BỘ GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO
TẠO
TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
BÙI
THỊ
THANH
HƯƠNG
MADKETING CÁC DỊCH vụ VIỄN THÔNG
TAI
TỔNG
CÔNG TY Bưu CHÍNH
VIỄN
THÔNG
VIỆT
NAM
NHẰM
ĐÁP
ỦNG
YÊU
CẦU
HỘI
NHẬP
KINH
TẾ
QUỐC
TẾ
Chuyên ngành:
Kinh
tế thế
giới
và
Quan
hệ
Kinh
tế
Quốc
tế
Mã số:
60.31.07
LUẬN VĂN THẠC sĩ KINH TỂ
NGƯỜI
HƯỚNG
DẪN KHOA
HỌC
PGS.TS
LÊ ĐÌNH
TƯỜNG
r~—~T~Ì
T
í •
ư
V
'
;>.:>
NGOA-
<:•••
I
ị
HÀ
NỘI
-
2005
-1 -
MỤC LỤC
MỞ ĐẨU 3
ềs'_
_ _ ^ _ . - _ _
Chương
Ì
-
MỘT sổ VAN
ĐẼ
LÝ LUẬN
CHUNG
VE MARKETING DỊCH vụ
VIỄN THÔNG
6
Ì.
Ì
KHÁI
NIỆM VÀ ĐẶC
TRUNG
VỀ
MARKETING
DỊCH vụ 6
1.1.1
Khái
niệm
6
1.1.2 Đặc trưng
6
Ì
.2
MARKETING DỊCH vụ
VIỄN THÔNG
8
Ì
.2.
ỉ
Đặc
điểm
kinh
doanh dịch vụ
viễn
thông
8
Ì
.2.2
Marketing
dịch vụ
viễn
thông
12
Ì
.3
MỐI
QUAN
HỆ HỮU cơ
GIỮA
MARKETING DỊCH vụ
VIỄN THÔNG
VÀ
SỰTẢNG CƯỜNG KHẢ
NĂNG
CẠNH
TRANH
(CỦA
DOANH
NGHIỆP,
SẢN
PHẨM,
QUỐC
GIA,)
20
Ì.3.1
Tình
hình
cạnh
tranh trong
dịch vụ
viễn
thông
20
Ì
.3.2 Nội
dung cờa cạnh
tranh
về dịch vụ
viễn
thông
24
1.3.3
Mối quan hệ hữu
cơ
giữa
marketing
dịch vụ
và
tăng
cường
khả
năng
cạnh
tranh (cờa
doanh
nghiệp,
sản
phẩm,
quốc
gia)
30
Chương 2 - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING DỊCH vụ VIỄN
THÔNG TẠI
TỔNG
CÔNG
TY
BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT
NAM
TRONG
GIAI
ĐOẠN
T
NĂM
2000
-2004
37
2.
Ì
TỔNG
QUAN
VỀ
HOẠT
ĐỘNG CỦA
TONG
CÔNG
TY BUU
CHÍNH
VIỄN
THÔNG
VIỆT
NAM 37
2.1.1 Lịch sử
hình
thành và
phát
triển
37
2.
Ì
.2.
Hoạt
động
kinh
doanh dịch vụ
viễn
thông
39
2.2
THỰC TRẠNG MARKETING DỊCH vụ
VIỄN THÔNG
Ở VNPT T
NĂM
2000
ĐẾN
2004
42
2.2.
Ì.
Công
tác
nghiên
cứu
thị
trường
42
2.2.2.
Các chính sách
marketing
cơ
bản
47
2.2.3.
Các
chiến
lược
cạnh
tranh
cờa
VNPT
50
-2
-
2.3 ĐÁNH GIÁ
HOẠT ĐỘNG
MARKETING
Ở
VNPT
55
2.3.1.
Những
kết
quả
đạt
được
55
2.3.2.
Những
vấn
đề
tồn
tại
58
Chương 3 - NHỮNG GIẢI PHÁP TẢNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG MARKETING
DỊCH VỤ
VIỄN THÔNG
Ở VNPT
NHẰM
ĐÁP
ỨNG
YÊU
CẨU
HỘI
NHẬP
KINH
TE
QUỐC
TÊ
61
3.
Ì
ĐỊNH
HƯỚNG VỀ
PHÁT
TRIỂN
DỊCH
v
VIỄN
THÔNG
Ở
VIỆT
NAM
61
3.1.1
Định
hướng
chung
61
3.1.2 Định
hướng
của
VNPT
66
3.2
GIẢI
PHÁP
NHẰM
NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG CA HOẠT ĐỘNG
MARKETING
DỊCH
v
VIỄN
THÔNG
CỦA
VNPT
71
3.2.
Ì
Nhóm
giải
pháp
tầm
vi
mô-doanh
nghiệp
71
3.2.2
Giải
pháp mang
tầm
vĩ
mô
- các
cơ
quan
quản
lý
78
KẾT LUẬN 82
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 84
-3
-
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp
thiết
của
đề tài
Trong
tiến
trình phát
triển
và
hội
nhập
kinh tế
quốc
tế, việc
phát
triển
và hoàn
thiện
những
ngành,
lĩnh
vực chủ
chốt
của một
quốc
gia
là
điều
kiện
cơ bản đầu tiên để đáp
ứng
yêu cầu
hội
nhập.
Viễn
thông là một
trong
số
những
ngành
đó.
Thị trường
dịch
vụ
viễn
thông ớ
Việt
Nam đang phát
triển
sôi động nhờ sự
chuyển
mình
từ
độc
quyền sang
cạnh
tranh
theo
xu
thế
chung
của
thời
đại.
Trong
quá trình
cạnh
tranh, với
đặc thù là
một
ngành
dịch
vụ công
nghệ
cao,
các nhà
khai
thác
dịch
vụ
viễn
thông cần có
những
chiến
lược
kinh
doanh
phù hợp. Để làm được
điều
này thì
phải
đẩy
mạnh
công tác
marketing
dịch
vụ
viễn
thông và
coi
đó là
nhiệm
vụ hàng đầu có ý
nghĩa sống
còn
với
doanh
nghiệp.
Chính vì vậy mà
việc
đưa
ra những
lý
luận
và
giải
pháp
thực
tế
cho các
hoạt
động
marketing
dịch
vụ
viễn
thông là
điều
cấp
thiết
trong
bối cảnh
hiện
nay vì
mục tiêu
cạnh
tranh,
lợi
nhuận
và
hội
nhập.
Đó
cũng
chính là lý do mà
tôi
đã
chọn
đề
tài:
"Marketing
các
dịch
vụ
viễn thông
tại
Tổng Công
ty
Bưu chính
Viễn
thông
Việt
Nam nhằm đáp ứng
yêu
cầu
hội
nhập
kinh
tế quốc
tê ".
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến
hiện giờ,
vẫn chưa có tác
giả
nào đi sâu nghiên cứu về
marketing
dịch
vụ
viễn
thông ớ
Tổng
Công
ty
Bưu chính
viễn
thông
Việt
Nam và đưa
ra
những
giải
pháp
mang
tính khả
thi
và phù hợp
với
tình hình
kinh
doanh dịch
vụ
viễn
thông trên
thị
trường
Việt
Nam nhằm đáp ứng yêu cầu
hội nhập
kinh
tế quốc
tế.
Vì vậy mà có
thể khẳng
định
rằng,
đề
tài
này là hoàn toàn mới và được nghiên cứu một cách độc
lập.
3. Mục đích nghiên cứu
+ Nghiên cứu và hệ
thống
hoa lý
luận
ve
nghiệp
vụ
marketing
dịch
vụ
viễn
thông cho
các
doanh
nghiệp
kinh
doanh dịch
vụ này
trong
cơ
chế
thị
trường.
+ Nghiên cứu để
thấy
được
vai
trò của
marketing
dịch
vụ
viễn
thông
đối với
các
doanh
nghiệp
kinh
doanh dịch
vụ này
trong
cơ
chế
thị
trường.
+ Đánh giá đúng
thực
trạng
hoạt
động
kinh
doanh dịch
vụ
viễn
thông
tại
VNPT
để tìm
ra giải
pháp hoàn
thiện,
phát
triển
công tác
marketing
dịch
vụ
viễn
thông nhằm tăng
cường
khả năng
cạnh
tranh
và đáp ứng yêu
cầu
hội
nhập
kinh tế
quốc
tế.
-4-
4,
Nhiệm
vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu và tìm
hiểu
cụ
thể
về các khái
niệm
marketing
dịch
vụ và
marketing
dịch
vụ
viễn
thông.
+ Nghiên cứu
những
chủ trương, chính sách của
Đảng,
Nhà
nước,
các cơ
quan
hữu
quan
về
chiến
lược phát
triển
viễn
thông
trong
giai
đoạn
hiện
nay.
+ Tim
hiểu vai
trò của
Marketing
dịch
vụ
viễn
thông
đối với việc
tăng
cường
khả năng
cạnh
tranh trong kinh
doanh
viễn
thông nói
chung
và ở
Việt
Nam nói riêng.
+ Tìm
hiểu
các
biện
pháp đưa
marketing
dịch
vụ
viễn
thông một cách
triệt
để và khả
thi
vào
doanh
nghiệp
viễn
thông.
Trên cơ sở đó đưa
ra
hệ
thống
giải
pháp có tính khả
thi
nhầm đưa
marketing
dịch
vụ
viễn
thông
trở
thành công cụ đắc
lực
cho
doanh
nghiệp
viễn
thông
trong
tiến
trình nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh,
đáp ứng yêu
cầu hội
nhập
kinh tế
quốc
tế.
5.
