Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai
130
- Cho phép nhà cung cấp dòch vụ đầu tư thêm khi mạng phát triển.
Tóm lại, ATM nội trội trong truyền dẫn truy xuất nội hạt cũng như chuyển vận trục
mạng tổng đài.
4.6 VoDSL
4.6.1 Các yêu cầu của thò trường dành cho hệ thống VoDSL
Để VoDSL thực sự hấp dẫn được khách hàng và trở thành giải pháp tốt cho các
mạng thuê bao trong tương lai thì VoDSL phải thoả mãn được các yêu cầu của thò trường.
Chính yêu cầu của thò trường đã đònh hình cho các đặc tính kỹ thuật của giải pháp
VoDSL.
- VoDSL phải là một dòch vụ điện thoại thực sự về:
+ chất lượng: rõ ràng, tiếng dội và độ trễ không nhận biết được.
+ kết nối được mọi loại thiết bò POTS như các máy điện thoại quay số
bằng Pulse, Tone, các loại máy fax, modem, …
- Ghép tối thiểu 4 đến 12 kênh thoại hỗ trợ từng mạch DSL để đáp ứng nhu
cầu của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các chi nhánh của
các doanh nghiệp lớn.
- Thực hiện trong suốt các CLASS feature (Customer Local Area Signaling
Service) như caller ID, selective call forwarding, automatic callback,
selective call rejection, caller ID when waiting, who call me, … hay Custom
calling service như call waiting, call forwarding (busy line, no answer), teen
service, call transfer, three-way calling, …
- Xác đònh dải tần động cho âm thoại, với sự ưu tiên cho âm thoại để bảo
đảm chất lượng dòch vụ đồng thời phải thực hiện nén thoại, bỏ qua các
khoảng yên lặng để tận dụng tối đa dải tần cho thoại.
- Phải có độ tin cậy và ổn đònh “five nine reliable”: 99,999%: mặc dù được
xây dựng dựa trên công nghệ mạng số dữ liệu gọi là computer based
solution, giải pháp VoDSL cũng phải đạt độ ổn đònh cao như dòch vụ điện
thoại thông thường được các công ty điện thoại thực hiện.
- Dễ cung cấp và quản lý: giải pháp VoDSL phải tương hợp với các hệ thống
quản lý, điều hành, bảo dưỡng mạng điện thoại và số liệu hiện tại mà
không làm ngưng trệ chúng.
4.6.2 Các thành phần chính trong một hệ thống VoDSL
Có 3 thành phần chính trong một hệ thống VoDSL:
- Thiết bò truy xuất tích hợp VoDSL (IAD: Integrated Access Device) dùng để
gói hoá âm thoại và sắp xếp tín hiệu vào các tế bào ATM hay gói IP và
chuyển vận chúng qua các liên kết DSL (và chuyển đổi ngược lại các gói
âm thoại thành các tín hiệu kênh thoại). Ngoài nhiều port thoại để nối với
các máy điện thoại, IAD còn bao gồm các port số liệu để kết nối máy tính,
hub LAN và các bộ đònh tuyến.
- DSLAM có khả năng VoDSL là DSLAM đa dòch vụ có khả năng dẫn đường
cho các gói dữ liệu Internet hay các mạng số liệu khác trong khi đồng thời
Dòch vụ trên ADSL Đặng Quốc Anh
131
dẫn đường các gói hay tế bào dữ liệu thoại qua voice gateway để đến
PSTN.
- Voice gateway chuyển thoại được gói hoá thành lưu thoại dựa trên mạch
(và ngược lại đối với lưu thoại chuyển xuống từ IAD) và sau đó chuyển tiếp
các tín hiệu mạch này cho các bộ chuyển mạch Class 5 của PSTN bằng
chuẩn giao tiếp công nghiệp GR-303, TR-008 (ở Bắc Mỹ) hay V5 (ở châu
Âu).
