Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Một số nét khái quát về chiến lược kinh tế, khoa học và công nghệ của Singapo để duy trì sức cạnh tranh toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.82 KB, 53 trang )


1













MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ CHIẾN
LƢỢC KINH TẾ, KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ CỦA SINGAPO ĐỂ DUY TRÌ SỨC
CẠNH TRANH TOÀN CẦU
























2


LỜI GIỚI THIỆU
Singapo, một đất nước nhỏ bé, nằm ở Đông Nam Á, cực Nam bán đảo
Mallacca (Malaixia) với diện tích 648 km
2
, không có đường biên giới đường bộ
với quốc gia nào. Từ một đất nước nhỏ hẹp, tài nguyên thiên nhiên hạn chế, với
dân số chỉ hơn 4 triệu người, nông nghiệp chiếm một vị trí nhỏ trong nền kinh
tế, chỉ tự túc được về gia cầm và trứng, còn lại phải nhập khẩu nhiều thực phẩm,
thậm chí cả nước ngọt, nhưng Singapo đã nhanh chóng vươn lên để có một số
ngành công nghiệp phát triển tốt như lọc dầu, điện tử, thiết bị khoan dầu, chế
biến cao su, chế biến thực phẩm và đồ giải khát, sửa chữa tàu biển, cho thuê kho
bãi và thu gom phân phối hàng, dịch vụ tài chính, công nghệ sinh học.
Một trong những bài học kinh nghiệm của Singapo là, để phát triển kinh tế
nhanh, bền vững cần phải có chiến lược, kế hoạch và quy hoạch, cả trước mắt và
lâu dài. Đặc biệt là chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ 10 đến 15 và 20 năm.
Trên cơ sở đó, để thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề ra, cần phải có các

giải pháp thực hiện một cách sát thực, cụ thể phù hợp với tình hình kinh tế-xã
hội của đất nước trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ.
Để giúp bạn đọc có thêm thông tin tham khảo. Trung tâm Thông tin KH&CN
Quốc gia biên soạn và xuất bản Tổng quan “MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ
CHIẾN LƢỢC KINH TẾ, KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA SINGAPO ĐỂ
DUY TRÌ SỨC CẠNH TRANH TOÀN CẦU”.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.



Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia


3

PHẦN I
KHÁI QUÁT CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA SINGAPO
TRONG GIAI ĐOẠN TĂNG TRƢỞNG MỚI


1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.1. Khái quát chiến lược phát triển kinh tế
Sự phát triển kinh tế là một quá trình nâng cấp liên tục, trong đó môi trường kinh
doanh của quốc gia tiến hóa và thúc đẩy các phương thức cạnh tranh ngày càng tinh
xảo và phong phú hơn. M.Porter, Nhà kinh tế học nổi tiếng, Giáo sư thỉnh giảng tại
trường Đại học Harvard, Mỹ, đã đưa ra một mô hình
(1)
như sau:







Nền kinh tế ở những giai đoạn tăng trưởng khác nhau đều đứng trước sự lựa chọn
con đường đi khác nhau. Đối với những nền kinh tế nào sẵn có nguồn tài nguyên thiên
nhiên, thì lúc đầu có thể áp dụng chiến lược tăng trưởng, trong đó lấy yếu tố sản xuất
làm động lực. Ở giai đoạn này, các yếu tố sản xuất cơ bản, chẳng hạn như lao động giá
rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, là nguồn chủ yếu để đem lại ưu thế
cạnh tranh cho quốc gia. Với chiến lược này, các doanh nghiệp nội địa sản xuất các
mặt hàng hoặc sản phẩm tương đối đơn giản do các nước tiên tiến thiết kế và cung cấp
công nghệ. Những công nghệ này được cung cấp thông qua đầu tư trực tiếp của nước
ngoài hoặc nhập khẩu tư liệu sản xuất và thiết bị. Nền kinh tế dựa vào yếu tố sản xuất
rất nhạy cảm với các chu kỳ kinh tế thế giới, xu hướng giá cả hàng hóa và sự biến
động của tỷ giá hối đoái.
Ở giai đoạn lấy đầu tư làm động lực tăng trưởng kinh tế, nguồn chủ yếu đem lại ưu
thế cạnh tranh là hiệu quả của ngành chế tạo và dịch vụ. Chiến lược tăng trưởng dựa
vào đầu tư chú trọng vào việc tiếp nhận công nghệ để nâng dần năng lực công nghệ,
cũng như tích luỹ nguồn vốn vật chất kỹ thuật và nhân lực. DeLong và Summer
(2)
đã
khảo sát dữ liệu của một số lượng lớn các nền kinh tế và thấy được mối liên quan chặt
chẽ giữa việc đầu tư vào thiết bị sản xuất với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn
phát triển kinh tế này có đặc trưng là sự đầu tư mạnh mẽ để nâng cao hiệu quả kết cấu
hạ tầng kinh doanh, cải thiện nền hành chính để tạo thuận lợi và thúc đẩy doanh
nghiệp, khuyến khích đầu tư mạnh và dễ tiếp cận với các nguồn vốn tài chính. Ở giai
đoạn này, các doanh nghiệp không chỉ hấp thụ và làm thích ứng công nghệ nước
ngoài, mà còn phát triển năng lực để cải tiến công nghệ đó.

