KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH TRÁCH NHIỆM SẢN
PHẨM TRONG PHÁP LUẬT HOA KỲ VÀ CANADA - KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Ở
VIỆT NAM
I. Dẫn nhập
Trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm (Products Liability) là một định chế pháp
luật quan trọng ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Quá trình phát triển chế
định pháp luật này gắn liền với nhu cầu bảo vệ người tiêu dùng trước những nhà sản xuất,
cung ứng hàng hoá sản phẩm. Cội nguồn của vấn đề là ở sự xung đột lợi ích giữa việc chạy
đua lợi nhuận với sự cần thiết phải đảm bảo an toàn tính mạng, sức khoẻ cho người dân.
Các doanh nghiệp, do chạy theo lợi nhuận, do để cạnh tranh, các nhà sản xuất có xu hướng
bỏ qua những yêu cầu về an toàn nhằm tránh chi phí cao hoặc bỏ qua những cảnh báo về
sự nguy hại tiềm tàng của việc sử dụng sản phẩm nhằm tránh việc giảm mức tiêu thụ
chúng. Sự phát triển của chế định này là một bước tiến của pháp luật ở nhiều nước trong
việc kiểm soát các nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm vì lợi ích của cộng đồng. Bản chất của
chế định này là các nhà sản xuất và những tổ chức, cá nhân tham gia vào việc tiêu thụ sản
phẩm phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra cho người sử dụng sản phẩm
nếu như việc sử dụng chúng gây thiệt hại cho họ vì sản phẩm có khiếm khuyết hay việc sử
dụng chúng có thể kéo theo những nguy hại tiềm tàng nhưng không được cảnh báo trước.
Trên thế giới, Liên minh Châu Âu cũng có những cố gắng lớn trong việc điều chỉnh pháp
luật quan hệ giữa người sản xuất, cung ứng với người tiêu dụng liên quan đến những thiệt
hại do sử dụng sản phẩm gây ra. Ngày 25 tháng 7 năm 1985 Uỷ ban của Cộng đồng Châu
Âu đã ban hành Chỉ thị 85/374/EEC để hài hoà hoá các quy định bắt buộc trong lĩnh vực
pháp luật và hành chính của các nước thành viên về trách nhiệm của các sản phẩm bị
khiếm khuyết[1]. Chỉ thị này được ban hành trên cơ sở Hiệp ước về thành lập Cộng đồng
Châu Âu, nhất là điều 100. Chỉ thị 85/374/EEC này đã được sửa đổi bởi Chỉ thị số
1999/34/EC do Nghị viện và Hội đồng Liên minh Châu Âu ban hành ngày 25 tháng 5 năm
1999[2]. Theo các Chỉ thị này, các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm đối với bất cứ thiệt
hại nào do sản phẩm bị khiếm khuyết gây ra cho người tiêu dùng. Theo Chỉ thị năm 1985
nêu trên, nhà sản xuất cung ứng có nhiều cơ hội giải phóng trách nhiệm của mình thông
qua các qui định: (1) Nghĩa vụ chứng minh; (2) Các trường hợp miễn trách nhiệm (sự phát
triển của rủi ro,...); (3) Giới hạn trách nhiệm trần. Với các qui định về nghĩa vụ chứng
minh, Chỉ thị buộc người bị thiệt hại trong mọi trường hợp phải chứng minh thiệt hại xảy
ra do việc sử dụng sản phẩm bị khiếm khuyết. Với trường hợp các qui định về miễn trách
nhiệm thì nhà sản xuất có thể được giải phóng trách nhiệm nếu chứng minh rằng tại thời
điểm sản xuất họ không thể nhìn thấy được rủi ro như đã xảy ra hay trình độ khoa học kĩ
thuật tại thời điểm nhà sản xuất đưa sản phẩm vào lưu thông không thể phát hiện được các
khiếm khuyết,... Các qui định về giới hạn trách nhiệm trần cho phép các quốc gia thành
viên áp dụng giới hạn trần trong các vụ khiếu kiện có nhiều nhiều người. Việc áp dụng
trách nhiệm trần sẽ có lợi chỉ cho người khởi kiện đầu tiên.