Đôi
tượng
và phạm
vi
nghiên cứu
+ Những vấn đề lý
luận
chung
về
marketing
dịch
vụ và
marketing
dịch
vụ
viễn
thông
trong
cơ
chế thị
trường
+
Hoạt
động
marketing
dịch
vụ
viễn
thông
tại
VNPT.
+
Thời
gian
nghiên
cứu:
Chỉ
tập trung
vào các năm
từ
2000-2004
6.
Phương pháp nghiên cứu
Sử
dụng
phép duy
vật biện
chứng
và duy
vật lịch
sử của chủ
nghĩa
Mác-Lênin. Các
phương pháp nghiên cứu
kinh tế
đặc trưng như phương pháp nghiên cứu
tổng
hợp,
phương pháp so
sánh,
thống
kê,
và các phương pháp nghiên cứu
kinh tế
khác.
7. Kết
câu của
luận
vãn
Ngoài
phần
mở đầu và
kết luận,
danh
mục tài
liệu
tham
khảo,
kết
cấu của
luận
văn
được
chia
làm 3 chương:
Chương Ì: Một số vấn đề lý
luận
chung
về
Marketing
dịch
vụ
viễn
thông
Chương 2:
Thực
trạng
hoạt
động
marketing
dịch
vụ
viễn
thông tại
tổng
công ty bưu
chính
viễn
thông
Việt
Nam
trong
giai
đoạn
từ
năm
2000
-2004
-5-
Chương
3:
Những
giải
pháp tăng
cường
hoạt
động
marketing
dịch vụ
viễn
thông
ở
VNPT
nhằm
đáp ứng yêu cầu
hội
nhập
kinh
tế
quốc tế
Kết luận
-6-
Chương Ì
-
MỘT số VẤN ĐỂ LÝ
LUẬN
CHUNG
VE
MARKETING
DỊCH
VỤ VIỄN THÔNG
l. Ì KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRUNG VỀ MARKETING DỊCH vụ
LIA Khái
niệm
Marketing
là một
triết
lý
kinh
doanh
được thâm
nhập
vào
Việt
Nam chỉ
trong
gần 2
thập
kỷ
trở
lại
đây. Thông thường
khi
nói đến
marketing,
người ta
sẽ
nghĩ ngay
đến
việc
làm
thế
nào để tiêu
thụ
hàng hoa và
thu
được
tiền
về cho
người
bán. Tuy nhiên,
tiêu
thụ
chỉ
là một khâu
trong
các
hoạt
động của
marketing,
mà hơn
nữa,
đó
lại
không
phải
là khâu
quan
trọng
nhựt.
Theo
quan
điểm
hiện
đại
thì
"Marketing
là làm
việc
với
thị
trường để
thực
hiện
các
cuộc
trao
đổi với
mục đích
thoa
mãn
những
nhu cầu và
mong muốn của con
người"
[12, TY.
17].
Nhu cầu và mong muốn của con
người
đây
chính là về hàng hoa và
dịch
vụ để
thu
được một
tiện
ích
nhựt
định.
Marketing
dịch
vụ
ế
cũng
được
coi
là một
phần
rựt
quan
trọng
của
marketing
nói
chung
bởi
vì
trong
thời
đại
ngày
nay,
marketing
dịch
vụ và
marketing
hàng hoa có xu hướng đồng
nhựt
và bổ
trợ
lẫn
nhau.
Hàng hoa luôn được đi kèm cùng
dịch
vụ và đôi lúc khó có
thể
phân
biệt
được. Trong
hầu
hết
các ngành sản
xuựt
kinh
doanh, người
ta
không
chỉ
đơn
thuần
bán
hàng hoa mà còn bao gồm
trong
đó cả
dịch
vụ đi kèm. Hơn
nữa,
có
rựt
nhiều
ngành sản
xuựt
kinh
doanh
lại
có
đối
tượng
kinh
doanh
chính là
dịch
vụ như: Bưu chính,
Viễn
thông,
Giao
thông vận
tải,
du
lịch,
y
tế
Chính vì vậy mà
việc
đưa
ra
một khái
niệm
đúng đắn về
marketing
dịch
vụ để có
thể
vận
dụng
trong
sản
xuựt
kinh
doanh
là
điều
rựt
cần
thiết.
Marketing
dịch
vụ được
hiểu
là "Một
dạng
hoạt
động của con
người
(bao
gồm cả
tổ chức)
nhằm
thoa
mãn
tốt
nhựt
các nhu cầu và mong muốn về một
dịch
vụ
nào đó thông qua
trao
đổi"
[17].
Như
vậy,
về cơ
bản, marketing
dịch
vụ và
marketing
hàng hoa đều nhằm
thoa
mãn
tốt
nhựt
nhu cầu và mong muốn của con
người
nhưng
marketing
dịch
vụ sẽ có
những
đặc thù riêng có so
với marketing
hàng hoa.
1.1.2 Đạc trưng
Như đã nêu ở
trên,
marketing
dịch
vụ và
marketing
hàng hoa về cơ bản thường có xu
hướng
đồng
nhựt, tuy
nhiên,
có
những
sự khác
biệt
chính
giữa
chúng,
mà nguyên nhân
cơ bản của sự khác
biệt
này chính là vì hàng hoa và
dịch
vụ có
những
điểm
khác
biệt.
-7-
Sự khác
biệt
giữa
hàng hoa và
dịch
vụ
thể
hiện
ở 4
điểm
sau đây: Tính vô
hình,
tính
không
thể
chia
tách,
tính
thiếu
ổn định và tính không
thể
dự
trữ.
Dịch
vụ là vô
hình.
Hầu
hết
các
dịch
vụ đều không
thể
sờ mó
hoặc
sử
dụng
trước
khi
mua, cho nên khách hàng khó có
thể
đánh giá được về
chất
lượng
dịch
vụ trước
khi
sử
dụng nó.
Dịch vụ
cũng
không
thể
được
kiểm
tra,
trưng bày
hoặc
bao
gói.
Về độ
rải
ro
thì rõ ràng
đối với
khách hàng,
việc
mua một
dịch
vụ sẽ không an toàn
bằng
mua một
hàng
hoa.
Đây
cũng
chính là một
cản
trở
lớn
cảa
trao
đổi
dịch
vụ mà
marketing
dịch
vụ
cần
chú
trọng.
Dịch
vụ là không
chia
tách
được.
Dịch vụ được sản
xuất
và tiêu dùng cùng một lúc.
Hàng hoa có
thể
được sản
xuất
và tiêu dùng
rất
lâu sau
đó,
còn
dịch
vụ thì không
thể.
Khi
dịch
vụ
ra đời cũng
là lúc nó được sử
dụng
và chấm
dứt
vòng
đời
cảa mình
khi
người
tiêu dùng ngưng sử
dụng
nó.
Dịch
vụ có tính
thiếu
ổn
định.
Đối
với
khách
hàng,
dịch
vụ và
người
cung
cấp
dịch
vụ
là
một. Chất
lượng cảa
dịch
vụ phụ
thuộc
vào các yếu
tố
nằm ngoài sự
kiểm
soát cảa
nhà
cung
cấp
dịch
vụ và đôi
khi
còn phụ
thuộc
vào
trạng
thái cảa
người
thực
hiện
dịch
vụ.
Ví dụ như một nhân viên
dịch
vụ nếu gặp
phải
chuyện
không
vui,
hay sức
khoe
không
tốt
thì
chắc chắn
sẽ khó có
thể thực
hiện tốt
công
việc
phục
vụ khách hàng cảa
mình.
Không
thể
dự
trữ
được
dịch
vụ.
Thông thường sẽ có một cơ sở hạ
tầng
nhất
định được
thiết
kế để
cung
cấp
dịch
vụ
tại
bất
kỳ
thời
điểm
nào,
nhưng
dịch
vụ đã
sản
xuất ra phải
tiêu dùng luôn mà không
thể
dự
trữ
được.
Cái có
thể
dự
trữ
chỉ là các công cụ và
phương
tiện
sản
sinh
ra dịch
vụ mà
thôi.
Trong
một số ngành như du
lịch,
giao
thông
vận
tải,
viễn
thông
thì
thời
lượng mà
dịch
vụ không bán được có
nghĩa
là nó
bị
thất
thu.
Không
giống
như hàng
hoa,
nếu sản
xuất ra
chưa bán được
ngay
thì vẫn có
thể
lưu kho
để tiêu
thụ
sau.
Chính vì vậy mà marketing dịch vụ có những nét đặc trưng sau:
+
Việc thoa
mãn nhu cầu cảa con
người
về một
dịch
vụ sẽ khó khăn hơn do khó khăn
trong việc
mô
tả
mặt hàng được
trao
đổi
và
việc
thẩm
định
chất
lượng cảa
dịch
vụ -
do dịch
vụ là hàng hoa vô hình. Chính vì
vậy, marketing
dịch
vụ sẽ
phải
sử
dụng
các công cụ xúc
tiến
và mô
tả
đặc
biệt
hơn để đưa mặt hàng
tới
tay
người
sử
dụng.
-8-
+
Marketing
dịch
vụ sẽ chú
trọng
rất
lớn
đến yếu
tố
tâm lý của nhân viên làm
dịch
vụ
để đảm bảo
chất
lượng
dịch
vụ.
+
Marketing
dịch
vụ sẽ nhằm chủ yếu vào
việc
tiêu
thụ
dịch
vụ và hạn
chế
tối
đa tình
trạng
dịch
vụ không được
cung cấp.
+ Dịch vụ thường có tính
thời
vụ cao nên
marketing
dịch
vụ sẽ
phải
luôn chú tâm đến
vấn
đề này.