Hình 4.6 Cấu hình VoDSL tiêu biểu
Ngoài ra, trong cấu hình mạng VoDSL tiêu biểu còn có:
- CPE (Customer Premises Equipment): thiết bò tài sản của khách hàng như:
điện thoại, PABX, fax, modem, …
- DSL line: vận chuyển dữ liệu và thoại đã được gói hoá qua đường dây điện
thoại.
- Class 5 switch: chuyển mạch nội hạt trong các tổng đài nội hạt.
4.6.3 Kiến trúc mạng của hệ thống VoDSL
Kiến trúc mạng VoDSL được minh họa ở hình 4.9. Với những thuê bao chỉ sử dụng
dòch vụ thoại qua DSL vòng thuê bao kết thúc ở phía khách hàng bằng một modem DSL
hay một bộ đònh tuyến. Với các thuê bao sử dụng cả dòch vụ thoại và số liệu thì vòng thuê
bao DSL kết thúc tại thiết bò truy xuất tích hợp IAD.
IAD
Data
Voice
DSLAM
Access
Data
Voice
Gateway
PSTN
Packet
Backbone
Network
Class 5
Swith
CPE
xDSL
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai
132
4.6.3.1 Kiến trúc tập trung
Hình 4.7 Hệ thống VoDSL theo kiến trúc tập trung
Kiến trúc mạng tập trung minh hoạ ở hình 4.7 đáp ứng nhu cầu của các nhà cung
cấp dòch vụ muốn phân phối dòch vụ thoại từ một tổng đài nội hạt (class 5 switch) có
voice gateway qua nhiều DSLAM ở các tổng đài nội hạt khác không có voice gateway.
Đây là trường hợp các CLEC cung cấp dòch vụ DSL qua các bộ DSLAM đặt tại các tủ
trong các tổng đài ILEC. Trong trường hợp này mạng thông tin gói tập trung lưu lượng từ
các bộ DSLAM được dùng cho cả thoại và số liệu để kết nối với PSTN hay Internet.
Lợi ích của kiến trúc này là chỉ một tổng đài loại 5 có thể phục vụ nhu cầu thoại
của các khách hàng trải trên một diện tích điạ lý rộng. Mạng thông tin gói tập trung lưu
lượng thoại từ các bộ DSLAM khác nhau vào một voice gateway nối với PSTN cho phép
nhà cung cấp dòch vụ đưa dòch vụ thoại tới những vùng xa mà sự đầu tư còn khiêm tốn,
ngay cả trong giai đoạn đầu khi sự thâm nhập thò trường còn thấp.
4.6.3.2 Kiến trúc phân bố
Kiến trúc phân bố đáp ứng nhu cầu của các nhà cung cấp dòch vụ sở hữu cả các
bộ DSLAM và chuyển mạch loại 5 trong cùng một tổng đài và muốn đưa lưu lượng thoại
từ mạng DSL xuống tại mỗi tổng đài nội hạt. Kiến trúc này thích hợp với các ILEC muốn
phục vụ các khách hàng VoDSL của mình từ cùng một tổng đài loại 5 mà họ đã cung cấp
cho khách hàng các dòch vụ POTS.
Trong kiến trúc phân bố cần phải tách lưu thoại và lưu lượng số liệu giữa DSLAM
và mạng thông tin số liệu. Lưu lượng số liệu được chuyển qua mạng thông tin gói đến
một điểm tập trung để kết nối Internet trong khi lưu thoại lại được chuyển ngay tại chỗ
sang bộ chuyển mạch loại 5. Việc tách rời các gói thoại và số liệu đòi hỏi chức năng
chuyển mạch gói. Tuy nhiên, việc lắp đặt một thiết bò chuyển mạch gói riêng cho mỗi
tổng đài nội hạt để thực hiện mạng phân bố là không kinh tế.
