố các vụ việc đó là giả định, thì về mặt thực tế
là chúng không được một cơ quan phúc thẩm xét xử
kịp thời.

Mặc dù thẩm phán liên bang không được phán quyết
các vấn đề mang tính trừu tượng, giả định, song
nhiều tòa án bang được quyền xét xử các vấn đề đó
dưới nhiều hình thức. Tòa luật định liên bang cũng có
thể đưa ra ý kiến tư vấn. Ngoài ra, các thẩm phán Mỹ
được quyền đưa ra các phán quyết mang tính giải
thích, trong đó xác định quyền của các bên theo một
đạo luật, một di chúc hoặc một hợp đồng. Phán quyết
đó không có ý nghĩa như một lệnh bắt buộc thực
hiện. Các tòa án liên bang có quyền được thực hiện
năng lực của mình theo Đạo luật phán quyết giải

thích liên bang năm 1934, và ba phần tư số bang cho
phép các tòa án của mình được thực hiện quyền này.
Mặc dù có sự khác nhau giữa một tranh chấp trừu
tượng mà tòa phải tránh, với một tình huống có thể
đưa ra phán quyết giải thích, nhưng trên thực tế,
đường ranh giới giữa hai vấn đề này rất khó phân
biệt.

Luận điểm phải cụ thể

Một hạn chế khác khống chế ngành tư pháp liên bang
là các thẩm phán sẽ không xét xử các vụ việc theo
tình, nếu đầu tiên người đệ đơn không viện dẫn được
một nội dung cụ thể của Hiến pháp làm cơ sở cho
luận điểm của mình. Chẳng hạn, Tu chính án Hiến
pháp thứ nhất cấm chính quyền thông qua các luật
“đề cao cơ sở tôn giáo”. Năm 1989, bang New York
lập ra một hạt giáo dục đặc biệt chỉ phục vụ lợi ích
của một nhóm Do thái giáo dòng Hasids có gốc Đông
Âu gọi là Satmar Hasids; đây là một tổ chức từ chối
hòa nhập vào xã hội hiện đại. Hầu hết trẻ em học ở
các trường giáo xứ ở làng Kiryas Joel, nhưng các
trường tư này không được trang bị để phục vụ các
học sinh khuyết tật và chậm phát triển, còn những
người thuộc nhóm Satmars lại cho rằng nếu những trẻ
em như thế trong cộng đồng của họ bị buộc phải học
trường công, thì chúng sẽ bị thương tổn. Để giải
quyết tình trạng này, cơ quan lập pháp bang đã lập ra
một hạt giáo dục đặc biệt, chỉ bao gồm một trường
phụ c vụ những trẻ em khuyết tật của cộng đồng Do

thái giáo dòng Hasids. Quyết định này đã bị một hiệp
hội đại diện cho các hội đồng giáo dục bang New
York lên án. Tháng Sáu 1994, Tòa án tối cao Hoa Kỳ
ra phán quyết rằng việc thành lập hạt giáo dục một
trường học thực tế đã trao quyền chính trị cho nhóm
Do thái giáo chính thống, và vì vậy đã vi phạm quy
định cấm của Tu chính án Hiến pháp thứ nhất đối với
“cơ sở tôn giáo” do chính quyền thiết lập. Cho dù
mọi người có thể thống nhất hay không thống nhất
rằng luật của New York hợp hiến, nhưng nếu có thì
cũng rất ít người có thể nghi ngờ khả năng hiệp hội
hội đồng giáo dục có thể đáp ứng các tiêu chí để yêu
cầu tư pháp xem xét lại: Hiến pháp quy định rõ ràng
cấm chính quyền trao quyền chính trị cho một thực
thể tôn giáo cụ thể. Ở đây chính quyền đã thừa nhận
là nó đã thông qua một đạo luật phục vụ lợi ích
chuyên biệt của một cộng đồng tôn giáo đơn lẻ.

Tuy nhiên, nếu một người đi đến tòa án và cho rằng
một đạo luật hoặc một hành động hành pháp nào đó
“vi phạm tinh thần của hiến chương” hoặc “xâm
phạm giá trị của các nhà lập quốc”, thì chắc chắn sẽ
bị thẩm phán từ chối xem xét. Nhưng nếu các thẩm
phán được tự do gán cho các vấn đề chung mang tính
mù mờ này một ý nghĩa rõ ràng và thực chất, thì đâu
cần phải kiểm tra xem họ được làm gì. Trong thực tế,
nguyên tắc này không đơn giản như bề ngoài của nó,
vì Hiến pháp có nhiều quy định mở cho nhiều cách
giải thích khác nhau, đủ chỗ cho thẩm phán liên bang
có thể biến tấu và lập chính sách.