Cuối cùng, ở giai đoạn lấy đổi mới làm động lực phát triển, nguồn chủ yếu để tạo ra
ưu thế cạnh tranh là năng lực đổi mới, thiết kế và sản xuất các sản phẩm và dịch vụ
mới ở những công nghệ mũi nhọn. Chiến lược này chú trọng đến khởi nghiệp kinh

(1) M. Porter, The Competitive Advantage of Nations, Macmilan, London, 1990
(
2
) B. De Long, L. H. Summers, Equipment Investment and Economic Growth, 1992
Nền kinh tế lấy
yếu tố kinh tế
làm động lực
Nền kinh tế lấy
đầu tư làm động
lực
Nền kinh tế lấy
đổi mới làm
động lực

4
doanh, sự sáng tạo công nghệ và phát triển nội lực. Các thể chế và khuyến khích được
tạo lập để hỗ trợ đổi mới và khởi nghiệp. ở giai đoạn tăng trưởng dựa vào đổi mới,
Chính phủ có thể đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích, thông qua sự tăng
cường đầu tư cho hoạt động R&D, hỗ trợ giáo dục đại học, thúc đẩy lĩnh vực kinh
doanh vốn mạo hiểm (Venture Capital) và điều chỉnh hệ thống pháp quy để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc mở ra các doanh nghiệp công nghệ cao.
Xét trường hợp Singapo, do đang cố gắng chuyển sang nền kinh tế dựa vào đổi mới,
vì thế Quốc gia này chú trọng nhiều hơn đến tri thức ở các ngành chế tạo mà mình đã
tiếp thu được và tìm cách thúc đẩy chúng. Singapo có thể phát triển được quá trình
chuyển dịch có tiềm năng đem lại gia trị gia tăng cao, từ sự định hướng trước đây vào
ngành sản xuất sang định hướng vào nghiên cứu cơ bản. Thiết kế và phát triển sản

phẩm có thể sẽ trở thành lĩnh vực có tiềm năng quan trọng đối với nền kinh tế dựa vào
đổi mới Singapo.

1.1.2. Kết cấu hạ tầng công nghệ và phát triển kinh tế.
Giữa công cuộc phát triển kinh tế và việc tạo ra các ưu thế cạnh tranh của quốc gia
rõ ràng là có mối liên quan mật thiết với nhau. Hơn thế nữa, việc chuyển dịch từ giai
đoạn tăng trưởng kinh tế này sang giai đoạn tăng trưởng kinh tế khác nhất thiết phải
thay đổi các thể chế và chính sách bao hàm những cơ chế khuyến khích đổi mới.
Những thay đổi này đòi hỏi phải điều chỉnh nhiều thể chế và chính sách phụ thuộc
nhau.
Đối với nền kinh tế dựa vào yếu tố sản xuất, chiến lược tăng trưởng bao gồm những
cấu phần trọng yếu như:
(1) Nâng cấp kết cấu hạ tầng (bao gồm các mạng cung cấp điện, truyền thông và
giao thông);
(2) Thiết lập một hệ thống luật pháp phù hợp;
(3) Dỡ bỏ các rào cản cạnh tranh (chẳng hạn như sự hạn chế thương mại và các chế
độ trợ cấp không hợp lý). Cơ sở này tạo điều kiện thuận lợi để chuyển sang nền kinh tế
dựa vào đầu tư. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đạt tới giới hạn của sự tăng trưởng dựa vào
đầu tư, thì sự cải thiện hiệu quả sản xuất không còn là điều kiện đủ nữa, mà tiềm năng
tăng trưởng kinh tế lớn nhất lúc này nằm trong việc đổi mới và sáng tạo ra các công
nghệ mũi nhọn.
Những nền kinh tế phát triển (chẳng hạn như Mỹ, Đức, Nhật Bản và các nước Bắc
Âu) đang áp dụng chiến lược tăng trưởng dựa vào đổi mới. Họ coi phần lớn sự thành
công kinh tế của họ là năng lực đổi mới và sáng tạo công nghệ. Năng lực đổi mới của
quốc gia phụ thuộc rất lớn và chất lượng của kết cấu hạ tầng công nghệ (chẳng hạn
như sự cung cấp các nhà khoa học và các kỹ sư, số lượng và chất lượng của các tổ
chức nghiên cứu), mức độ hỗ trợ của Chính phủ cho hoạt động nghiên cứu cơ bản, sự
cộng tác giữa các tổ chức nghiên cứu và trường đại học, sự phát triển của các nguồn
vốn mạo hiểm, cũng như chất lượng của môi trường kinh doanh (được phản ánh trong
hệ thống luật pháp).