Dòch vụ trên ADSL Đặng Quốc Anh
133
Có hai giải pháp khác nhau cho vấn đề kiến trúc này. Giải pháp thứ nhất là sử
dụng một bộ voice gateway mở rộng có chức năng cho các gói dữ liệu thuần túy đi qua
như được minh họa ở hình 4.8 (a). Bộ voice gateway như vậy kết nối cả với DSLAM và
mạng thông tin gói. Các gói chuyển đến từ DSLAM sẽ được kiểm tra xem là gói dữ liệu
thuần tuý hay thoại. Các gói thoại được chuyển sang các bộ chuyển mạch nội hạt trong
khi các gói dữ liệu thuần túy được chuyển sang cho mạng số liệu vùng (regional data
network). Ở chiều ngược lại, các gói dữ liệu từ mạng dữ liệu vùng được ghép chung với
các gói thoại từ các đường dây PSTN và kết hợp lại thành dòng gói gởi tới DSLAM.
Giải pháp thứ hai là sử dụng một bộ DSLAM có chức năng chuyển mạch
(switching DSLAM) có đến hai uplink tốc độ cao hay nhiều hơn như mô tả ở hình 4.8 (b).
Các kết nối gói trong bộ DSLAM được cấu hình để chuyển hướng các gói dữ liệu ra khỏi
một uplink cho mạng gói vùng (regional packet network) trong khi đó các gói thoại được
dẫn đường ra khỏi uplink khác và chuyển vào voice gateway để đưa về bộ chuyển mạch
nội hạt.
Hình 4.8 Hệ thống VoDSL theo kiến trúc phân bố
4.6.4 Nghi thức gói cho mạng thuê bao DSL
Trong các phần trước đã nói đến mạng thông tin gói nhưng không nói rõ là dạng
nào. Trong trường hợp của mạng thuê bao DSL thuật ngữ gói chỉ đến cell ATM, frame
của frame relay hay gói IP. Các gói IP thường được tải trong các payload của cell ATM
hay frame trong frame relay. Vấn đề càng phức tạp hơn khi kỹ thuật chuyển mạch gói
trong mạng thông tin gói vùng có thể thực hiện ở lớp mạng hay lớp frame relay bằng các
chuyển mạch cell hay chuyển mạch frame hay cũng có thể được thực hiện ở lớp IP bằng
các bộ đònh tuyến. Vấn đề còn phức tạp ở chỗ các mạng frame relay phải kết nối với các
mạng ATM qua các chức năng giao thức frame-to-cell.
Việc cung cấp các dòch vụ kết hợp thoại và số liệu qua DSL liên qua đến khái
niệm VoDSL. Dòch vụ số liệu được cung cấp trên DSL hầu hết là dựa trên cở sở IP, vì
vậy, IP được các mạng thuê bao DSL hỗ trợ rộng rãi. Tuy nhiên, đối với VoDSL thì vấn
đề cần giải quyết là nên dùng loại thông tin gói nào để hỗ trợ thoại. Trước khi trả lời câu
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai
134
hỏi này hãy xét chi tiết quá trình xây dựng mạng thuê bao VoDSL. Theo những nguyên
tắc chính của thò trường đã nêu ở trên thì phải tìm ra một giải pháp cho thoại dạng gói
tương hợp với thực tế hiện tại mà không làm thay đổi kiến trúc mạng nội hạt có sẵn.
4.6.4.1 Mạng thuê bao DSL thực tế hiện tại
a. Kiến trúc mạng thuê bao DSL của các ILEC
Phần lớn các ILEC sử dụng DSL dưới phiên bản DSL bất đối xứng (ADSL) dựa
trên tiêu chuẩn T1.431 của ANSI hỗ trợ chuyển vận các cell ATM. Thứ tự các nghi thức
dành cho lưu lượng dữ liệu chủ yếu là IP qua PPP qua ATM dù cũng hỗ trợ nhiều phương
pháp khác như RFC1483 chẳng hạn. Các bộ DSLAM ADSL thực hiện tập trung lưu lượng
dữ liệu và cung cấp các uplink ATM. Các uplink này được nối đến một mạng ATM vùng
tiếp tục tập trung hay chuyển hướng sang hệ thống quản lý thuê bao (Subscriber
Management System) cung cấp các kết nối IP đến các nhà cung cấp Internet.