Người hưởng lợi không được kiện

Mảng thứ ba trong quy định tự hạn chế tư pháp là
một người đệ đơn đã được hưởng lợi từ một đạo luật
hoặc một hành động hành pháp thì sau đó không
được kiện luật đó. Ví dụ, giả sử một nông dân từ lâu
đã tham gia một chương trình, trong đó anh ta đồng ý
không sản xuất một phần đất của mình, và định kỳ
nhận một khoản hỗ trợ từ chính quyền liên bang. Sau
nhiều năm tham gia, người nông dân nhận thấy người
hàng xóm nhận tiền thường xuyên vì để hoang toàn
bộ đất của mình. Người nông dân thấy người hàng
xóm không làm gì mà vẫn có tiền, nên đặt vấn đề về
tính hợp hiến của chương trình đó. Người nông dân
khởi kiện tính hợp pháp của chương trình ở tòa án hạt
liên bang. Ngay khi thẩm phán biết được người nông
dân đó đã là một thành viên của chương trình và
được hưởng lợi tài chính từ chương trình đó, vụ kiện
đã bị bác bỏ: Một người không thể hưởng lợi từ một
nỗ lực của chính quyền hoặc một hành động hành
pháp cụ thể, rồi sau đó quay lại tấn công nó tại một
tòa án.

Tòa phúc thẩm phán quyết theo yếu tố pháp lý,
chứ không phải yếu tố khách quan

Có một định đề trong thông lệ các tòa phúc thẩm
bang và liên bang là các tòa án này nói chung không
xét xử nếu cơ sở kháng cáo kháng nghị là thẩm phán

hoặc bồi thẩm sơ thẩm đã tập hợp sai, hoặc xác định
sai các yếu tố khách quan cơ bản cấu thành vụ việc.
Không phải là thẩm phán và bồi thẩm sơ thẩm luôn
xác định khách quan hoàn hảo. Thay vào đó, người ta
tin rằng họ gần gũi hơn với các bên liên quan thực tế
và bằng chứng vật chất của vụ việc, nên họ có thể
đánh giá khách quan tốt hơn các cơ quan xét xử phúc
thẩm, vốn chỉ được đọc tài liệu vụ án nhiều tháng
hoặc nhiều năm sau khi phiên sơ thẩm xảy ra. Tuy
nhiên, các vấn đề pháp lý, tức là áp dụng luật nào cho
thực tế khách quan của vụ việc, và đánh giá khách
quan đó như thế nào theo luật hiện hành, thì cần được
xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.

Tòa án tối cao không bị ràng buộc (về mặt kỹ
thuật) bởi các tiền lệ

Nếu Tòa án tối cao được tự do đảo ngược hoặc phá
vỡ các tiền lệ quá khứ và mang tính khống chế khi
quyết định một vụ việc, thì dường như đây là một
luận điểm ủng hộ cho xu hướng cấp tiến tư pháp –
chứ không phải tự hạn chế. Tuy nhiên, tập quán này
là một trong những nguyên tắc tự hạn chế. Nếu Tòa
án tối cao bị ràng buộc không lối thoát bởi sự sai
khiến của các phán quyết trước, thì nó sẽ rất kém linh
hoạt. Nhờ việc tự cho phép mình thỉnh thoảng được
tự do đảo ngược một quyết định quá khứ hoặc bỏ qua
một tiền lệ đã trở thành quy định khống chế, Tòa án
tối cao đã thiết lập được một lối thoát an toàn để có
thể rút lui nếu cần. Khi sự suy xét sáng suốt ra lệnh

cho Tòa án thay đổi đường hướng, hoặc duy trì tư
tưởng cởi mở, thì nguyên tắc tự hạn chế này sẽ được
sử dụng.

Các giải pháp khắc phục khác phải được xem xét
cho hết

Một nguyên tắc tự hạn chế nữa thường làm cho các
nguyên đơn nổi khùng, thất vọng là một yếu tố cực
kỳ quan trọng để có thể kiểm soát công lý một cách
trật tự: Các tòa án ở Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận một
vụ việc nếu chưa tính hết khả năng thực hiện các giải
pháp khắc phục khác, kể cả pháp lý lẫn hành chính.
Theo nghĩa giản đơn, chủ thuyết này có nghĩa là một
người phải leo từng nấc thang của quá trình khiếu
kiện pháp lý. Các vụ án liên bang đầu tiên phải được
xét xử ở tòa sơ thẩm Hoa Kỳ, tiếp đó được xem xét
lại tại một cơ quan xét xử phúc thẩm, và cuối cùng
mới được xét xử tại Tòa án tối cao. Thủ tục thứ tự
diễn biến này phải được tuân thủ cho dù nội dung vụ
việc hay người đệ đơn có quan trọng đến đâu. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp nhất định, trình tự
phúc thẩm có thể được rút ngắn.