Kết cấu hạ tầng công nghệ quốc gia là nhân tố quyết định then chốt đối với năng lực
đổi mới của quốc gia. Nó bao gồm hệ thống giáo dục, mạng lưới các tổ chức nghiên
cứu của Chính phủ, tư nhân và các hiệp hội khoa học, các thể chế pháp lý, chẳng hạn
như quyền sở hữu trí tuệ và các điều luật khuyến khích sự phát triển và trao đổi công
nghệ.
Mặc dù việc tạo lập môi trường thúc đẩy sự sáng tạo công nghệ đóng vai trò quan
trọng trong chiến lược tăng trưởng dựa vào đổi mới, nhưng mức độ gặt hái được lợi
ích của nó lại phụ thuộc không kém vào môi trường, trong đó có nền giáo dục chất

5
lượng cao đối với nguồn nhân lực, một khu vực tư nhân có nhu cầu lớn đối với các sản
phẩm công nghệ cao, kết cấu hạ tầng thông tin cho phép lưu thông và phổ biến tri thức
và thông tin.

1.1.3. Vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy tiến bộ công nghệ
Mặc dù sự đầu tư cho R&D là một nhân tố quan trọng để phát triển năng lực đổi
mới, nhưng hiệu quả của đổi mới còn phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện nhằm thúc
đẩy khởi nghiệp, phát triển tài năng kỹ thuật, các thị trường sản phẩm và vốn thực hiện
tốt chức năng. Sự khác biệt về môi trường kinh doanh đối với các doanh nhân khởi
nghiệp, chẳng hạn như khả năng tiếp cận với nguồn nhân lực và vốn mạo hiểm, mức
độ mà họ phải chịu đựng các quy định quản lý và các điều kiện kinh doanh có thể có
tác động đáng kể tới hiệu quả kinh tế và đổi mới.
Các chính sách và kết cấu hạ tầng mà khuyến khích sáng tạo và đổi mới công nghệ
bao gồm nguồn nhân lực, tài năng kỹ thuật, thể chế, biện pháp kích thích, phần cứng,
chính sách, và đầu tư. Kết hợp lại, chúng hình thành nên năng lực của quốc gia để tạo
lập và duy trì ưu thế cạnh tranh trong sáng tạo và đổi mới công nghệ. Ở thế kỷ XXI,
năng lực sáng tạo, phổ biến và khai thác tri thức đã trở thành nguồn chủ yếu của ưu thế
cạnh tranh, tạo ra của cải và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Nhìn chung, Chính phủ có 4 vai trò chính trong việc xây dựng chính sách KH&CN
và thúc đẩy sự sáng tạo và áp dụng công nghệ. Một là, Chính phủ có thể thúc đẩy hoạt

động nghiên cứu và phát triển (R&D), được liên kết chặt chẽ với khu vực giáo dục đại
học. Hai là, Chính phủ có thể trực tiếp, hoặc thông qua các cơ quan của mình, đầu tư
cho những lĩnh vực nghiên cứu mà khu vực tư nhân không thể thực hiện hiệu quả. Ba
là, Chính phủ cũng có thể giảm bớt phí tổn rủi ro bằng cách khuyến khích tăng cường
hợp tác giữa các khu vực giáo dục đại học và công nghiệp, khuyến khích hợp tác
nghiên cứu cơ bản, tiền cạnh tranh. Bốn là, Chính phủ có thể đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo điều kiện để thương mại hoá các kết quả nghiên cứu do Chính phủ tài
trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người tiêu dùng thích ứng với các yêu cầu và
cơ hội mới của thị trường.

