Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

NGỘ ĐỘC THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC NGỦ ( SEDATIVES AND HYPNOTICS OVERDOSE ) NGỘ ĐỘC BARBITURIQUE pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.49 KB, 4 trang )

NGỘ ĐỘC THUỐC AN THẦN VÀ
THUỐC NGỦ
( SEDATIVES AND HYPNOTICS
OVERDOSE )
NGỘ ĐỘC BARBITURIQUE


Ngộ độc này đã trở nên ít thường xay ra hơn từ khi sự sử dụng benzodiazépines
đã thay thế rộng rãi sự sử dụng barbituriques. Phénobarbital vẫn còn được sử
dụng như thuốc chống động kinh cũng như trong vài dược chế.

Phải phân biệt các lớp barbituriques khác nhau tùy theo thời gian tác dụng của
chúng.

CƠ CHẾ HẤP THỤ

Sự hấp thụ bằng đường ruột trên nguyên tắc là nhanh, nhưng thật ra bị giới hạn
do tính hoà tan thấp trong môi trường axít. Những kết thạch (concrétions) có
thể được tạo thành trong dạ dày. Tính tan trong mỡ (liposolubilité) và nối
protéine (liaison protéique) giảm dần với thời gian tác dụng. Chuyển hóa gan
gần như hoàn toàn đối với các hợp chất có thời gian tác dụng ngắn và trung
bình. Sự chuyển hóa này chỉ 60-75% đối với những hợp chất có thời gian tác
dụng dài, một phần lớn được thải ra không thay đổi trong nước tiểu.

Độc tính của barbituriques được đặc trưng bởi một sự giảm áp sâu của hệ thần
kinh trung ương (dépression profonde du SNC), thường thường được kèm theo
bởi hạ thân nhiệt (hypothermie) và suy giảm hô hấp (dépression respiratoire).
Hạ huyết áp là do sự giãn mạch và giảm áp cơ tim (dépression myocardique).
Đôi khi người ta quan sát thấy các bỏng nước (phlyctènes), nhất là ở nơi những
vùng bị đè ép, nhưng cũng ở mặt mu của bàn tay và các ngón tay. Có thể có liệt
ruột (iléus). Một phù phổi do thương tổn (oedème pulmoanire lésionnel) không


phải là hiếm. Đối với các barbituriques có thời gian tác dụng trung bình và
ngắn, sự giảm áp thần kinh-hô hấp (dépression neurorespiratoire) và những rối
loạn huyết động xuất hiện rất nhanh.

Các biến chứng thường xảy ra : ứ tiết và bội nhiễm đường hô hấp, các thương
tổn do đè ép và chứng tan cơ vân (rhabdomyolyse). Điện tâm đồ có thể cho
thấy những thời kỳ im lặng điện (silence éléctrique).

ĐIỀU TRỊ

Điều trị chủ yếu là bảo tồn. Trong trường hợp uống số lượng lớn, phải loại bỏ
sự hiện diện của các bézoard dạ dày bằng nội soi. Trong những ngộ độc mức
độ trung bình các barbituriques có thời gian tác dụng kéo dài, ta có thể nhờ đến
sự bài niệu kiềm (diurèse alcaline) và cho những liều lượng lập lại than hoạt
hóa (doses répétées de charbon activé). Trong những trường hợp nặng, ta có thể
nhờ đến sự lọc ngoài thận (épuration extrarénale) (CVVH). Những kỹ thuật này
vô ích đối với những barbiturique có thời gian tác dụng ngắn hay trung bình.