+ Do
dịch
vụ không có bản
quyền
như hàng hoa nên
việc
bảo vệ "bản
quyền"
cho nó
là điều
không
thể,
bởi vậy,
để có
thể
đổng
vững
trong
cạnh
tranh,
marketing
dịch
vụ
sẽ
cần liên
tục
đưa
ra
các
chiến
lược
đổi
mới cho mặt hàng của mình.
Trên đây là
những
nét đặc trưng của
marketing
dịch
vụ so
với marketing
hàng hoa hữu
hình.
Còn về cơ
bản, marketing
dịch
vụ và
marketing
hàng hoa đều có
những
đặc trưng
của marketing
nói
chung.
Ì .2 MARKETING DỊCH vụ VIỄN THÔNG
1.2.1
Đặc
điểm
kinh
doanh dịch
vụ
viễn
thông
1.2.1.1 Lịch
sử hình thành ngành
viễn
thông trên
thế
giới
Có
thể
nói
viễn
thông là một ngành có
lịch
sử phát
triển
tương
đối ngắn
so
với
các
ngành
thuộc lĩnh
vực cơ sở hạ
tầng
khác.
Nơi
khởi
nguồn
của ngành
viễn
thông là nước
Mỹ. Vào ngày
07/03/1876,
Chính phủ Mỹ đã
cấp bằng
sáng
chế
số
174465 chổng nhận
loại
điện
thoại
có đầy đủ các
chổc
năng cho nhà
khoa
học
Alexander
Graham Ben.
Đây là phát
minh
đầu tiên
thể hiện
các đặc tính của "bổc
điện
âm
thanh" (chuyển
âm
thanh
qua đường
điện
báo) và nó đã
trở
thành một nền
tảng
của ngành công
nghiệp
viễn
thông,
một
trong
những
ngành có
tốc
độ phát
triển
nhanh
chóng và góp
phần
làm
thay
đổi lớn lao
cách
thổc
người
ta giao
tiếp,
liên
lạc
trên phạm
vi
toàn
thế
giới.
Sau đó,
nhà
khoa
học
A.G.Bell
đã hợp tác cùng đồng sự của mình là Thomas A.Watson
kiếm
sống bằng
cách
tổ
chổc
các
buổi
trình
diễn
điện
thoại
tại
những
nơi mà
nhiều
người
sẵn
sàng
trả tiền
để được
nghe
âm
nhạc
qua
điện
thoại
từ
phòng này
sang
phòng
khác.
Họ
đã
thu
được
những khoản
lợi
nhuận
rất
lớn
và vào năm
1877,
Công
ty Viễn
thông
Bell
đã được thành
lập.
Đây là công
ty
viễn
thông đầu tiên
lớn nhất
của Mỹ, có
tốc
độ phát
triển
mạnh
mẽ và
kiểm
soát một
thị
phần
lớn
của
ngành
viễn
thông nước này.
Nội dung
-9-
kinh
doanh
chính của
tập
đoàn là
thị
trường
điện
thoại nội
hạt
và sản
xuất
các
thiết
bị
viễn
thông. Tuy
nhiên,
ngay
sau
khi
Bell
ra
đời,
nhờ có
bằng
sáng
chế điện
thoại
của
Thomas
Edison,
Western Union
đã
ra đời
và
trở
thành
đối thủ nặng
ký của
Bell.
Tập
đoàn này
kinh
doanh dịch
vụ
điện
báo
với
mạng
lưới
rộng
rãi trên phạm
vi
toàn nước
Mỷ. Vào năm 1885, Công ty
Điện
báo-Điện
thoại
Mỷ
(AT&T)
xuất
hiện
trên thị
trường
viễn
thông Mỷ để
cung
cấp
dịch
vụ
điện
thoại
cho toàn nước này. Và vào
những
năm
giữa
của
thế
kỷ
20,
tất
cả các
quốc
gia
trên
thế
giới
đã có các công
ty
Viễn
thông
kinh
doanh
các
mảng
dịch
vụ đa
dạng
để đáp ứng yêu cầu của khách
hàng.
Tuy nhiên,
phần lớn
các công
ty
viễn
thông đều sử
dụng
các
quan
hệ đặc
biệt
với
Chính phủ để
giúp họ
hoạt
động mà không
phải
lo
ngại
về vấn đề
cạnh
tranh.
Ngày
nay,
các công
ty
viễn
thống
trên toàn cầu đang
thay
đổi nhanh
chóng. Chính phủ các nước
cũng
đang
xem xét
lại
việc
phá bỏ độc
quyền
và
thực
hiện phi
điều
tiết
đối với
ngành công
nghiệp
này.
Nguyên nhân chủ yếu là
vì
họ đều
nhận
thấy
rằng
một
thị
trường
viễn
thông
mang
tính
cạnh
tranh
cao
sẽ
đáp ứng
tốt
hơn nhu cầu
của
dân chúng và
của
nền
kinh tế
so
với
một
thị
trường độc
quyền,
mà
điều
này đã được
chứng minh
qua
thực
tế
hàng mấy
chục
năm
trời
phát
triển
của ngành
viễn
thông.
Trong
những
năm gần
đây,
ngành
viễn
thông
của
các
quốc
gia
trên
thế
giới
vẫn liên
tục
đổi
mới các
lĩnh
vực
hoạt
động
dịch
vụ và
công
nghệ
để đáp ứng
với
xu
hướng
phát
triển
của
thế
giới.
Các công
ty
viễn
thông
ngày càng
trở
nên
lớn
mạnh
và đang
bắt
đầu
vượt
qua biên
giới
các
quốc gia
theo
những
cách mà trước đây
người
ta
chưa
từng
nghĩ
tới.
Ngày
nay, người
ta
có
thể
nhận
thấy
các
hoạt
động tư nhãn hoa và
hiện
đại
hoa các công
ty
viễn
thông trên toàn
thế
giới
như
hội
nhập,
thôn tính và sự hợp tác của các công
ty
viễn
thông
từ
một cực này
của thế
giới
đến một cực
khác.
Như
vậy,
cũng
giống
như các ngành công
nghiệp
khác
trong
ngành
viễn
thông luôn có
cạnh
tranh
và
cũng
một
phần
nào đó vẫn
tồn
tại
độc
quyền,
tuy
nhiên,
chủ yếu
là
độc
quyền
từng
phần
[19].
1.2.1.2 Đặc
điểm
của
kinh
doanh dịch
vụ
viễn
thông
Có
thể
nói, dịch
vụ
viễn
thông chính là sản phẩm mà các công
ty viễn
thông bán cho
khách
hàng.
về cơ
bản,
sản
phẩm
viễn
thông được
chia ra
làm 3 nhóm chính:
+ Dịch vụ
đường
dài:
Dịch vụ
điện
thoại
từ
một khu vực này
tới
khu vực khác khu
vực
ở đây có
thể hiểu trong
phạm
vi
một
quận, huyện,
hay một lãnh
thổ
một châu
lục.
- 10-
+ Dịch vụ vô
tuyến:
Bao gồm các
dịch
vụ
mạng
vô
tuyến tế
bào,
vệ
tinh,
mạng
vi
ba,
dịch
vụ
truyền
thông cá nhân PCS
-
(Personal
Communicaíion
Service)
và các hình
thức truyền
thông vô
tuyến
khác.
+ Dịch vụ hữu
tuyến:
Bao gồm các
dịch
vụ
mạng
hữu
tuyến truyền thống, ra đời
sớm
hơn
dịch
vụ vô
tuyến,
thường là thông qua
những
tuyến
cáp đồng
xoắn đôi,
kết
nối
từ
khu vực của khách hàng
tới
những
đầu
cuối
xa
hoặc
với
các
tấng
đài
trung
tâm
(tấng
đài đầu
tiên).
Gần đây, công
nghệ
truyền
dẫn hữu
tuyến
đã được
thực hiện
qua
hệ
thống
cáp
quang,
có
dung
lượng
rất
lớn với
ưu
điểm
về
chi
phí đầu tư.
Mạng
lưới
điện
thoại
được
coi
là sản phẩm
kinh
doanh
thiết
yếu của
tất
cả các công
ty
viễn
thông.
Nó được
thiết
lập
dựa trên
hai
yếu
tố
cơ
bản:
Tấng đài và các
thiết
bị
truyền
dẫn.
Ngoài
ra,
về
chi
tiết,
có
thể
kể đến một số
loại
hình sản phẩm -
dịch
vụ của công
ty
viễn
thông như:
+ Dịch vụ
điện
thoại
nội
hạt
+ Dịch vụ
điện
thoại
đường dài
+ Dịch vụ
điện
thoại
vô
tuyến
+ Dịch vụ
truyền
số
liệu
(cho hai đối
tượng:
Doanh
nghiệp
và hộ tiêu dùng)
+ Dịch vụ
HOST
Internet
-
Máy chủ
Intemet
+ Dịch vụ
tin
nhắn
+ ISDN
(Integrated
services
digital
network) -
mạng
số liên
kết
đa
dịch
vụ và các
dịch
vụ
trực
tuyến
khác
[19].
Về cơ
bản,
viễn
thông có
thể
coi
là một ngành độc
quyền,
chính xác hơn là bán độc
quyền
và
việc
kinh
doanh dịch
vụ
viễn
thông
cũng
có
những
đặc
điểm
riêng
biệt.
Có lý
do
để chính phủ các nước duy
trì phần
nào đó độc
quyền
cho ngành này mà chủ yếu là
vì
chi
phí cơ sở hạ
tầng
quá
lớn
đối
với
tầm cỡ của một công
ty.