1.1.4. Sự đầu tư của Chính phủ cho nghiên cứu cơ bản
Vì nghiên cứu cơ bản thường được tiến hành ở những công nghệ mũi nhọn, nên khó
dự báo được giá trị kinh tế của nó, thậm chí khó đo được chính xác khi lần ngược trở
lại. Lợi ích kinh tế nhờ ứng dụng các ý tưởng và công nghệ mới có thể cần phải có thời
gian dài mới thu hoạch được. Trong trường hợp các doanh nghiệp tư nhân không thể
gặt hái được toàn bộ lợi ích của R&D, thì lợi ích xã hội cũng có thể hết sức to lớn. Đó
là những tình huống cho thấy sự hỗ trợ của Chính phủ cho nghiên cứu cơ bản là rất cần
thiết để có thể cạnh tranh được ở những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn.nhằm đưa
Singapo chuyển dịch sang nền kinh tế dựa vào đổi mới


1.2. CHIẾN LƢỢC CHUYỂN SANG NỀN KINH TẾ DỰA VÀO ĐỔI MỚI

1.2.1. Đối sách mới của Singapo
Xét theo tất cả các số liệu kế toán, Singapo có những kỷ lục tăng trưởng kinh tế ấn
tượng nhất trong số những nền kinh tế mới công nghiệp hoá. Kể từ khi giành được độc
lập năm 1965, nền kinh tế Singapo đã tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm
khoảng 8% trong vòng 4 thập kỷ vừa qua. Mặc dù có sự suy giảm đáng kể vào cuối
thập kỷ 90, nhưng GNP theo đầu người của Singapo năm 2002 vẫn đạt 23.000 USD,


6
xét theo sức mua tương đương (Purchasing Power Parity- PPP), tức là vẫn ở mức cao
và ở vị trí thứ 3 trong số các nền kinh tế châu Á và đạt 70% so với bình quân đầu
người Mỹ (theo Báo cáo Phát triển 2003 của Ngân hàng Thế giới-WB). Năm 1965, thu
nhập theo đầu người, được hiệu chỉnh theo PPP của Singapo thấp hơn 16% so với Mỹ,
còn năm 1980, con số này là 50%.
Singapo đã tiến hành công cuộc công nghiệp hoá đất nước từ cuối thập kỷ 60, bắt
đầu bằng những ngành có hàm lượng lao động cao (Labour-Intensive Industries).
Những ngành này cần đến những người công nhân đã thoát nạn mù chữ và có kỹ năng
vận hành máy móc. Mũi chú trọng ban đầu của Singapo là nâng cao tiêu chuẩn giáo
dục, tăng cường kỹ năng cho nhân dân, tăng số lượng và chất lượng đội ngũ kỹ sư, kỹ
thuật viên và các nhà quản lý để hỗ trợ cho các ngành công nghiệp.
Với một kết cấu hạ tầng chất lượng cao, môi trường đầu tư ổn định, nền chính trị ổn
định và đội ngũ lao động cần cù, có kỷ luật, Singapo đã thu hút được nhiều công ty
nước ngoài đầu tư và hoạt động tại Singapo.
Là một quốc gia nhỏ, với ít ưu thế về tài nguyên ngoại trừ vị trí thuận lợi về địa lý,
Singapo nhận thức được rất rõ rằng để nâng cao được sức cạnh tranh, Singapo nhất
thiết phải tìm ra được các phương thức mới để duy trì ưu thế cạnh tranh về lâu dài.
Singapo sẽ phải tiếp tục duy trì kết cấu hạ tầng hoàn hảo, môi trường đầu tư và nền
chính trị ổn định, quản lý hiệu quả và chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ mạnh, đồng thời
phải có được nguồn cung cấp thường xuyên và đầy đủ đội ngũ nhân lực được giáo dục
tốt.
Cùng với lãnh thổ Đài Loan, Hồng Kông (Trung Quốc) và Hàn Quốc, Singapo là
một trong bốn “con hổ” thành công ở châu Á. Mô hình phát triển kinh tế của Singapo
đã kết hợp khuôn khổ kinh tế mở, với sự tham gia mạnh mẽ của Nhà nước trong các
chính sách lao động, đất đai và phát triển công nghiệp. Mặc dù cách tiếp cận này đã
giúp cho nền kinh tế Singapo phát triển vượt bậc, nhưng gần đây đã có những mối lo
ngại ngày càng tăng, theo đó, mô hình phát triển này cần phải được hiệu chỉnh, vì nền
kinh tế Singapo hiện đang phải cạnh tranh ở những lĩnh vực công nghệ hàng đầu, khác
với giai đoạn trước đây có phần dễ dàng hơn, khi nhiệm vụ đặt ra cho Singapo lúc đó