Hình 4.9 Kiến trúc nghi thức của thoại qua ATM AAL2
Hình 4.10 Kiến trúc nghi thức của VoIP với DSLAM dựa trên frame relay
Nhiều ILEC quy hoạch sử dụng G.lite trong tương lai bên cạnh ADSL. G.lite là một
phiên bản biến thể của ADSL hứa hẹn đem đến một giải pháp rẻ tiền cho thò trường hàng
Dòch vụ trên ADSL Đặng Quốc Anh
135
loạt và cũng giống như ADSL, nó được sử dụng để hỗ trợ chuyển vận các cell ATM.
G.lite có thể được làm cho thích ứng với hạ tầng kiến trúc mạng hiện đang hỗ trợ ADSL
mà không cần phải thay đổi gì.
Các mạng thuê bao của các ILEC có thể hỗ trợ thoại qua ATM (Voice over ATM:
VoATM) hay thoại qua IP (Voice over IP: VoIP). Yêu cầu phải tách rời lưu lượng thoại và
số liệu giữa DSLAM và mạng thông tin gói vùng để hỗ trợ kiến trúc tập trung đồng thời
dù sử dụng phương pháp nào thì thoại và số liệu cũng phải đi trên các kết nối kênh ảo
(virtual circuit connection: VCC) ATM khác nhau. Nếu sử dụng VoIP thì thoại và số liệu
có thể truyền trên cùng một VCC nhưng hoặc bộ DSLAM, hoặc bộ voice gateway phải tái
hợp tất cả các cell ATM thành các gói IP để xác đònh được gói nào chứa thoại và gói nào
chứa dữ liệu. Quá trình này làm tăng thêm độ phức tạp và giá thành của giải pháp.
b. Kiến trúc mạng thuê bao DSL của các CLEC
Các mạng của các CLEC đều đònh hướng hỗ trợ nhiều kiến trúc khác nhau hơn
các ILEC. Hiện nay, mạng thuê bao DSL của các CLEC chủ yếu sử dụng các DSLAM
DSL đối xứng (SDSL) hỗ trợ truyền tải frame relay qua DSL. Hầu hết các DSLAM này
được kết nối với các mạng ATM vùng qua các chức năng giao thức frame-to-cell có sẵn
hay có trong các điểm chuyển mạch ATM cung cấp truy xuất cho các loại DSLAM khác
nhau.
Vì các gói IP được chuyển trong suốt qua chức năng giao thức frame-to-cell nên
sự xuất hiện của IP đã đem lại một giải pháp trực tiếp cho chuyển vận thoại qua các loại
mạng này. Các kỹ thuật khác nhìn chung phức tạp hơn nhiều vì các thiết bò phía khách
hàng phải hỗ trợ frame relay trong khi bộ voice gateway tập trung lại kết nối qua ATM.
Điều này nghóa là thoại qua frame relay (Voice over Frame Relay: VoFR) rất cần thiết
cho các kết nối DSL và giao thức frame-to-cell phải xếp tương ứng các các frame chứa
thoại sang các cell để có thể tương hợp với các bộ voice gateway. Tuy nhiên, sắp tới ta
sẽ thấy trong lúc VoIP được xem là khá đơn giản thì nó lại có nhiều nhược điểm nghiêm
trọng khi sử dụng cho VoDSL. Không phải tất cả các CLEC đều sử dụng các bộ DSLAM
dựa trên kỹ thuật frame relay. Có một số ít nhưng không ngừng tăng lên các CLEC sử
dụng các bộ DSLAM dựa trên ATM dó nhiên hoàn toàn tương hợp với các các mạng ATM
vùng. Các bộ DSLAM dùng kỹ thuật ATM đôi lúc lại rẻ tiền hơn các bộ DSLAM sử dụng
kỹ thuật frame relay tương đương nhưng sự khác biệt có thể nhiều hơn khi các ưu điểm
của các bộ DSLAM đem lại khi hỗ trợ lưu thoại.