Tại Nhật Bản, quốc gia này cũng có sự phát triển trong điều chỉnh pháp luật đối với những
vấn đề liên quan đến trách nhiệm sản phẩm. Trước khi có Luật Trách nhiệm sản phẩm năm
1994, pháp luật Nhật Bản đã có chế định về trách nhiệm sản phẩm (tuy trong pháp luật
Nhật Bản lúc đó không hề tồn tại khái niệm "trách nhiệm sản phẩm" với tư cách một khái
niệm pháp lý)[3]. Tuy bị ảnh hưởng nhiều bởi chế định trách nhiệm sản phẩm trong Chỉ thị
năm 1985 của Ủy ban Châu Âu về trách nhiệm sản phẩm[4], Luật Trách nhiệm sản phẩm
của Nhật Bản năm 1994 chỉ gồm có 7 Điều luật[5].
Như vậy, rõ ràng trong nền kinh tế thị trường, việc bảo vệ người tiêu dùng trước những tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường đang rất được pháp luật nhiều quốc gia chú ý. Chuyên
đề sau đây sẽ tìm hiểu pháp luật về chế định Trách nhiệm sản phẩm của khu vực Bắc Mỹ -
một trong những khu vực có hệ thống pháp luật phát triển lâu đời nhất trên thế giới với
mục tiêu xây dựng chế định này tại Việt Nam trong điều kiện hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường của quốc gia. Hai quốc gia tiêu biểu được chọn để nghiên cứu là Hoa Kỳ và
Canada.
II. Quá trình xây dựng và nội dung chế định trách nhiệm sản phẩm của pháp luật
Hoa Kỳ
1. Khái quát quá trình phát triển của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm tại Hoa
Kỳ
Trước đây, những thiệt hại mà người sử dụng sản phẩm phải gánh chịu không hề được bồi
thường. Pháp luật các nước theo hệ thống Common Law xuất phát từ quan điểm cho rằng
giữa người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm không có mối quan hệ nào nên việc bồi
thường trong những trường hợp có thiệt hại xảy ra là không có cơ sở pháp lý. Giống như ở
Anh, tại Mỹ, nơi thuyết “quan hệ mật thiết” (in privity doctrine[6]) được coi như là một
pháo đài bất khả xâm phạm được các bị đơn và các thẩm phán sử dụng để chống lại bên
nguyên đơn trong các vụ việc liên quan đến bồi thường thiệt hại. Theo học thuyết này, giữa
người bị thiệt hại với người bị buộc phải bồi thường phải có mối liên hệ nhất định nào đó,
chẳng hạn như quan hệ hợp đồng. Xuất phát từ quan điểm này nên trong vụ án
Winterbottom kiện Wright[7], thẩm phán đã bác bỏ yêu cầu bồi thường thiệt hại của nhân
viên công ty bưu điện Posmaster General kiện ông Wright, người sản xuất ra chiếc xe ngựa
chuyên dùng cho bưu điện. Winterbottom đã điều khiển chiếc xe này và trong một lần đi
đưa thư, do thiết kế quá kém nên xe đã sập khiến người này bị thiệt hại về sức khoẻ. Trong
suốt cả thế kỷ tiếp theo đó, đã có nhiều vụ án về trách nhiệm sản phẩm xảy ra song những
người khởi kiện chưa thắng nổi. Học thuyết in privity vẫn đứng vững trước những sự tấn
công của giới luật sư và các nhà hoạt động xã hội. Chỉ mãi nửa thế kỷ sau, học thuyết này
mới bị sụp đổ trong vụ Henningsen kiện Bloomfield Motor[8]. Trong vụ án này, thẩm phán
của toà án Mỹ đã bác bỏ thuyết in privity và áp dụng trách nhiệm của nhà sản xuất đối với
an toàn sản phẩm trong quá trình sử dụng. Vụ án này mở đường cho sự phát triển của chế
định trách nhiệm sản phẩm và cùng với nó là sự sụp đổ của thuyết in privity. Tiếp sau đó,
năm 1963, các thẩm phán trong vụ Green Man kiện Yuba Power Products[9] đã hoàn thiện
thêm các luận điểm về trách nhiệm sản phẩm.