Chi phí để
thiết
lập
một
mạng
lưới Viễn
thông
quốc
gia
là
rất
lớn
và nhìn
chung những
chi
phí này
lớn
hơn
rất
nhiều
khoản
lợi
nhuận
mà một công
ty
có
thể
kỳ
vọng đạt
được
trong
kế
hoạch ngắn
hạn
hay
trung
hạn.
Trước
khi
tiến
hành
kinh
doanh dịch
vụ
viễn
thông, các công ty
phải
được cấp
quyền
và phép
truy
cập hữu
tuyến
tới
từng gia
đình,
doanh
nghiệp
và các
tấ
chức
chính phủ hay
phi
chính phủ
trong
phạm
vi
một
quốc
gia. Tiếp
đến họ
phải
xây
dựng
nút
điểm,
các
tuyến
truyền
dẫn để
truyền
tải
lưu
lượng.
Sau đó
là
thiết
lập
các
tổng
đài,
phải
có nhân viên
khai
thác và
rất
nhiều
loại
cơ sở hạ
tầng
và một
loạt
các
dịch
vụ hỗ
trợ
khác.
Ngoài
ra,
vì mục tiêu phát
triển
chung của
toàn
quễc
gia, việc
xây
dựng
một
mạng
lưới
viễn
thông liên
lạc
cho toàn
đất
nước là
điều
không
thể
không làm. Tuy
nhiên,
trong
một quễc
gia,
bên
cạnh những
đô
thị kinh tế
phát
triển
sôi
động,
mức
sễng
và
thu
nhập
cao
với
khả năng
chi trả lớn
thì
còn không
ít
vùng
sâu,
vùng xa hẻo lánh chưa được đô
thị
hoa,
dần cư thưa
thớt
và
kinh tế
còn kém phát
triển.
Chắc
chắn
các công
ty
sẽ chỉ
tập trung
đầu tư vào
những
vùng
trọng
điểm
vì mục tiêu
lợi
nhuận
được
đặt
lên hàng
đầu
và không
dại
gì mà
kinh
doanh
tại
những
nơi hẻo lánh như
vậy.
Chỉ có Chính phủ
mới
có
thể
đứng
ra
đảm
nhiệm
việc
này vì mục tiêu đầu tiên là phát
triển
chung
và
chấp
nhận
lỗ trong
một
thời
gian
không
ngắn.
Việc
duy
trì
độc
quyền
ở một mức độ nào đó
trong
ngành
viễn
thông đang được
điều
chỉnh
để
chuyển sang cạnh
tranh.
Tuy nhiên mức độ ở mỗi nước một khác và còn
tuy
thuộc
vào chính sách của mỗi
quễc
gia
cũng
như
điều
kiện
thực
tế
tại
từng
nước.
Tuy
nhiên,
nhìn
chung,
kinh
doanh
viễn
thông có
những
đặc
điểm
cơ bản như
sau:
Chi
phí đầu tư cơ bản
lớn:
Như đã trình bày ở
trên,
chi
phí đầu tư ban đầu để xây
dựng
mạng
viễn
thông là
rất lớn,
vì vậy mà các công
ty viễn
thông đều
phải
có
tiềm lực
tài
chính
rất
mạnh. Trên
thực
tế,
các công
ty viễn
thông
cũng
có
thể
thừa
hưởng
mạng
cơ
sở
hạ
tầng
sẵn có được xây
dựng bởi
ngân sách chính
phủ.
Tuy nhiên,
tuy
thuộc
vào
đặc
điểm
của
từng
lĩnh
vực
kinh
doanh
viễn
thông và đặc
điểm
của
từng
loại
hình
dịch
vụ,
đặc
biệt
là các
dịch
vụ mang tính
chất
là sản phẩm
chiến
lược của công
ty
mà các
tập
đoàn sẽ
phải
tự
đầu tư cho
mạng
riêng của mình. Ngoài
ra,
nguồn
đầu tư còn
tập
trung
vào các
thiết
bị kỹ
thuật,
hệ
thễng
tổng
đài,
các
trung
tâm
điều
khiển
kỹ
thuật
và
đầu
tư cho nghiên cứu và phát
triển
(R&D)
Giá
trị
của vễn đầu tư cơ bản
rất
lớn
ngoài
ra,
hàng năm
cũng
cần có đầu tư bổ
sung
để nâng cấp và hoàn
chỉnh
lại
toàn bộ
hệ
thễng
mạng.
Là ngành công
nghệ
cao nên
kinh
doanh
viễn
thông luôn đòi
hỏi
yếu
tễ
công
nghệ
là
hàng
đầu.
Công
nghệ
chính là nhân
tễ
đóng
vai
trò
quyết
định
tới
sự thành
bại
của sản
phẩm
viễn
thông.
Công
nghệ
viễn
thông luôn
thay đổi
và
buộc
các nhà
kinh
doanh dịch
vụ phải
luôn đón đầu và ứng
dụng
công
nghệ
mới
nhất
cho sản phẩm của mình.
Việc
- 12-
luôn nghiên
cứu,
phát
triển
và ứng
dụng
công
nghệ
tiên
tiến
cũng
đòi
hỏi
những khoản
đầu
tư
lớn
và thường xuyên để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, đặc
biệt
là
thoa
mãn tâm lý luôn chuông cái mới và
hiện đại
của
khách hàng.
c.
Mặc dù ngành
viễn
thông đang
trong
quá trình
chuyển đổi
từ địc
quyền sang cạnh
tranh
nhưng mức đị
cạnh
tranh trong
ngành đã ở mức
cao.
Chính vì vậy mà
kinh
doanh
dịch
vụ
viễn
thông luôn yêu cầu các
doanh
nghiệp
đề
ra
các
chiến
lược
cạnh
tranh
toàn
diện,
tổng
thể
và phù
họp,
liên
tục đổi
mới các
chiến
lược này để
đối
phó
với
các
đối
thủ.
Trong
viễn
thông có mịt
điều
thú
vị
là mặc dù
cuịc
chiến giữa
các
đối thủ
có
thể
rất
gay go
khốc
liệt
để giành
giật
khách hàng và
thị
phần,
nhưng
lại
luôn có sự
cịng
tác và liên
kết lẫn
nhau
thõng qua
việc
liên
kết
và liên thông mạng. Nguyên nhân là do
đặc
điểm
cơ bản của các
dịch
vụ
viễn
thông chính là
giao
tiếp
và liên
lạc
nên cần có sự
kết
nối
giữa
các
mạng
lưới
mới có
thể
thực
hiện
được
dịch
vụ này. Còn nếu
doanh
nghiệp
chỉ
cho phép liên
lạc trong
mạng
của mình thì
chắc chắn
sẽ có
rất
ít
thuê bao
hoặc thậm
chí không có thuê bao nào do nhu cầu liên
lạc
và
giao
tiếp
của con
người
là
không hạn
chế về
thời
gian,
không
gian
và
đối
tượng.
d.
Là mịt ngành
dịch
vụ nên yếu
tố
con
người
đóng
vai
trò
rất
quan
trọng khi
tiến
hành
kinh
doanh
viễn
thông. Có
thể
nói
tất
cả các
dịch
vụ
viển
thông
khi cung
cấp cho
khách hàng đều
phải
qua khâu
phục
vụ
của
nhân viên công
ty.
Chất
lượng
phục
vụ của
nhân viên đóng
vai
trò
rất
quan
trọng đối với việc kinh
doanh
của mịt công
ty.
Điều
này
lại
phụ
thuịc
rất
nhiều
vào yếu
tố
tâm
lý.
Tâm lý của nhân viên
phục
vụ
rất
đa
dạng
và
theo
nhiều
cung
bậc khác
nhau,
có lúc
vui,
lúc
buồn,
lúc
hứng
khởi
và lúc
bi
quan,
tuy
thuịc
vào tình
trạng
sức
khoe,
tâm
trạng
hay hoàn
cảnh
của
từng
cá nhân và
không
ai
giống
ai.
Nếu nhân viên có tâm lý
tốt
thì
chắc chắn
thái đị
phục
vụ và
tốc
đị
phục
vụ
sẽ
tốt
và đảm
bảo.
Ngược
lại,
sẽ ảnh
hưởng
đến uy tín và thương
hiệu
của
công
ty
và gây ấn
tượng
xấu cho khách
hàng.
Chính vì
vậy, kinh
doanh
viễn
thông luôn chú
trọng
đến yếu
tố
con
người,
đặc
biệt
là
tâm
trạng
và
thái
đị
phục
vụ.
1.2.2
Marketing
dịch
vụ
viễn
thông
1.2.2.1 Vai
trò
Có
thể
nói
marketing
dịch
vụ
viễn
thông mới
thực
sự
trở
nên được
coi trọng trong
thời
gian
gần
đây,
nhờ
chuyển
cơ
chế
từ
địc
quyền sang cạnh
tranh.
Việc
mở cửa ảnh
hưởng
đến
tất
cả
hoạt
địng sản
xuất
kinh
doanh
của ngành
viễn
thông,
đặc
biệt
và trước
hết
là
- 13 -
marketing.
Trước đây, thành công của các nhà
cung
cấp
dịch
vụ
viễn
thông phụ
thuộc
vào các yếu
tố
như
vốn,
quan
hệ
với
các cơ
quan quản
lý
viễn
thông và các nhóm
đại
diện
cho khách
hàng
chứ
không
phải
là
marketing.
Các công
ty
viễn
thông thường duy
trì chính sách
kinh
doanh
là
cung
cấp
dịch
vụ duy
nhất
với
chất
lượng
ổn
định.