chỉ là tìm cách vươn lên để rượt đuổi (Catch up) các nền kinh tế tiên tiến.
Khi Singapo bước vào giai đoạn phát triển mới, sự tăng trưởng kinh tế trong tương
lai của quốc gia này sẽ phụ thuộc ngày càng tăng vào khả năng tạo ra động lực tăng
trưởng trong nước và năng lực sáng tạo công nghệ. Những biện pháp khuyến khích về
chính sách trước đây của Singapo trong việc thu hút và hỗ trợ các Công ty đa quốc gia
(MNC) lớn trên toàn cầu sẽ không những không có khả năng phát huy được tác dụng
trong giai đoạn mới này, mà chính chiến lược dựa vào các MNC đã được thiết lập để
tạo việc làm và chuyển giao công nghệ lại này lại có thể kìm hãm sự phát triển hoạt
động kinh doanh và đổi mới nội sinh ở giai đoạn phát triển mới.
Trong thời gian sắp tới, Singapo sẽ ngày càng khó khăn hơn trong việc cạnh tranh
thu hút đầu tư của nước ngoài. Mặc dù Chính phủ Singapo đã tiến hành những bước đi
cần thiết để giảm chi phí nhân công và các chi phí khác trong hoạt động kinh doanh ở
Singapo, nhưng Singapo vẫn là nơi có chi phí kinh doanh cao so với các quốc gia khác
ở châu Á. Đồng thời, Singapo đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt
của các khu công nghệ cao trên thế giới, chẳng hạn như Ixraen, Ailen, Thượng Hải và
Bắc Kinh ở Trung Quốc, Bangalore ở Ấn Độ, xét ở cả hai phương diện: tài năng
chuyên môn lẫn đầu tư nước ngoài.
Chính phủ Singapo đã tiến hành các bước để khuyến khích kinh doanh, đặc biệt là ở
ngành công nghệ cao. Ngoài động thái thực hiện những cải tiến về luật pháp và tài
chính để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc khởi nghiệp kinh doanh, Chính phủ còn

7
dành trên 1 tỷ USD để đầu tư vào các quỹ kinh doanh mạo hiểm và thu hút các nhà
kinh doanh mạo hiểm hàng đầu đến đặt cơ sở tại Singapo. Đồng thời, Chính phủ cũng
tăng cường tài trợ cho hoạt động nghiên cứu ở các trường đại học và tích cực lôi kéo
các tài năng chuyên môn đến làm việc tại Singapo. Tại trường Đại học Quốc gia
Singapo, Quỹ nghiên cứu đã tăng từ 54 triệu đôla Singapo năm 1996 lên 156,6 triệu
đôla Singapo năm 2001. Mặc dù có sự suy giảm của các thị trường công nghệ toàn cầu
từ tháng 4/2000 và tiếp đó là sự giảm các nguồn vốn kinh doanh mạo hiểm cho các
công ty khởi sự trên toàn thế giới, nhưng Chính phủ Singapo vẫn giữ vững cam kết

cho chiến lược khuyến khích kinh doanh công nghệ.