Năm 1965, Viện luật Mỹ đã ban hành đạo luật “Restatement 2nd of Torts”[10], (bản sửa
đổi lần thứ hai). Đáng chú ý trong đạo luật này là mục 402 A đã đưa ra định nghĩa và
những quy định về trách nhiệm đối với những sản phẩm có khuyết tật. Cụ thể như sau:
“1.1. Một người bán bất kỳ một sản phẩm nào trong tình trạng có khiếm khuyết có thể có
tính nguy hiểm cao cho người sử dụng, hoặc cho khách hàng, hoặc cho tài sản của họ, sẽ
phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại về thể chất xảy ra đối với người sử dụng
hoặc khách hàng hay tài sản của họ nếu:
i. Người bán tham gia vào việc kinh doanh sản phẩm đó, và
ii. Sản phẩm đó đã có thể, hoặc đã tới được người sử dụng, hoặc khách hàng mà không có
sự thay đổi đáng kể nào về điều kiện hay tình trạng của sản phẩm như lúc bán.
1.2. Nguyên tắc quy định tại khoản một trên cũng được áp dụng trong các trường hợp.
i. Người bán đã thực hiện tất cả những sự thận trọng có thể trong việc chuẩn bị và bán sản
phẩm, và
ii. Người sử dụng hoặc khách hàng đã không mua sản phẩm từ hoặc giao kết bất kỳ một
thoả thuận hợp đồng nào với người bán.
iii. Theo quy định tại mục 402 A này thì người bán bao gồm: người bán lẻ, người bán
buôn, nhà sản xuất. Thiệt hại bao gồm thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và thiệt hại về kinh
tế, tài chính”.
Vào thời điểm đó hầu hết các bang của Mỹ đều áp dụng mục 402 A của đạo luật này cùng
với luật riêng của bang mình để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Trong rất nhiều năm
luật trách nhiệm sản phẩm cùng với điều 402 A này đã được phát triển và làm sáng tỏ rất
nhiều lần. Nhưng như một tất yếu khách quan của sự phát triển, rất nhiều người cho rằng
mục 402 A của đạo luật “Restatement of Torts” đã không còn phù hợp với thời đại nữa.
Hơn nữa, bản thân các khái niệm được nêu ra trong đó còn tồn tại nhiều mâu thuẫn gây ra
những hạn chế nhất định trong việc phát triển luật trách nhiệm sản phẩm nói chung và
trong việc thực thi mục 402 A nói riêng.
Chính vì những lý do trên mà Viện Luật Mỹ (American Law Institute) đã quyết định cần
phải sửa đổi những vấn đề liên quan đến trách nhiệm sản phẩm trong đạo luật
“Restatement of Torts”. Năm 1995, Viện Luật Mỹ (ALI) đã soạn thảo một Luật mẫu của
liên bang về trách nhiệm sản phẩm (Product Liability Fairness Act) nhằm thống nhất hoá
pháp luật về lĩnh vực này trong tất cả các bang. Đạo luật này hệ thống hoá và phát triển
nhiều kết luận và các lý thuyết thuyết được sử dụng trong các án lệ, các qui định trong các
đạo luật của liên bang liên quan đến trách nhiệm sản phẩm. Dự án này đã hoàn thành năm
1997 sau khi được các thành viên của ALI phê chuẩn về bản sửa đổi lần thứ ba của đạo
luật “Restatement of Torts”: Luật trách nhiệm sản phẩm. Phiên bản Luật cũ chỉ có điều
402A gồm 2 mục quy định về khuyết tật do sản xuất và khuyết tật do thiết kế. Trong khi
đó, phiên bản Luật mới có đến gồm 21 mục[11] đề cập đầy đủ hơn đến khuyết tật do sản
xuất, khuyết tật do thiết kế, khuyết tật do cảnh báo và những hướng dẫn thi hành. Phiên
bản hoàn chỉnh nhất của luật này được đưa ra công chúng ngày 6 tháng 5 năm 1998 dưới
cả dạng bản cứng và bản mềm. Bản copy của luật này được cung cấp bởi phòng ban dịch
vụ khách hàng của ALI tại số 4025 Chestnut Street, Philadenphia. vực này trong tất cả các
bang. Rất nhiều bang đã không chấp nhận và vì thế cho đến nay nó vẫn chưa được Quốc
Hội thông qua. Tuy nhiên, nhiều qui định trong đó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xét
xử của các toà án Mỹ đối với các vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm. Đạo luật này đã qui
định một nguyên tắc chung và một nguyên tắc cụ thể về trách nhiệm sản phẩm mà việc
nắm vững chúng rất có ý nghĩa đối với những người khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do
sử dụng sản phẩm có khiếm khuyết hay không an toàn.