Marketing
ban đầu chủ yếu có
chức
năng
trợ
giúp
quan
hệ
đối ngoại
liên
quan
đến quá
trình
quản
lý,
ý
niệm
về công
ty
và các nhóm
đại
diện
cho khách
hàng.
Tuy
nhiên,
trong
bối
cảnh cạnh
tranh
gia
tăng như
hiện
nay,
marketing
đã
thữc
sữ
trở
thành vấn đề
sống
còn
của
các nhà
cung cấp dịch
vụ
viễn
thông.
Có
thể
nói,
marketing
cung
cấp nhãn
quan
về
nhu cầu khách hàng cho các nhà
khai
thác
mạng
viễn
thông.
Trong
các công
ty
viễn
thông,
những
người
làm công tác
marketing phải
cộng
tác
chặt
chẽ
với
các bộ
phận điều
hành
kinh
doanh
để
đạt
được các mục tiêu cần
thiết.
Họ
cũng
phải
cộng
tác
với
các nhà
kỹ
thuật
và
lập
kế
hoạch
để đảm bảo mục tiêu
doanh
thu
phù hợp
với
công
suất
dữ
kiến.
Ngoài
ra,
các chuyên
gia marketing
còn
phải
tham khảo
các chuyên
gia
tài
chính để đưa
ra
các mức giá cước và tính toán
chi
phí để đảm bảo có lãi. Như
vậy, vai
trò của
marketing
về cơ
bản
đối với hoạt
động
kinh
doanh
viễn
thông sẽ là:
+ Giúp
doanh
nghiệp
viễn
thông xác định khách hàng có nhu cầu
lớn
nhất
về sản
phẩm
của doanh
nghiệp.
+ Giúp
doanh
nghiệp trả
lời
câu
hỏi:
Làm
thế
nào để
tiếp
cận và
phục
vụ được các
nhóm khách hàng này.
+ Đưa
ra
các
chiến
lược
kinh
doanh
giúp
doanh
nghiệp trở
nên hấp dẫn hơn
những
công
ty
đang
hiện diện
khác.
+ Giúp
doanh
nghiệp
phát
hiện
và
tận
dụng
thời
cơ, giảm
thiểu
và phòng
ngừa
rủi
ro
có
thể
xảy
ra.
+ Và
cuối
cùng là giúp
doanh
nghiệp
tối
đa hoa
lợi
nhuận
[19].
1.2.2.2
Nội dung
Về cơ
bản,
giống
như
trong
các ngành khác,
marketing
dịch
vụ
viễn
thông chính là
phân tích
tất
cả các yếu
tố
đầu vào khác
nhau
nhưng có
chung
một
điểm
là ảnh
hưởng
tới
công
ty
viễn
thông và
chuyển
nó thành nguyên
liệu
để xây
dững
và
thữc
hiện
các
chiến
lược
marketing.
- 14-
Hệ
thống
Marketing
được ứng
dụng
trong
đa số các công
ty Viễn
thông bao gồm một
vài
chức
năng có liên
quan
đến
những
công
việc
chính
sau:
+ Nghiên cứu
thị
trường để phát
hiện
và
thực hiện
các đơn
đặt
hàng,
cung
ứng sản
phẩm mủi.
+ Phát
triển
nhận
thức
về khả năng
sinh
lời
và mở
rộng
thị
trường của dòng sản phẩm
hiện
có.
+ Quản lý mối
quan
hệ
giữa
khách hàng và công
ty
bao gồm các
chiến
lược và
hoạt
động
đồng
thời
giữa
các bộ
phận
khách hàng, bán hàng,
quảng
cáo, tín
dụng
và
thanh
toán để
đạt
được các mục tiêu
Marketing.
+ Phát
triển
và
thực hiện
các
chiến
lược đã được xây
dựng
để
thực hiện
các mục tiêu
định
tính cụ
thể
có liên
quan
đến
thị
phần,
các tính năng của sản phẩm, khả năng
sinh
lợi
hoặc
thâm
nhập
thị
trường.
+ Nhận
thức
vị
thế
cạnh
tranh
hiện
tại
của công
ty
và đưa
ra
các xu hưủng tương
lai,
các định hưủng và các mục tiêu
trong
tương
lai
dựa trên các cơ sở phân tích.
Như
vậy, nhất
thiết
bộ
phận
Marketing của
các công
ty
viễn
thông
phải
tiến
hành công
việc
nghiên cứu
thị
trường
bằng
nhiều
hình
thức
như
điều
tra,
thu thập
thông
tin
bên
ngoài về khách hàng, sản phẩm,
thị
phần
của công
ty; tiếp
đó là phân tích cơ bản các
thông
tin
thu
được để phát
hiện
thời
cơ,
rủi ro,
thế
mạnh,
điểm
yếu của
doanh
nghiệp,
làm cơ sở cho bưủc
cuối
cùng là đưa
ra
các chính sách và
chiến
lược
kinh
doanh
phù
hợp
nhằm
đạt
được các mục tiêu
của
doanh
nghiệp.
+ Quy
trình Marketing:
Để có
thể
đưa
ra chiến
lược
kinh
doanh
một cách
khoa
học và
sát
thực,
các công
ty
viễn
thông không
thể
không xây
dựng
một quy trình
Marketing.
Quy trình
Marketing
chính là công cụ để các công
ty
viễn
thông có
thể
sử
dụng
nhằm
giải
quyết
tất
cả các vấn đề
tồn
tại
nhằm làm
xoay
chuyển
tình
thế
của công
ty theo
chiều
hưủng đi lên và
tốt
lên. về bản
chất,
quy trình
Marketing
cũng
chính là một
trong
những
chiến
lược
quan
trọng
giúp cho
hoạt
động
kinh
doanh
của công
ty
phát
triển.
Nội
dung
của
quy trình
Marketing
chủ yếu bao gồm
những
vấn đề
sau:
+
Phải
xác định được
hoạt
động đầu tiên của các bộ
phận
Marketing
của các công
ty
viễn
thông là xây
dựng
và
thực hiện
các
chiến
lược
- 15-
+ Các
chiến
lược được xây
dựng
theo
thông
tin
mà
những
nhân viên
Marketing
tập
hợp
được
từ
các
nguồn
khác
nhau,
các
chiến
lược này tác động đến toàn bộ
doanh
nghiệp
và có cái nhìn sâu vào nhu
cầu
khách hàng.
+ Dựa trên đầu vào như
vậy, tổ
chức
Marketing
xác định rõ
những
quyết
định
tối
un
về
sắp xếp
thị
trường, thông
điệp,
phương
tiện
truyền
thông và
lợi
nhuận
để các
chiến
lược có
hiệu
quạ
nhất tuy theo đối
tượng.
Về cách
thức tổ
chức
một quy trình
Marketing
tiêu
biểu
có
thể
được phân
chia
thành
các bước hay
giai
đoạn chính
sau
đây:
Bước
1:
Xác định mục tiêu và mức độ un
tiên:
Quá trình này
quyết
định
tập
trung
vào
những
vấn
đề gì và xây
dựng
lực
lượng để
thực hiện
mục tiêu đã
vạch
ra.
Bước
2:
Mô hình
hoa:
Quá trình
thực hiện
phân
đoạn,
đánh giá và các hình
thức
phân
tích khác để giúp
Marketing quyết
định nên
triển
khai chiến
lược nào.
Bước
3:
Triển
khai chiến
lược:
Quá trình
lựa
chọn
xây
dựng
và
chuẩn
bị các thông điệp
và phương
tiện
truyền
thống
để
truyền
bá
tới
khách hàng,
cũng
như là
thực
hiện
các
kiểm
nghiệm
để đánh giá các giạ định của
những
nhân viên
Marketing.
Bước
4: Thực
hiện chiến
lược,
kiểm
tra,
đánh
giá:
Quá trình
thực
sự
gửi
các thông điệp
qua
các phương
tiện
truyền
thông phù
hợp.
Chốt
lại
là
việc
kiểm
tra
toàn bộ
việc
thực hiện
quy trình để đưa
ra
đánh giá về
những
mặt đã
thực hiện
được và
những
thiếu
sót cần
sửa
đổi,
bổ
sung
nhằm
đạt
được
hiệu
quạ
tối
ưu.
Marketing
và
việc
thực hiện
các
giai
đoạn khác
nhau
trong
toàn bộ quy trình thường
lặp
đi, lặp
lại,
luôn
thay đổi
và thường xuyên đánh giá
lại.
Quy trình này không
phại
là
một tập
hợp hay một hệ
thống
và không có
những
điểm
bắt
đầu và
kết
thúc
thực sự.
Để
phạn
ánh động thái này, có
thể
ví các
giai
đoạn khác
nhau
như các bánh
xe.
Vì mỗi
giai
đoạn
trong
quy trình phụ
thuộc
vào sự
phạn
hồi
và
những
thông
tin
phân tích từ
các
giai
đoạn khác
nhau.
Mỗi
giai
đoạn
lại
cung
cấp thông
tin
cho
giai
đoạn
tiếp
theo
và đồng
thời
cung
cấp thông
tin
cho
tất
cạ các
giai
đoạn khác.
Như chúng
ta
đã
biết,
một quy trình
Marketing phại
liên
quan
tới
nhiều
nguồn
thông
tin
khác
nhau
(thông
tin
đầu
vào,
thông
tin
phạn
hồi
và thông
tin
thúc
đẩy).
Trong
thực
tế,
đa số các công
ty
viễn
thông có quá
nhiều
nguồn
thông
tin
khác
nhau
với
mục tiêu
- 16-
đôi lúc
đối lập
và có
thể
gây khó khăn cho
việc
kiểm
soát và
thực
thi
quy
trình.