NGỘ ĐỘC BENZODIAZEPINES

Đó là ngộ độc thuốc thường xảy ra nhất. Nói chung được công nhận là hiền
tính, tuy vậy ngộ độc benzodiazepine có thể có một tỷ lệ bệnh tật không phải là
không đáng kể, liên kết với những biến chứng của hôn mê (những biến chứng
hô hấp, hạ thân nhiệt, tan cơ vân) và với tính nhạy cảm đặc biệt đối với một vài
bệnh nhân (trẻ em, người già, bệnh phổi tắc mãn tính, xơ gan…).Các ngộ độc
nhẹ, đặc biệt khi trẻ em nuốt do tình cờ, cho những dấu hiệu say (signes
d’ébriété) như loạn vận ngôn (dysarthrie), thất điều, chóng mặt. Ngoài những
tác dụng thần kinh, benzodiazépine có thể góp phần làm suy giảm hô hấp hay
dẫn đến một tình trạng bất ổn huyết động. Nói chung, tiên lượng phần lớn được
liên kết với cac độc chất khác được uống vào đồng thời.


ĐIỀU TRỊ
.
Điều trị có tính chất bảo tồn. Phải dự kiến cho than hoạt hóa trong trường hợp
mới uống thuốc vào. Cho flumazénil (Anexate) thức bệnh nhân dậy (giá trị
chẩn đoán) hay điều chỉnh một tình trạng giảm áp hô hấp hay cải thiện tri giác,
và như thế làm nhẹ việc điều trị. Tuy nhiên chất giải độc này có một tác dụng
ngắn ngủi hơn nhiều so với phần lớn các benzodiazepine và do đó không biến
đổi thời gian tiến triển của ngộ độc : nó chỉ làm biến đổi biểu hiện lâm sàng.
Flumazénil phải được cho rất chậm theo kỹ thuật “chuẩn độ ” (titration) tác
dụng (0,2 mg tiêm tĩnh mạch rồi 0,1 mg mỗi 30-60 giây), để tránh một sự đánh
thức quá đột ngột và quá hoàn toàn. Lợi ích chính của flumazénil là chẩn đoán
nhanh tình trạng an thần do benzodiazépine và cải thiện các tình trạng hô hấp,
đôi khi cho phép tránh thông khí phổi và thông khí hỗ trợ.

Có một nguy cơ co giật trong trường hợp bệnh nhân vốn có bệnh động kinh,
nghiện mãn tính benzodiazépine hay uống đồng thời các thuốc làm dễ co giật
hay gây loạn nhịp (các thuốc chống trầm cảm, théophylline, hydrate de chloral,
solvants halogénés ).

NGỘ ĐỘC MEPROBAMATE

NHỮNG DẤU HIỆU LÂM SÀNG CỦA NGỘ ĐỘC.

Thuốc an thần này có thể gây nên những ngộ độc đáng sợ. Méprobamate gây
nên ngủ gà (somnolence), thất điều (ataxie), giảm trương luc cơ (hypotonie),
tiếp theo sau là hôn mê, đôi khi tăng trương lục (hypertonique), và hạ thân
nhiệt. Có thể có những thời kỳ im lặng của điện não đồ. Một giãn đồng tử
thường được quan sát. Sự suy giảm hô hấp có thể ít rõ rệt, nhưng những rối
loạn huyết động (tim nhịp nhanh, hạ huyết áp, lưu lượng tim thấp (bas-débit)

hay ngay cả choáng do tim) đôi khi nghiêm trọng, hậu quả của tình trạng liệt
mạch ngoại biên (vasoplégie périphérique), của sự suy giảm cơ tim (dépression
myocardique) và một thương tổn của sự điều hòa hành tủy.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị chủ yếu là bảo tồn (hỗ trợ thông khí, làm đầy huyết quản, inotropes và
các thuốc co mạch). Một cathéter phổi có ích để hướng dẫn điều trị trong
trường hợp bất ổn định huyết động.

Trong trường hợp uống vào với lượng lớn, sự tồn tại của bezoar dạ dày phải
được loại trừ bằng nội soi. Tính hữu ích của việc cho than hoạt hóa nhiều liều
còn gây tranh cãi. Hémoperfusion có thể được chỉ định trong những ngộ độc
nặng (nồng độ trong máu > 150 đến 200 mg/L).

×