1.2.2. Quá trình tiến triển chính sách KH&CN của Singapo
Mặc dù tiến bộ công nghệ được lấy làm trụ cột cho chiến lược tăng trưởng kinh tế
của Singapo, kế hoạch chính thức về KH&CN chỉ được đưa ra lần đầu tiên vào năm
1991. Vào những năm mới dành được độc lập, chiến lược của Singapo là thu hút các
MNC đến hoạt động tại Singapo để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu cho toàn cầu.
Việc dựa nhiều vào sự đầu tư của các MNC toàn cầu là nằm trong chiến lược phát
triển kinh tế của Singapo, nhằm đưa quốc gia này trở thành một điểm đầu mối kinh
doanh quan trọng trong hệ thống thương mại và các luồng vốn ở trên toàn cầu.
Tuy nhiên, đồng thời với việc thu hút các MNC, Singapo đã có những nỗ lực rất lớn
và bền bỉ trong việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo kỹ năng chuyên môn và khuyến
khích phổ biến công nghệ từ các MNC cho nền kinh tế nội địa. Singapo đã đưa ra các
khuyến khích về thuế cho những công ty chế tạo nào thực hiện R&D ở Singapo. Tuy
nhiên, sự tài trợ cho R&D của Chính phủ chủ yếu chỉ giới hạn cho hoạt động nghiên
cứu khoa học ở các trường đại học công lập và R&D ở khu vực tư nhân và phát triển
nhân lực kỹ thuật để hỗ trợ R&D. 9 lĩnh vực then chốt đã được nhận dạng để ưu tiên
phát triển, bao gồm công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT - TT), vi điện tử và
vật liệu bán dẫn, các hệ thống điện tử, công nghệ chế tạo, vật liệu và công nghệ hoá
chất, công nghệ môi trường, năng lượng, nước và tài nguyên, công nghệ sinh học
(CNSH), lương thực và công nghệ nông nghiệp.
Để nhận dạng những lĩnh vực then chốt nhằm ưu tiên phát triển này, Singapo đã đề
ra nhiều chương trình dự báo khác nhau, tương tự như Anh và các quốc gia châu Âu
khác vẫn tiến hành. Đối với mỗi Kế hoạch Công nghệ Quốc gia, Singapo đã huy động
một số lượng lớn các chuyên gia tham gia đóng góp ý kiến và thành lập những uỷ ban
để thảo luận và đánh giá tiềm năng của từng lĩnh vực mà Singapo có thể tạo ra được cơ
hội để nổi lên thành quốc gia dẫn đầu trong khu vực.
Để tăng tốc độ phát triển và nâng cao năng lực trong nghiên cứu cơ bản, Cục
KH&CN Quốc gia (NSTB) đã tài trợ để thành lập 13 Viện nghiên cứu ở những lĩnh
vực đặc thù. Trong Kế hoạch KH&CN 5 năm lần thứ hai (1996-2000), Chiến lược

công nghệ của Singapo là “Xây dựng cơ sở KH&CN có đẳng cấp thế giới ở những lĩnh
vực xét thấy phù hợp, với sức cạnh tranh của Singapo và sẽ đẩy mạnh được trong kế
hoạch này bao gồm: (1) Chi tiêu cho R&D trong GDP phải đạt mức 2,6% vào năm
2000, so với 1,1% năm 1994; (2) Số các nhà khoa học và kỹ sư phải đạt mức
65/10.000 lao động. Năm 1998, chi tiêu cho hoạt động R&D trong GDP đạt 1,8%, còn
số nhà khoa học và kỹ sư trên 10.000 lao động là 66. Các chỉ tiêu khác Singapo cũng
đều đạt được.
Năm 1998, một số sáng kiến chính sách mới đã được đưa ra, bao gồm một kế hoạch
tổng thể để thúc đẩy kỹ năng, nâng cấp và thu hút tài năng nước ngoài và
Technopreneurship 21 (viết tắt là T21, tạm dịch là Doanh nghệ 21) nhằm thúc đẩy sự
thành lập các công ty mới khởi sự (Start-up). Chương trình T21 là một sự chuyển biến