Chính
vì vậy
mà
cần
có
thao
tác "xác định mục tiêu và mức độ ưu tiên" của
Marketing.
ữ. Xác
định
mục
tiêu
và mức độ ưu
tiên
Trước
tiên cần
phải
xác định các bước
quan
trọng
của kế
hoạch
Marketing.
Các bước
này bao gồm xác định nhà tài
trễ,
xây
dựng
kế
hoạch,
thành
lập
nhóm, xác định các
mục tiêu và
nhận
định các
giới
hạn.
+ Xác định nhà tài
trễ:
Bất kỳ
hoạt
động
Marketing
nào của các công
ty
viễn
thông
cũng
cần một nhà tài
trễ,
để giúp cho các
hoạt
động
Marketing
đưễc
tiến triển
tốt.
Chính vì
vậy,
cần xác định đưễc nhà
tài
trễ,
bởi
họ là
người
thực
sự có tác động
lớn
đến
kế
hoạch
đề
ra của
công
ty.
+ Xây
dựng
dự
án:
Một
khi
nhà
tài
trễ
quyết
định cần làm một
việc
gì
đó,
người
này
phải
thực
hiện
mô
tả
vấn đề
hoặc
mục tiêu và
chuẩn
bị tài chính. Nếu nhà
tài trễ
là
người
quản
lý của bộ
phận
Marketing thì
việc
xây
dựng
kế
hoạch
cụ
thể
có
thể
gồm
nhiều thủ tục
hơn chứ không
chỉ
là
gửi
các báo cáo
tới
các nhân viên
Marketing
để
điều
tra
thêm. Nếu nhà tài
trễ
ở
trong
ban
quản
lý cấp
cao,
kế
hoạch
sẽ đưễc phân
bổ
ngân quỹ và đưễc sử
dụng
cho
đại
lý
quảng
cáo.
+ Xây
dựng
nhóm dự
án: Tiếp theo,
nhà
tài trễ
sẽ thành
lập
một nhóm
người
để
điều
tra
nhiều
vụ
việc.
Lực lưễng này có
thể
gồm
những
người
của công
ty,
của bộ
phận
Marketing,
hệ
thống
máy tính và
những
người
ngoài công
ty.
+ Xác định mục
tiêu:
Một
trong
những
công
việc
đầu tiên của
lực
lưễng này là xác
định
chính
thức
các mục tiêu của dự án và
chuyển
những
mục tiêu này thành các
thuật
ngữ hữu hình. Ví
dụ,
các mục tiêu của
chiến
lưễc
Marketing
đưễc
biểu hiện
bằng
các
thuật
ngữ dòng sản phẩm (các
dịch
vụ
hoặc
sản phẩm
trong
đó),
đoạn
thị
trường
(nhóm khách hàng đưễc
tiếp
cận)
và hệ
thống
thước đo
(doanh
thu, lễi
nhuận
hoặc
thị
phần).
Nhà
tài
trễ
thường
chỉ
có một thông báo
chung
là nhóm dự án
cần đạt
đưễc cái gì và trách
nhiệm
là chính
thức
hoa các mục tiêu để
thực
hiện
có
hiệu
quả.
+ Xác định các
giới
hạn:
Một công
việc
quan
trọng
khác của
lực
lưễng dự án là xác
định
các
giới
hạn.
Các
giới
hạn về ngân
quỹ,
quản
lý và khả năng ảnh hưởng đến
các
giải
pháp mà
lực
lưễng có
thể
sử
dụng.
Mô
hình
hoa
Khi
nhóm dự án đã được thành
lập,
các yếu
tố tài
chính và các mục tiêu được xác định
rõ
ràng,
thì nhóm dự án sẽ
chuyển
từ
quá trình xác định mục tiêu và mức độ ưu tiên
sang
quá trình mỏ hình
hoa.
Mô hình hoa là đề
nghị
cách
thức thực
hiện
để
đạt
được
các mục tiêu của nhà
tài
trợ
và các tính toán
chỉ ra
rằng
giấi
pháp được đề
nghị
là hợp
lý và khấ
thi.
Mục tiêu của
việc
mô hình hoa là
triển
khai
một kế
hoạch
hoặc
một
loạt
kế
hoạch
để
đạt
được mục
tiêu.
Quá trình mô hình hoa là quá trình sử
dụng
rất nhiều
hệ
thống
phân
tích.
Công
việc
phân tích
Marketing
có
thể
được sử
dụng
rất
nhiều
hình
thức.
Một số hình
thức
phân tích chính có
thể
là như
sau:
+ Phân
đoạn:
Là hình
thức
phân tích
Marketing
phổ
biến
nhất.
Chức năng chính của
nó
là
phân tích các đặc
điểm
của
khách hàng và hành
vi
của họ để giúp
những
nhân
viên
Marketing
hiểu
và dự đoán được hành động của
họ.
Phân
đoạn
là quá trình đầu
tiên
trong
giai
đoạn
thử
nghiệm.
+ Cho
điểm:
Cho
điểm
là quá trình xếp
hạng
và phân
loại
các khách hàng
theo
mức
độ họ sẽ ứng xử
trong
ngữ
cấnh
nhất
định
hoặc
mức độ
thấp
cao của họ
với
tất
cấ
khách hàng khác
trong
những
điều
kiện
cụ
thể.
Cho
điểm
thường được sử
dụng
rộng
rãi
trong
các
hoạt
động
Marketing
trực
tiếp.
Nó
cũng
có
thể
được sử
dụng
để xác
định
giá
trị
tổng thể
của khách hàng
hoặc
cho
biết
hiệu
quấ
kinh
tế
về
rủi
ro
(điểm
tín
nhiệm)
hoặc
rủi
ro
không
trung
thực
(điểm
không
trung thực).
+ Các phân tích sấn phẩm và khấ năng
sinh
lợi:
Bên
cạnh
phân
đoạn
thị
trường,
phân
tích sấn phẩm
viễn
thông và khấ năng
sinh
lợi
sẽ đưa
ra
cái nhìn bên
trong
vào bấn
chất
cua các
sấn
phẩm và
dịch
vụ mà công
ty
cung
cấp.
+ Mô hình hoa đơn
giấn
và
kết hợp:
Trong
quá trình mô hình
hoa,
mục tiêu là
tạo ra
quan
điểm
rõ
rệt
về khách hàng và khách hàng
triển
vọng,
giúp xác định mức độ
hiệu
quấ mà một
chiến
lược cụ
thể sẽ đạt
được.
Tuy
nhiên,
có
rất
nhiều
loại
mô hình
và thường gây ra
lộn xộn,
nhầm
lẫn.
Để có
thể
phân
chia
các
loại
mô hình khác
nhau,
có
thể
tách riêng chúng thành các hình
thức
đơn
giấn
và
kết
hợp.
Mô hỉnh đơn giản đề cập
tới
phương pháp
giấi
quyết
toán
học,
độc
lập,
riêng rẽ xác
định
một khía
cạnh
cụ
thể
hành
vi
khách hàng
hoặc
sấn phẩm
hoặc
bất
kỳ hình
thức
quan
sát
riêng
rẽ nào.
ị
T w
f
V
*
F M
"ì
Mô
hình
kết
hợp mô
tả
những
mô hình đơn
giản
được
tập
hợp
lại.
Ví
dụ, giả
sử chúng
ta
có
thể
xây
dựng
một mô hình đơn
giản
cho
biết
về các khách hàng ở các nhóm
tuổi
khác
nhau phản
ứng như
thế
nào
với
cùng một
quảng
cáo. Sau đó, chúng
ta
lại
xây
dựng
tiếp
một mô hình đơn
giản
khác cho
biết
các khách hàng có mức
thu nhập
khác
nhau phản
ứng như
thế
nào
với
cùng một
quảng cáo.
Nếu
kết
hợp cả
hai
mô hình đơn
giản
này
thì
mô hình
kết
hợp
lớn
hơn sẽ
cung
cấp cho chúng
ta nhiều
thông
tin
hơn mô
hình riêng
rẽ
trên.
Người
lập
mô hình:
Đễi
với
những người
không
thực hiện lập
mô hình thì một
trong
những điều
khó nắm
bắt
và dễ gây
trở ngại
tới
quá trình mô hình hoa là cễ
gắng giữ
đúng
hướng
đi của
những người
lập
mô hình vì họ
phải
đi qua quá
nhiều
bước
trong
quy
trình.
Quá trình mô hình hoa là cực kỳ
phức
tạp,
đòi
hỏi
sáng
tạo
và
người
lập
mô
hình cần liên hệ
với rất nhiều
mục
tiêu,
hàng trăm các
điều
kiện
hạn
chế
và hàng nghìn
các
biến
sễ
khi
thiết
lập
và phát
triển
một mô hình
tễi
ưu
đễi với
một tình
huễng
cụ
thể
đã
cho.
Thậm
chí
quan
trọng
hơn,
hiệu
quả của các mô hình được
tạo
ra phụ
thuộc
không nhỏ vào sự
nhạy
bén và sự
tinh
tường
đễi
với kinh
doanh
của
người điều
hành
mô
hình.
Do
vậy, vai
trò của
người
lập
mô hình
trong
bộ
phận
Marketing viễn
thông là
một
trong
những người
có
vai
trò
quan
trọng
sễng
còn và
phải
là
những người
có tính
quyết
đoán.
Triển khai chiến lược Marketing
Có
thể
nói,
mặc dù có
rất nhiều
chức
năng và các bước
thao
tác kể
trên,
nhưng công
việc
chính của bộ
phận
Marketing
chính là xây
dựng
và
thực hiện
các
chiến
lược
Marketing.
