Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT và ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật thuế GTGT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.49 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Luật thuế GTGT đã được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 (tháng
4/1997) thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. Đây là Luật thuế mới, lần
đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam với đối tượng điều chỉnh rộng và tác động
đến mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Thuế GTGT là một loại thuế hiện
đại đánh trên tiêu dùng và có nhiều ưu điểm so với thuế doanh thu, đặc biệt là
tác dụng loại trừ việc đánh thuế trùng qua các giai đoạn của quá trình sản xuất
và lưu thông hàng hóa. Cùng với việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp thay cho Luật thuế lợi tức, việc ban hành Luật thuế GTGT thay cho Luật
thuế doanh thu là một trong những nội dung cơ bản của cái cải thuế bước 2 với
mục tiêu tạo môi trường sản xuất kinh doanh công bằng, bình đẳng, thuận lợi,
phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập
quốc tế.
Qua hơn 7 năm thực hiện tại Việt Nam, đến nay Luật Thuế GTGT đã dần
đi vào đời sống và có những tác động tích cực đến tình hình kinh tế xã hội đất
nước ta cũng như góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc áp dụng thuế GTGT
trên thực tế vẫn là một vấn đề khó và còn không ít những “kẽ hở” pháp luật dẫn
đến việc gian lận, trốn thuế của các đối tượng nộp thuế và các hành vi vi phạm
pháp luật khác.
Vì vậy, việc nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp luật về thuế
GTGT ở Việt Nam là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về thuế GTGT nói riêng trong
thời gian tới.
Bài viết dưới đây tìm hiểu về “Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT và
ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật thuế
GTGT”.
Nhóm KT33D1-3
2


Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tài chính
NỘI DUNG
I. Khái quát về thuế giá trị gia tăng
1. Định nghĩa thuế giá trị gia tăng
So với nhiều sắc thuế khác, thuế GTGT có lịch sử phát triển không dài nhưng
loại thuế này đã trải qua một quá trình phát triển mạnh mẽ. Với những hình thức phong
phúm thuế GTGT là một phần quan trọng của hệ thống tài chính của nhiều nước trên thế
giới, nó là loại thuế đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hóa và dịch vụ.
Điều 2, Luật thuế GTGT năm 2008 quy định : “Thuế giá trị gia tăng là thuế thu
trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất,
lưu thông đến tiêu dùng”.
Là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu thuế
đã sử dụng để mua bán hàng hóa, nhận dịch vụ. Như vậy, xét về bản chất, thuế GTGT là
một loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp
thuế nhưng người tiêu dùng thực chất lại là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa
dịch vụ. Điều này giúp cho các cơ quan quản lí, thu thuế giá trị gia tăng tránh được sự
phản ánh gay gắt về thuế. Bên cạnh đó, thuế GTGT cũng có thể ảnh hưởng tới sức mua
của công chúng do phần thuế này đã được cấu thành trong giá bán hàng hóa, cung cấp
dịch vụ cho người tiêu dùng.
2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng.
Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng trong xã
hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập cao đều phải
chi trả thu nhập của mình để hưởng thụ kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho nền kinh
tế xã hội. Điều này có nghĩa, mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ
thể thực tế phải trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng. Chính đặc điểm này có ý
nghĩa quan trọng tới sự tác động của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với đời sống kinh
tế, xã hội. Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ nét sự
công bằng của thuế, đồng thời thể hiện thái độ của nhà nước đối với các loại tiêu dùng
trong xã hội.
Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ.

Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị gia tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị
hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu
thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đặc điểm này của
thuế GTGT còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương thức phù
hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị gia tăng thêm làm căn cứ tính
thuế.
Thứ ba, nếu dựa trên giá trị mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế giá trị
gia tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau.
Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa ở trong nước,
khâu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ
là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán
tính đến khi người tiêu dùng hưởng thụ hàng hóa dịch vụ đã được xác định trước và
không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số
thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tồng giá trị hàng
hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu việt của
Nhóm KT33D1-3
3
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tài chính
thuế GTGT so với cá loại thuế hàng hóa dịch vụ thông thường mà Việt Nam và nhiều
quốc gia đã áp dụng trong giai đoạn trước đây.
Từ những đặc điểm trên có thể thấy, ưu điểm cơ bản nhất của thuế GTGT là khắc
phục được những nhược điểm của thuế doanh thu như: tránh được việc đánh thuế trùng
lắp bằng cơ chế khấu trừ thuế đầu vào, khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp cùng
tham gia hoạt động xuất khẩu bằng cơ chế hoàn thuế GTGT, đem lại số thu tương đối
lớn cho ngân sách nhà nước do phàm vi điều tiết của thuế GTGT rộng, cho phép chống
trốn lậu thuế hiệu quả, tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau về thuế giữa các đơn vị có liên quan
trong cung ứng hàng hóa dịch vụ vì việc khấu trừ thuế được thực hiện trên cơ sở hóa
đơn GTGT.
3. Nội dung cơ bản của thuế giá trị gia tăng
Nội dung chủ yếu của pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam được xem xét dưới các