Hết khả năng thực hiện các giải pháp khắ c phục khác
có nghĩa là hết khả năng thực hiện giải pháp hành
chính hay phải tuân thủ nguyên tắc cấu trúc tư pháp
ba cấp. Giải pháp hành chính có thể nằm dưới dạng
khiếu nại lên một viên chức hành chính, xét xử tại
một hội đồng hoặc ủy ban, hoặc được cơ quan lập

pháp xem xét chính thức một vấn đề nào đó.

Tòa án không xét xử các “yếu tố chính trị”

Đối với thẩm phán Hoa Kỳ, hai ngành hành pháp và
lập pháp của chính quyền là những ngành mang tính
chính trị vì nó được dân bầu lên để lập chính sách
công. Còn tư pháp thì ngược lại, các Nhà lập quốc
không thiết chế ngành này thành một công cụ để thể
hiện ý chí chung, và do đó không mang tính chính trị.
Theo hướng luận giải này thì các yếu tố chính trị cần
được giải quyết bởi một trong hai ngành kia của
chính quyền.

Ví dụ, khi bang Oregon trao quyền cho công dân
được bỏ phiếu thông qua các sáng kiến và các cuộc
trưng cầu dân ý phổ thông vào khoảng năm 1900,
Công ty điện thoại và điện tín các bang Thái Bình
Dương đã phản đối. (Công ty này sợ rằng các cử tri
sẽ bỏ qua các văn kiện lập pháp hỗ trợ kinh doanh và
thông qua các đạo luật hạn chế đơn giá và lợi nhuận
của mình). Công ty cho rằng Điều IV, Mục 4 của
Hiến pháp bảo vệ “Hình thái Chính phủ Cộng hòa” ở
mỗi bang – thuật ngữ được cho là đã quy định rằng,
chỉ có các đại diện của dân mới được ban hành luật,
chứ không phải trực tiếp người dân. Tòa án tối cao từ
chối đưa ra phán quyết về sự phải trái của vụ việc,
Tòa tuyên bố vấn đề này mang yếu tố chính trị. Cơ sở
phán quyết của Tòa là Điều IV chủ yếu quy định
nhiệm vụ của Quốc hội, và nó cho rằng các Nhà lập

quốc muốn Quốc hội, chứ không phải tòa án, được
quyền giám sát hình thái chính quyền ở các bang.

Trong những thập niên gần đây, đã xuất hiện một
xung đột về việc nên coi việc điều chỉnh ranh giới hạt
lập pháp là một vấn đề chính trị hay phi chính trị.
Trước năm 1962, đa số thành viên Tòa án tối cao từ
chối phán quyết về tính hợp hiến của các hạt lập pháp
có số dân không đều, vì cho rằng đây không phải là
vấn đề “có thể xét xử”, và Tòa án không dám xâm
phạm cái mà Thẩm phán Felix Frankfurter gọi là “bụi
rậm chính trị”. Theo lối tư duy truyền thống của Tòa
án tối cao, thì các Nhà lập quốc muốn các cơ quan
lập pháp tự phân chia ranh giới hạt – có lẽ là cùng với
ý kiến của cử tri. Tuy nhiên, với phán quyết của Tòa
án tối cao trong vụ Baker kiện Carr (1962), đa số đã
thay đổi quan điểm đó. Từ thời điểm đó, Tòa án tối
cao đã quyết định nhiều vụ việc theo hướng điều luật
bảo vệ công bằng theo Tu chính án Hiến pháp thứ
mười bốn, yêu cầu các hạt lập pháp phải có số dân
tương đương, và hơn nữa, các tòa án phải xem xem
quy định đó đã được thực hiện hay chưa.

Trách nhiệm cung cấp chứng cứ thuộc về người
đệ

Các luật gia của quốc gia nói chung đều nhất trí là
người nào khiếu kiện tính hợp hiến của một đạo luật
phải có trách nhiệm cung cấp chứng cứ. Do đó, nếu
một người muốn tấn công một đạo luật nào đó, thì họ

phải làm rất nhiều việc chứ không chỉ đơn thuần nêu
được là đạo luật đó “có vấn đề hay đáng nghi ngờ về
tính hợp hiến”; người đệ đơn phải thuyết phục tòa án
rằng chứng cứ chống lại đạo luật đó là rõ ràng và phổ
biến.