Để
mô
tả
và
thực
thi
một
chiến
lược
marketing,
cần xác định "5M"
+ Sản phẩm
(Merchandise):
Các sản phẩm mà công
ty viễn
thông
cung
cấp cho khách
hàng
+ Thị trường
(Market):
Nhóm khách hàng mà
chiến
lược
hướng
tới
+ Bản
tin
quảng
cáo
(Message):
Các bản
tin
quảng
cáo sẽ được phân phát cho khách
hàng
+ Phương
tiện
(Media):
Các bản
tin
quảng
cáo
sẽ
được phân phát
bằng
cách nào.
+
Lợi
nhuận
(Margin):
Giá
cung
cấp
(tuy
chọn)
- 19-
Để đặt tất
cả
nhũng
nhân
tố
trên vào một
chiến
lược,
nhân viên
Marketing
phải
đưa
ra
các ý
tưởng,
những
lời
giải
thích hợp lý và thường là các "mô hình" giúp phân định
những
lựa
chọn
các mục tiêu
theo
đuổi
khác
nhau
về
những
mục tiêu cụ
thể
của công
ty.
d. Thực
hiện chiến lược,
kiểm
tra,
đánh
giát
Khi
giai
đoện
mỏ hình hoa đã hoàn
tất
và có
quyết
định mô hình nào được sử
dụng,
công
việc
Marketing
sẽ do
những
người
triển
khai chiến
lược
thực
hiện
theo
các bước
sau:
Bước
1:
Hoàn
tất
thông điệp và phương
tiện
truyền
thông: Lựa
chọn
và ấn định các
thông điệp và phương
tiện
truyền
thông
Bước
2: Lựa
chọn
thông điệp và
thoa
thuận:
Chọn các
tổ
chức
hoặc
cá nhân cụ
thể
để
phân phát các thông điệp và
thỏa
thuận
chi
phí cho
việc
phân phát
(những
thay
đổi
này phụ
thuộc
vào phương
tiện
truyền
thông được
lựa
chọn-truyền
thanh,
truyền
hình, thư
trực
tiếp,
qua
điện
thoệi
).
Lựa
chọn
phương
tiện
truyền
thông thường
chịu
ảnh hưởng chủ yếu
bởi
các yếu
tố
khung
thời
gian
có liên
quan,
tới
thông điệp
hoặc
các mục tiêu.
Bước
3: Cho
điểm
các mục tiêu
triển
vọng
và
danh
sách:
Khi
thực
hiện
các
chiến
lược
Marketing,
một
trong
những
công
việc
chính của
người
triển
khai chiến
lược
là lựa
chọn
danh
mục các khách hàng mục tiêu và
quyết
định
những
người
nào
trong
danh
sách
sẽ
được
tập trung.
Bước
4:
Kiểm
tra việc
triển
khai,
thực
hiện chiến
lược,
tổng
kết,
đánh giá
những
điểm
được
và
tồn
tệi
để rút
kinh
nghiệm
cho
những
chiến
lược
tiếp
theo.
Về cơ
bản,
triển
khai bất
kỳ
chiến
lược nào của công
ty viễn
thông
cũng
đều cần có sự
phối
hợp
giữa
các
chiến
lược khác nhằm phát huy được
tất
cả
thế
mệnh
và
tiềm
năng
của
công
ty
mà có
thể
được
gọi
chung
là "Tài
sản" của
một công
ty viễn
thông.
Tài sản
của
một công
ty viễn
thông sẽ bao gồm
tài
sản doanh
nghiệp:
Con
người
và
thiết
bị để
tiến
hành
hoệt
động sản
xuất
kinh
doanh.
Tài sản
Marketing:
Nhóm khách hàng, mức
độ tiêu dùng và thái độ khách hàng
đối với
công
ty.
Tài sản mạng
lưới:
Là trái
tim
và
linh
hồn để
tệo
nên công
ty viễn
thông,
đó chính là
mệng
lưới
viễn
thông của các công
ty
viển
thông,
cũng
giống
như ngân hàng có
tiền
tệ
và các công
ty
sản
xuất
có nhà
-20-
máy
Mạng
lưới
chính là
thứ
để phân
biệt
công
ty
Viễn
thông
với
các công
ty cạnh
tranh
và
là
tiêu
chuẩn
để xác định các công
ty
có
thể
làm gì và làm như
thế
nào?
Chiến
lược
Marketing
của công
ty
viễn
thông
có
thể
trong
ngắn hoặc
dài
và
trung
hạn
tuy
thuộc
vào dòng sản phẩm, tình hình
thị
trường
và
từng
phân
đoạn
thị
trường
cũng
như
mỜc
tiêu
của
công
ty.
Thông
thường,
các
chiến
lược sẽ nhằm vào
sản
phẩm, giá cả,
công
nghệ
nhằm
mỜc
tiêu
cạnh
tranh
[17],
[19].
1.3 MỐI QUAN HỆ HỮU cơ GIỮA MARKETING DỊCH vụ VIÊN THÔNG VÀ sự
TẢNG
CƯỜNG KHẢ
NĂNG
CẠNH TRANH (CỦA
DOANH
NGHIỆP,
SẢN
PHẨM, QUỐC
GIA)
1.3.1 Tình hình
cạnh
tranh trong
dịch
vỜ
viễn
thông
Cạnh
tranh
là một
trong
những
đặc trưng cơ bản
của
kinh
tế
thị
trường,
và
cũng
là động
lực
thúc đẩy phát
triển
và
tăng
trưởng.
Trong
một
nền
kinh
tế
thị
trường,
cạnh
tranh
luôn là sự
sống
còn của mỗi
doanh
nghiệp.
Cạnh
tranh
được
hiểu
là sự
ganh
đua
giữa
các
doanh
nghiệp
trong việc
dành một nhân
tố
sản
xuất
hay khách hàng nhằm nâng cao
vị thế
của
mình trên
thị
trường nhằm
đạt
được
mỜc
tiêu
kinh
doanh
cỜ
thể.
Cạnh
tranh
nói
chung
và
cạnh
tranh trong
thị
trường
dịch
vỜ
viễn
thông nói
riêng
là
vấn
đề
thu
hút sự
quan
tâm
trong
nhiều
năm
qua.
Có
thể
nói,
người
ta
đã
có
nhiều
cố
gắng
để đưa
ra
các tiêu
thức
đánh giá một
thị
trường
viễn
thông
đã
thực
sự
cạnh
tranh
chưa,
nhưng
điều
này
đôi lúc không
phải
dễ dàng. Theo thông
lệ,
một
thị
trường được
gọi
là
cạnh
tranh
khi
không
có
một nhà
cung
cấp
dịch
vỜ nào
có
thị
phần
chiếm
quá nửa quy
mô
thị
trường.
Nếu
theo
tiêu
chuẩn này,
tất
cả các
thị
trường
dịch
vỜ
viễn
thông
(trừ
thị
trường
dịch
vỜ
nội hạt)
đều là
cạnh
tranh
nếu
xem
xét
tổng
thể.
Nhưng nếu xét
từ
góc
độ đơn
lẻ từng
mảng
dịch
vỜ thì chưa
có
thị
trường nào là hoàn toàn
cạnh
tranh
cả,
kể
cả
ở
nhũng
nước có chính sách
khuyến
khích
cạnh
tranh
cao
độ
nhất.
1.3.1.1
Cạnh
tranh
trên
thế
giới
Trên
thế
giới,
việc
chuyển
đổi từ
độc
quyền sang cạnh
tranh
về
dịch
vỜ
viễn
thông mới
chỉ diễn ra thực
sự
bắt
đầu
từ
những
năm
80 của
thế
kỷ
20.
Trước
đó,
chủ yếu các
dịch
vỜ
viễn
thông vẫn
thuộc
các
công
ty
hay
tập
đoàn độc
quyền cung cấp.
Nguyên nhân
cơ bản là vì ngành
viễn
thông là ngành
có
tỷ
lệ chi
phí cố định
rất lớn.
Một số các
bộ
-21
-
phận
của nó mang tính độc
quyền
tự
nhiên về mặt công
nghệ.
Và nếu
chừng
nào chúng
chỉ
do một
hoặc
một số
ít
các nhà sản
xuất
tạo
ra,
các bộ
phận
này
trở
thành
những
nút
cổ
chai đối với
các nhà
khai
thác
khác,
những ngưịi
cần
phải
truy
nhập
để có
thể
cạnh
tranh.
Tuy nhiên, không
phải
nhà
khai
thác
dịch
vụ
viễn
thông nào
cũng
có
thể
đảm
bảo
hiệu
quả
khi
tham
gia
truy
nhập
mạng.
Cạnh
tranh
về
dịch
vụ
viễn
thông ở các nước
diễn ra
cũng
rất
khác
nhau. Tại
Mỹ,
cạnh
tranh diễn ra
khá gay
gắt
trên
thị
trưịng
dịch
vụ đưịng
dài.
Khởi
đầu là
việc
tập
đoàn
truyền
thông Mỹ
AT&T
bán công
ty
con Ben vào năm
1984, ngay
sau
đó,
tập
đoàn này
đã đánh mất 30%
thị
phần
đưịng dài của mình và
tới
năm
1997,
thị
phần
của
tập
đoàn
giảm
mạnh
từ 68,3%
xuống
còn có 40%. Vào lúc bấy
giị,
thị
trưịng
dịch
vụ
viễn
thông Mỹ
chịu sự
phân
phối
độc
quyền của
3 nhà
cung
cấp,
AT&T,
Sprint
và MCI. Tuy
nhiên,
các khách hàng mà
AT&T
để mất
lại
không sử
dụng dịch
vụ của 2
đối
thủ cạnh
tranh kia
mà
chuyển sang
các nhà
khai
thác
dịch
vụ
mới, những ngưịi
không có hệ
thống
thiết
bị nhưng
lại giỏi
marketing
và
thị
phần
của họ tăng đáng kể
trong
thịi
kỳ
này.