4.6.4.2 Giải pháp thoại qua ATM
a. Mô phỏng mạch CES (Circuit Emulation Services)
Giải pháp thoại qua ATM dựa trên một kỹ thuật thuật truyền thống gọi là mô
“phỏng mạch” (“circiut emulation”) với các cấu trúc khung xen byte như T1 hay E1 được
chuyển đổi thành dòng cell ATM truyền ở một tốc độ không đổi.
Mô phỏng mạch được dựa trên cơ sở sử dụng nghi thức lớp thích ứng ATM loại 1
(ATM Adaptation Layer 1: AAL1) và được sử dụng rộng rãi hiện nay để hỗ trợ các đường
truyền T1 và T3 qua mạng ATM. Mô phỏng mạch thật sự đáp ứng một trong các yêu cầu
cơ bản của VoDSL là bố trí được nhiều kênh thoại chia nhau cùng một kênh ảo VCC
ATM nhưng lại không đáp ứng được một số yêu cầu thiết yếu khác, chi tiết là:
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai
136
- Hỗ trợ hỗn hợp thoại nén và thoại không nén, giải toả lưu lượng kênh đồng
thời trên cùng một VCC. Điều này cần thiết để hỗ trợ việc chuyển vận hiệu
quả thoại dạng nén qua kết nối DSL dải tần cố đònh trong khi cùng lúc hỗ
trợ lưu lượng dữ liệu dải tần thoại từ các máy fax và modem tốc độ đầy đủ.
- Hỗ trợ loại bỏ khoảng yên lặng là một kỹ thuật tiết kiệm dải thông lên đến
50% trong mạng thông tin gói.
- Một yêu cầu khác nữa của VoDSL gọi là hỗ trợ đònh vò dải thông động giữa
thoại và số liệu có thể thực hiện được với kỹ thuật mô phỏng mạch nhưng
công nghệ cần thiết lại rất phức tạp.
b. Mô phỏng vòng LES (Loop Emulation Services)
Hình 4.11 Dòch vụ mô phỏng vòng LES
Một giải pháp tốt hơn cho VoDSL có thể có được từ lớp thích ứng ATM loại 2 (ATM
Adaptation Layer 2: AAL2), một kỹ thuật mới được thiết kế để hỗ trợ ghép các dòng gói
thời gian thực qua VCC của ATM. AAL2 đònh nghóa một header riêng cho các gói thoại
(hay các loại dòch vụ thời gian thực khác như video) chứa một bộ chỉ thò độ dài, một bộ
nhận dạng kênh và một cơ chế nhận dạng loại mã hoá thoại trong gói. Các tiện ích được
AAL2 cung cấp đem lại sự thực hiện xuất sắc cho giải pháp VoDSL.
Chi tiết về AAL2 được nêu rõ trong ITU-T Rec. I.363.2 xuất bản vào tháng chín
năm 1997. Đặc tính kỹ thuật trong khuyến nghò này bao gồm dạng gói AAL2, phương
pháp ghép các gói AAL2 vào các cell ATM. Cùng liên quan tới các giải pháp VoDSL là
các khuyến nghò I.366.1 và I.366.2 của ITU-T. Khuyến nghò I.366.2 nêu chi tiết đònh dạng
gói cần thiết để truyền dẫn thoại và tín hiệu điều khiển cuộc gọi sử dụng AAL2 trong khi
đó khuyến nghò I.366.1 mô tả phương pháp truyền tải các gói dữ liệu (chứa chẳng hạn,
các nghi thức quản lý mạng) qua cùng một VCC AAL2 với các gói thoại.
Vào tháng tư năm 1999, ATM Forum nhận thấy sự quan trọng của VoDSL khi là
một ứng dụng của công nghệ thoại qua ATM và đã phê chuẩn một công trình mang tên
“Loop Emulation Service Using AAL2” (“Dòch vụ mô phỏng vòng sử dụng AAL2”) để xác
đònh cách áp dụng các tiêu chuẩn của ITU-T vào việc hỗ trợ cung cấp thoại qua DSL.