Chỉ có một ngoại lệ đối với nguyên tắc này là trong
lĩnh vực quyền công dân và tự do công dân. Một số
luật gia ủng hộ mạnh mẽ quyền tự do công dân từ lâu
đã cho rằng nếu chính quyền cố gắng hạn chế các
quyền tự do con người cơ bản, thì trách nhiệm đưa ra
chứng cứ phải chuyển sang cho chính quyền. Và
trong một số lĩnh vực cụ thể của ngành luật quyền
công dân, triết lý này đã trở nên phổ biến. Ví dụ, Tòa
án tối cao Hoa Kỳ đã phán quyết trong nhiều vụ rằng
các đạo luật đối xử con người khác biệt theo chủng
tộc hay giới tính sẽ tự động bị “soi xét đặc biệt”
(special scrutity). Điều này có nghĩa là trách nhiệm
chứng cứ chuyển sang chính quyền, buộc chính
quyền phải chứng minh là có một nhu cầu bắt buộc
và có tầm quan trọng vượt trội trong việc phân biệt
con người theo xuất xứ dân tộc hoặc giới tính. Ví dụ,
từ lâu chính quyền đã lý luận (và đã thành công) rằng
cần có một số hạn chế lớn đối với phụ nữ trong quân
lực để tránh cho họ không phải thực hiện các nhiệm
vụ chiến đấu trực tiếp.

Chỉ bác bỏ luật trên cơ sở hẹp

Đôi khi trong một phiên xét xử, một thẩm phán nhận

thấy rõ ràng một văn kiện lập pháp hay một hành
động hành pháp đã vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp.
Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này thì các luật
gia vẫn hành động rất thận trọng. Đầu tiên, thẩm
phán có thể chọn phương án vô hiệu hóa một hành
động hành pháp trên cơ sở luật định, chứ chưa phải
hiến định. Vô hiệu hóa luật định có nghĩa là một
thẩm phán bác bỏ một hành động hành pháp vì viên
chức hành pháp đã hành động vượt quá thẩm quyền
được luật cho phép. Phán quyết đó có ý nghĩa bảo vệ
luật nhưng vẫn vô hiệu hóa được hành động sai trái
của viên chức hành pháp. Thứ hai, là các thẩm phán
có thể (nếu có khả năng) chỉ vô hiệu hóa một phần
của đạo luật mà họ cho là có lỗi về mặt hiến định,
chứ không bác bỏ toàn bộ đạo luật.

Không phán quyết về “sự sáng suốt” của cơ quan
lập pháp

Nếu được tuân thủ nghiêm khắc, nguyên tắc này có
nghĩa là cơ sở duy nhất để tuyên bố một đạo luật
hoặc một hành vi hành pháp vi hiến là cho rằng nó vi
phạm từng chữ của Hiến pháp. Các đạo luật không
xâm phạm Hiến pháp chỉ vì nó không công bằng,
lãng phí tài chính, hoặc cấu thành một chính sách
công tồi tệ. Nếu thực sự xem xét cẩn thận, thì điều
này có nghĩa là thẩm phán và đại thẩm phán không
được tự do vận dụng các quan niệm cá nhân về đúng
sai, hoặc quan niệm chính sách công tốt xấu khi xem
xét tính hợp hiến của văn kiện lập pháp.


Một hệ quả phụ khác của nguyên tắc này là có thể
một đạo luật được thông qua và được mọi người nhất
trí là một đạo luật tốt và khôn ngoan, nhưng vẫn bị
coi là vi hiến; ngược lại, một đạo luật có thể hợp
pháp hóa hành vi của quan chức hành pháp bị mọi
người coi là tồi tệ và nguy hiểm, nhưng vẫn không vi
phạm Hiến pháp.

Nguyên tắc không phán quyết về “tính sáng suốt” của
các đạo luật là một nguyên tắc khó tuân thủ trong
thực tiễn. Đó là vì Hiến pháp là một tài liệu khá ngắn
gọn, không đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống
công và chứa một số câu chữ và lời khuyên răn có thể
có nhiều cách lý giải khác nhau. Ví dụ, Hiến pháp
quy định Quốc hội được điều chỉnh thương mại
xuyên bang. Nhưng chính xác thế nào là thương mại,
và phạm vi của nó rộng đến mức nào khi chưa thêm
chữ “xuyên bang”? Thẩm phán cũng là con người, và
họ có nhiều cách trả lời khác nhau đối với câu hỏi
này. Hiến pháp bảo vệ một người bị truy tố về một tội
phạm nào đó có quyền được luật sư bào chữa. Nhưng
quyền này có được duy trì khi người đó kháng cáo
yêu cầu một phán định có tội hay không, nếu có thì
bao nhiêu kháng cáo? Những người giải thích luật
chặt chẽ và những người giải thích luật lỏng lẻo đã
đưa ra những câu trả lời khác nhau.

Tóm lại, mặc dù việc đưa giá trị cá nhân của thẩm
phán vào trong cách diễn giải nhiều phần của Hiến

pháp là không thể tránh khỏi, nhưng hầu như các luật
gia đều tán thành nguyên tắc chung là các đạo luật
chỉ có thể bị vô hiệu hóa nếu nó vi phạm Hiến pháp,
chứ không phải theo ý thích cá nhân của thẩm phán.


×