Trong
thịi
kỳ này, ngành công
nghiệp
viễn
thông của Mỹ có
tốc
độ
tảng
trưởng
rất
cao về
lĩnh
vực vô
tuyến
với
tốc
độ hàng nằm là
khoảng
50% nhị có sự
tham gia
vào
thị
trưịng của các công ty sử
dụng dịch
vụ thông
tin
cá nhân
(PCS-Personal
Communications
Service)
và các công
nghệ
vô
tuyến
khác đồng
thịi
với
làn sóng
giảm
giá và các
tiến
bộ công
nghệ
khác như kỹ
thuật số.,
đã
tạo điều
kiện
cho khách
hàng
lựa chọn dịch
vụ của
nhiều
nhà
cung
cấp khác
nhau.
Một bước
ngoặt
lớn
đánh
dấu
sự phát
triển
cao độ về
cạnh
tranh
và chính sách
khuyến
khích
cạnh
tranh
của
chính phủ Mỹ là
luật
Viễn
thông Mỹ năm
1996.
Múc tiêu chủ yêu
của
Luầt
Viễn
thông
này là nhằm cho phép
tạo ra
các công
ty
có
thể
cung
cấp một
mạng
lưới
rộng
lớn
các
dịch
vụ bổ
trợ
như đưịng
dài, nội
hạt,
PCS, đa phương
tiện
và
Internet
Luật
cũng
nhằm
khuyến
khích
cạnh
tranh
ở
thị
trưịng
nội
hạt
và
cũng
sẽ cho phép các nhà
khai
thác
trong
phạm
vi
một khu vực được thâm
nhập
thị
trưịng đưịng dài một
khi
đã có
"cạnh
tranh
ở mức độ tương
đối"
ở
thị
trưịng
nội hạt.
Như
vậy, trọng
tâm của
Luật
là
tạo
ra cạnh
tranh
bằng
cái
gọi
là Các nhà
khai
thác
nội
hạt cạnh
tranh
(CLecs)
để
loại
trừ
khả năng của
những
nhà
khai
thác
nội
hạt
chủ đạo
(ILecs) trong việc
sử
dụng
độc
quyền
"nút cổ
chai"
để ngăn
cản cạnh
tranh
ở các
mảng
thị
trưịng bổ
sung.
Còn
tại
Anh,
cạnh
tranh diễn
ra
với
phong
trào tư nhân
hoa.
Anh là nước tiên
phong
trong việc
bán tài sản Nhà nước vào
những
năm
80.
Cùng
với
các ngành vốn trước là
-22-
độc quyền
như khí
đốt,
điện, nước,
ngành
viễn
thông đã được tư nhân hoa ở
tốc
độ
rất
nhanh
chóng và
tạo
một mức
doanh thu
là 51 tỷ
bảng
Anh,
chiếm
tới
8% GDP nước
này. Các nước châu Au
khác,
đặc
biệt
là Pháp và Ý đã dần dần đi
theo
con đường của
Anh,
tư nhân hoa
nhiều
công
ty
nhà
nước,
mặc dù các công
ty
khai
thác
viễn
thông của
hể
vẫn là sở hữu công
cộng.
Các nước đang phát
triển
cũng
đã chú
trểng
đến tư nhân
hoa,
tuy
nhiên
tốc
độ không sánh
bằng
với
những
nước tiên
tiến
hơn.
Tại Nhật
Bản,
một
nước châu
á, cạnh
tranh bắt
đầu
với việc
tung
bán cổ
phiếu
của nhà
cung
cấp
dịch
vụ viễn
thông
khổng
lồ
sở hữu Nhà nước NTT năm
1987.
Còn
tại
Nam
Phi,
Chính phủ
nước
này đã thông qua
việc
bán
tới
30% cổ
phần
của công
ty
khai
thác
thuộc
sở hữu
nhà nước
Telkom
với khối
lượng
tiền
dự tính là 1,5
tỷ
USD.
Đồng
thời,
chính phủ đã
cho
thành
lập
một cơ
quan quản
lý để giúp cho
việc tạo
điều
kiện
cho các công
ty
mới
phát
triển
cũng
như
quản
lý sự phát
triển
đồng bộ của ngành này. Quốc
gia
này đã mở
cửa
và cho phép các
đối
tác dự
thầu
như
Deutsche Telekom
(Đức),
France
Télécom
(Pháp), Telecom
Malaysia
và SBC.
Về cơ
bản,
cạnh
tranh trong
ngành
viễn
thông trên
thế
giới
có
những
đặc
điểm
chung
như
sau:
+ Tăng
tốc
độ
tự
do hoa
+ Tăng cường áp
lực
cạnh
tranh
giữa
các nhà
cung
cấp
+ Phân
chia
sản
phẩm và
dịch
vụ
+ Quản lý
chi
phí
+ Quốc
tế
hoa
+ Khả năng
sinh
lợi
từ
độc quyền giảm
Xét riêng về
thị
trường
cạnh
tranh,
sẽ
có đặc
điểm
chính
sau:
+ Sự
gia
tăng của
sản
phẩm
+ Sự phân
mảng
thị
trường
+ Áp
lực
cao
đối với
phát
minh
sáng chế
+ Rất
nhiều
sản
phẩm và
dịch
vụ
+
Bắt
đầu sáp
nhập
-23
-
+ Toàn
cầu
hoa
Tốc
độ
tự
do hoa và phát
triển
cạnh
tranh
ở các nước thường là 10-15 năm,
tuy
thuộc
vào đặc
điểm
của
từng
nước như chính
sách,
chủ trương của chính
phủ,
địa
lý,
và các
yếu tố
khác
[14],
[17],
[19].
1.3.
Ì
.2
Cạnh
tranh
tại
Việt
Nam
Trước
xu
thế
toàn cầu hoa và
cạnh
tranh
cao độ trên
thị
trường
thế
giới,
ngành
viễn
thông của
Việt
Nam đã tích cực
thực
hiện
chính sách mở cửa để nhấm dần xoa bỏ độc
quyền
trên
nhiều lĩnh
vực,
đặc
biệt
là ngành
viễn
thông. Cạnh
tranh
đã
bắt
đầu
xuất
hiện trong
lĩnh
vực
khai
thác
kinh
doanh dịch
vụ
viễn
thông
trong
khoảng
thời
gian
không lâu (5 năm
trở
lại
đây),
nhưng
tốc
độ
rất
nhanh
chóng và khá thành công. Tại
Việt
Nam
hiện
có 6
doanh
nghiệp
đang
hoạt
động trên
thị
trường
viễn
thông là
Tổng
công
ty
Bưu chính
Viễn
thông
Việt
Nam
(VNPT),
Công
ty Viễn
thông
Điện
lực
(ETC),
Công
ty
Điện tử
Viễn
thông Quân
đội (VIETEL),
Công
ty
cổ
phần dịch
vụ Bùn chính
Viễn
thông Sài gòn
(Saigon
Postel),
Công
ty
Thông
tin
Điện tử
Hàng
hải
(Vishipel)
và
Công
ty
Cổ
phần
Viễn
thông Hà
Nội
(Hanoi
Telecom).
Các công
ty
này đều đã được
cấp
phép khá đầy đủ các
loại
hình
dịch
vụ như cố định
nội
hạt,
đường
dài, di
động,
quốc
tế
nhưng
việc
triển
khai
cung
cấp các
loại
hình
dịch
vụ trên còn chưa đáng kể
và
thị
phần
lớn nhất
vẫn
thuộc
về VNPT-vốn trước đây là nhà
cung
cấp độc
quyền dịch
vụ
viễn
thông
tại
Việt
Nam và
thuộc
sở hữu Nhà
nước.
Các công
ty
mới
tham
gia
thị
trường
dịch
vụ
viễn
thông đang cố
gắng cung
cấp
mảng
dịch
vụ
điện
thoại
di
động và
điện
thoại
đường
dài, điện
thoại
quốc
tế.
Có
thể
nói,
đây là
những
mảng
dịch
vụ
viễn
thõng có độ co dãn của cầu
với
giá tương
đối
mạnh.
Các công
ty
này đã đưa ra
rất
nhiều
chính sách
giảm
giá và un đãi về
dịch
vụ,
các chính sách
khuyến
mại
nhấm
thu
hút khách hàng
cũng
như lôi kéo khách hàng từ
VNPT
về phía mình. Nhờ có
cạnh
tranh
mà đã
xuất
hiện
rất nhiều
nhà
khai
thác
dịch
vụ
viễn
thông
trong
và ngoài nước
tham
gia
vào một "sân
chơi"
của ngành
dịch
vụ có
lợi
nhuận
rất
lớn
này. Thị trường
Viễn
thông
Việt
Nam
cũng
đã mở cửa cho phép các nhà
khai
thác
dịch
vụ nước ngoài
vào
kinh
doanh. Điển
hình là
tập
đoàn Hoa Vĩ
(Trung
Quốc) chuyên
khai
thác
mảng
dịch
vụ giá
trị
gia
tăng và
tập
đoàn
S-Fone
là liên
doanh
giữa
Saigon
Postel
(SPT)
và
SLD-một
tập
đoàn
trụ
sở chính
tại
Singapore
bao gồm SK
Telecom
của Hàn Quốc LG
và Dong Ah Elecomm. SLD không có cổ
phần
trong
liên
doanh
này mà
chỉ
hoạt
động