bộ phận cụ thể như sau: phạm vi áp dụng thuế GTGT, căn cứ tính thuế GTGT, các quy
định về phương pháp tính thuế GTGT, các quy định về ưu đã, miễn giảm thuế GTGT và
cuối cùng là các quy định về kê khai, nộp thuế.
3.1. Phạm vi áp dụng thuế GTGT
Theo quy định tại Điều 3, Luật thuế GTGT thì đối tượng nộp thuế GTGT là các
chủ thể sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế và các tổ chức, cá nhân nhập
khẩu hàng hóa chịu thuế. Việc xác định chủ thể nộp thuế GTGT là nhằm giới hạn những
đối tượng thuộc diện điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT. Điều này cũng có nghĩa
những đối tượng không đáp ứng được đầy đủ điều kiện là đối tượng nộp thuế GTGT thì
đương nhiên nằm ngoài sự điều chỉnh của quan hệ pháp luật này.
Điều kiện thứ nhất, đối tượng nộp thuế GTGT phải có hành vi kinh doanh. Các
chủ thể này phải có hoạt động sản xuất kinh doanh các hàng hóa dịch vụ chịu thuế
GTGT hoặc có hành vi nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT, ngoài ra các
chủ thể kinh doanh này phải có các hành vi kinh doanh được pháp luật công nhận.
Theo quy định của Luật thuế GTGT hàng hóa, dịch vụ được xác định là đối
tượng chịu thuế GTGT bao gồm:
- Hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, tiêu dùng trong nước không phân biệt hình
thức tiêu dùng.
- Hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu để tiêu dùng trong nước. Việc đánh thuế GTGT
đối với hoạt động nhập khẩu tạo ra sự bình đẳng giữa hàng hóa dịch vụ được tạo ra
trong nước và hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, mặc dù trong những chừng mực nhất định
có thể gây ra khó khăn cho nhà nhập khẩu.
Điều kiện thứ hai để xác định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa dịch vụ này
phải có phần giá trị tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam. Pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam
quy định phần giá trị gia tăng đối với hàng hóa dịch vụ cơ bản như sau:
- Đối với hàng hóa dịch vụ tạo ra trong nước, phần giá trị gia tăng là chênh lệch
giữa giá trị bán ra với giá trị mua vào tương ứng của lượng hàng hóa dịch vụ đã cung
cấp.
- Đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, phần giá trị tăng thêm là toàn bộ giá trị
nhập khẩu của hàng hóa.

3.2. Căn cứ tính thuế
* Thứ nhất, về giá tính thuế GTGT
Nhóm KT33D1-3
4
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tài chính
Được xác định theo hai cách. Thứ nhất, giá tính thuế là giá đã bao gồm thuế
GTGT; thứ hai, giá tính thuế GTGT là giá chưa bao gồm thuế GTGT, cách tính này
được áp dụng hầu hết ở các nước và cũng là sự lựa chọn của Việt Nam khi xác định giá
tính thuế GTGT.
Đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, giá tính thuế là giá nhập khẩu và các loại
thuế áp dụng đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu nhưng chưa có thuế GTGT.
Đối với hoạt động sản xuất hàng hóa ở dưới dạng đặc thù như cho thuê tài sản,
gia công hàng hóa, xây dựng....tùy theo từng trường hợp, pháp luật quy định chi tiết về
giá tính thuế GTGT.
* Thứ hai, về thuế suất
Đối với việc quy định thuế suất thuế GTGT phải đáp ứng được những mục tiêu
sau:
- Mức thuế suất được ban hành phải đảm bảo tỷ lệ động viên, tạo nguồn thu ổn
định cho ngân sách nhà nước.
- Vì thuế GTGT là thuế tiêu dùng nên thuế suất phải đảm bảo khả năng định
hướng tiêu dùng trong dân cư.
- Thông qua thuế suất Nhà nước thực hiện một số chính sách khuyến khích, thay
đổi cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế.
3.3. Phương pháp tính thuế GTGT
* Phương pháp khấu trừ thuế
“Khấu trừ thuế là một trong những nội dung đặc trưng của phương pháp tính
thuế GTGT” . Tính thuế theo phương pháp này là số thuế GTGT phải nộp được tính trên
cơ sở số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào. Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra là số thuế xuất hiện ở khâu bán ra, chủ thể nôp thuế đã xác
định và tính trong giá bán cho người nhận hàng hóa dịch vụ. Phần thuế này được tính