Nguyên tắc chung được qui định trong Mục 104 như sau:
Luật này qui định: Trong bất bất cứ vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm thuộc phạm vi điều
chỉnh của mục này do bên khiếu kiện tiến hành đòi bồi thường thiệt hại do việc sử dụng
sản phẩm gây ra, người bán sản phẩm phải chịu trách nhiệm trước người khiếu kiện chỉ khi
người này xác định được :
A. rằng
(i) Sản phẩm bị cáo buộc là đã gây thiệt hại bị đưa ra vụ kiện đã được bán, được cho thuê
bởi người bán;
(ii) Người bán sản phẩm không thể hiện sự quan tâm hợp lý đối với sản phẩm; và
(iii) Sự thiếu quan tâm hợp lý này là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại mà người khiếu
kiện đã gánh chịu.
B. rằng
(i) Người bán sản phẩm đã công khai đưa đảm bảo áp dụng đối với sản phẩm đã gây thiệt
hại bị khiếu kiện và đảm bảo này độc lập với với tất cả những đảm bảo của người sản xuất
đối với chính loại sản phẩm này;
(ii) Sản phẩm không đáp ứng được với đảm bảo; và
(iii) Việc không đáp ứng được đảm bảo là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại; hoặc
C. rằng
(i) Người bán sản phẩm đã thực hiện một hành vi sai trái cố ý qui định trong luật hiện hành
của bang;
(ii) Hành vi sai trái cố ý này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại bị khiếu kiện.
Bên cạnh nguyên tắc chung nêu trên, Mục104 đưa ra cả nguyên tắc cá biệt sau:
Người bán sản phẩm phải chịu trách nhiệm như người sản xuất sản phẩm đối với những
thiệt hại do sản phẩm gây ra nếu:
A. Người sản xuất không thể bị lôi cuốn vào tranh tụng theo luật của bang nơi vụ kiện
được thụ lý;
B. Toà án quyết định rằng người khởi kiện sẽ không thể thực hiện được
phán quyết chống lại nhà sản xuất.
Như vậy có thể thấy pháp luật liên bang của Mỹ chưa có các qui định về trách nhiệm sản
phẩm. Tuy nhiên, nhiều qui định trong các văn bản pháp luật liên bang về nghĩa vụ đảm
bảo trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được áp dụng để xác định các khía cạnh khác nhau
về trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà cung ứng đối với sản phẩm của mình khi chúng gây
thiệt hại cho người tiêu dùng.
2. Các lý thuyết nền tảng của chế định trách nhiệm sản phẩm tại Hoa Kỳ
Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm đối với sản phẩm bao gồm nhiều qui định riêng lẻ trong
các mảng pháp luật khác nhau như về cẩu thả (negligence), đảm bảo (warranty), các qui
định riêng biệt về sản phẩm, các qui phạm pháp luật bang và liên bang về sản xuất và bán
sản phẩm, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng cũng như lý thuyết về trách nhiệm nghiêm
ngặt (strict liability).
Tại Hoa Kỳ, để xác định trách nhiệm sản phẩm, người ta dựa vào ba lý thuyết chủ yếu là
sự cẩu thả, sự vi phạm nghĩa vụ đảm bảo và trách nhiệm nghiêm ngặt.
2.1. Lý thuyết về sự cẩu thả (Negligence)
Cẩu thả là một cơ sở quan trọng trọng việc xác định các trách nhiệm theo luật về các vi
phạm (tort law). Cẩu thả là việc bỏ qua, không thể hiện một sự quan tâm tránh cho người
mình có nghĩa vụ phải quan tâm bị rơi vào tình trạng chịu thiệt hại. Trong việc áp dụng
trách nhiệm sản phẩm, cẩu thả được coi là một cơ sở quan trọng. Sự cẩu thả (tắc trách) là