trên toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Tại Khoản 1 Điều 9
Luật Thuế GTGT quy định thuế đầu ra được tính bằng giá tính thuế hàng hóa, dịch vụ
đầu ra nhân với thuế suất thuế GTGT.
- Giá tính thuế là gái bán chưa có thuế GTGT theo quy định của pháp luật
- Thuế suất được quy định rõ cho từng loại ngành nghề kinh doanh, từng chủng
loại hàng hóa, dịch vụ.
- Thuế GTGT ở khâu bán ra được xác định trên chứng từ hóa đơn hợp lệ của chủ
thể nộp thuế. Trường hợp chứng từ không phản ánh số thuế GTGT hoặc chỉ ghi nhận
giá thanh toán hàng hóa dịch vụ cũng được điều chỉnh cụ thể trong Luật.
Để áp dụng được phương pháp khấu trừ thuế, cần phải có những điều kiện luật
định như sau:
- Chủ thể nôp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hạch toán
kế toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn theo quy định hiện hành.
- Đăng ký thuế, đã được cơ quan thuế cấp mã số thuế theo đúng trình tự luật
định.
- Đăng ký với cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ.
* Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm
Nhóm KT33D1-3
5
Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Tài chính
Phương pháp trừ trực tiếp là phương pháp tính thuế mà theo đó “Số thuế phải
nộp bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ nhân với thuế suất thuế GTGT”
Để có được phần “giá trị tăng thêm”, pháp luật quy định GTGT “bằng giá thanh
toán của hàng hóa dịch vụ bán ra, trừ đi giá thanh toán của hàng hóa dịch vụ mua vào
tương ứng”. Như vậy, nếu phương pháp khấu trừ thuế xác định trực tiếp theo hiệu số
thuế thì phương pháp tính trực tiếp xác định theo hiệu số kết quả kinh doanh của chủ thể
nộp thuế.
Thuế suất thuế GTGT được áp dụng phù hợp với ngành nghề kinh doanh, hàng
hóa dịch vụ mà chủ thể nộp thuế cung cấp.

3.4. Quy định về đăng ký, kê khai nôp thuế và quyết toán thuế, hoàn thuế GTGT
Về tổ chức đăng ký thuế, pháp luật thuế GTGT quy định các chủ thể đăng ký
thuế được cơ quan quản lý thuế chấp nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế
và thông báo mã số thuế cho chủ thể nộp thuế. Mã số thuế được cấp duy nhất cho một
chủ thể nộp thuế và sử dụng suốt quá trình tồn tại của chủ thể nộp thuế.
Về quản lý giám sát quá trình nộp thuế: việc quản lý và giám sát quá trình kê
khai thu nộp thuế đối với thuế GTGT phân chia làm hai loại do đặc thù của đối tượng
chịu thuế. Đó là việc quản lý kê khai, nộp thuế với hoạt động kinh doanh thông thường
và hoạt động quản lý kê khai, thu nộp thuế đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Bên
cạnh việc quản lý thu nộp và kê khai thuế GTGT, chứng từ hóa đơn cũng là một nội
dung quan trọng của việc quản lý thuế GTGT. Theo Luật thuế GTGT, chứng từ hóa đơn
chính là chứng cứ xác định nghĩa vụ thực tế mà chủ thể nộp thuế phải thực hiện đối với
nhà nước.
Về hoàn thuế GTGT: hoàn thuế GTGT là việc cơ quan thuế ra quyết định trả lại
số tiền thuế GTGT đã nộp vượt quá của chủ thể nộp thuế. Theo quy định của pháp luật,
hoàn thuế áp dụng trong các trường hợp sau:
- Trường hợp thứ nhất, đối với chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh thông
thường, các đối tượng được hoàn thuế GTGT chỉ có thể là đối tượng nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ thuế. Nếu các đối tượng này có “3 tháng liên tục trở lên có
số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết”, thì được trả lại phần thuế đã nộp vượt quá.
- Trường hợp thứ hai, hoạt động xuất khẩu hàng hóa, do hưởng thuế suất 0%, cơ
sở có hàng suất khẩu có thể được hoàn thuế theo tháng khi thuế đầu vào của hàng hóa,
dịch vụ xuất khẩu chưa được khấu trừ hết trên 200 triệu đồng.
- Trường hợp thứ ba, đối với việc đầu tư dự án có giá trị lớn, thường phát sinh số
thuế đầu vào lớn, nếu đó là các dự án của chủ thể đã đăng ký thuế, chưa thực sự kinh
doanh, thời gian đầu tư trên 1 năm, được xét hoàn thuế theo từng năm; nếu số thuế đầu
vào tương ứng trên 200 triệu, được xét hoàn thuế quý.
- Trường hợp thứ tư, hoàn thuế GTGT do thực hiện chính sách ưu đãi. Đối với sự
án sử dụng nguồn vốn ODA, hàng hóa mua bằng nguồn viện trợ nhân đạo, pháp luật cho
phép chủ dự án hoặc tổ chức cá nhân viện trợ nhân đạo được hoàn lại số thuế GTGT đã

trả tương ứng với hàng hóa, dịch vụ đã được cung cấp.
- Trường hợp thứ năm, quyết toán thuế khi chấm dứt hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp hoặc chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp.
Việc hoàn thuế GTGT chỉ có thể thực hiện khi đối tượng nộp thuế nằm một trong
những trường hợp nêu trên và có hồ sơ hoàn thuế hợp lệ.
Nhóm KT33D1-3
6

×