8
rõ rệt nhất về mặt chính sách của Chính phủ, từ chỗ chú trọng vào việc thúc đẩy áp
dụng công nghệ sang chính sách hỗ trợ cả phổ biến lẫn đổi mới công nghệ. T21 được
coi là sự “cởi trói” cho doanh nghiệp khởi sự khỏi sự kìm hãm bởi các quy định so với
thời kỳ trước đây. Ngoài các sửa đổi về Luật phá sản, đã có sự xem xét lại các quy
định và mức thuế điều hành các phương án cổ phần công ty và bổ sung thêm điều
khoản đền bù thuế cho những tổn thất khi các nhà đầu tư rót vốn vào các công ty khởi
sự bằng công nghệ cao gặp phải rủi ro.
Trong Kế hoạch Công nghệ lần thứ 3 (2001-2005), Chính phủ đã dành 7 tỷ đôla Singapo
để phát triển thêm kết cấu hạ tầng và thu hút tài năng quốc tế. Singapo đã sửa đổi các quy
định liên quan đến trao đổi cổ phiếu để cho phép tạo vốn đầu tư cho công nghệ được dễ dàng
hơn. Các doanh nhân cũng được phép khởi sự kinh doanh tại nơi cư trú.
Một động thái phản ánh sự chuyển hướng chú trọng sang nghiên cứu cơ bản trong
kế hoạch KH&CN lần thứ ba của Singapo, đó là việc NSTB đã được tổ chức lại vào
năm 2000 để tập trung vào công tác thúc đẩy nghiên cứu và phát triển nhân lực R&D,
đóng vai trò tương tự như Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) ở Mỹ. Hai Hội đồng Nghiên
cứu đã được thành lập, bao gồm Hội đồng Nghiên cứu Y-sinh (BMRC) và Hội đồng
Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật (SERC). BMRC có chức năng cấp kinh phí và phát

triển nhân lực trong lĩnh vực khoa học về sự sống, còn chức năng của SERC là giám
sát hoạt động nghiên cứu ở những lĩnh vực KH&CN đã lựa chọn. Năm 2000, Chính
phủ Singapo thông báo về một đề án chiến lược để thúc đẩy nghiên cứu và phát triển
ngành công nghiệp sau khi Dự án Lập bản đồ hệ gen người hoàn thành.
Như vậy, từ cuối thập kỷ 90, Singapo đã tăng gấp đôi nỗ lực nhằm phát triển năng
lực đổi mới kể cả bề rộng lẫn bề sâu và kiên trì thúc đẩy hoạt động sáng tạo công nghệ.
Với việc thành lập các viện nghiên cứu của Chính phủ và khởi động lại sự đầu tư vào
nghiên cứu cơ bản, Singapo đã tạo nên những nền tảng cho công nghệ, bổ sung cho
hoạt động của các cụm công nghiệp và hỗ trợ các MNC ở khu vực chế tạo.
Trong các năm 2001-2002, Chính phủ Singapo đã tiến hành xem xét nền kinh tế
Singapo, với mục đích đặt ra là nhận dạng những lĩnh vực cần phải cải cách. Các Báo
cáo cuối cùng của Uỷ ban Xem xét Kinh tế (ERC) đã được đệ trình vào cuối năm
2002. Tháng 9/2002, Báo cáo của Phân ban Doanh nghiệp và Quốc tế hoá đã được ban
hành, trong đó nêu ra những khuyến nghị chính sách để đưa Singapo tiến lên nền kinh
tế tri thức có sức cạnh tranh và lấy động lực là doanh nghiệp. Mặc dù một số khuyến
nghị trên thực tế đã được thực hiện trước khi có báo cáo, nhưng chúng đã tạo ra những
động lực mạnh mẽ hơn sau khi Báo cáo được ban hành.
Cụ thể, Báo cáo của ERC đã nhận dạng 6 lĩnh vực cần phải dành được sự chú trọng
của chính sách để tạo thuận lợi cho kinh doanh, bao gồm:
(a) Văn hoá: Cần gây ảnh hưởng đến các giá trị văn hoá của Singapo để nâng cao
tinh thần kinh doanh bằng cách cung cấp cho các sinh viên và các cán bộ chuyên môn
các cơ hội học tập và khởi nghiệp kinh doanh;
(b) Xây dựng năng lực: Thu hút nhiều hơn các tài năng kinh doanh từ nước ngoài và
khuyến khích sự thuyên chuyển mạnh mẽ hơn về nhân lực giữa các khu vực Nhà nước
và tư nhân;
(c) Các điều kiện: Giảm bớt sự trói buộc của các quy định của Chính phủ và xét lại
vai trò của các công ty liên kết với Chính phủ trong nền kinh tế đất nước;
(d) Kết nối: Tăng cường sự kết nối của Singapo với toàn cầu;
(e) Vốn: Cải thiện lại sự tiếp cận của các công ty khởi nghiệp và SME với các
nguồn vốn;

(f) Vai trò xúc tác của Chính phủ: Tăng cường đầu tư và các khuyến khích về thuế
mà hiện nay đang thực hiện cho MNC sang cho các doanh nghiệp nhỏ.

9
1.2.3. Sự chú trọng gia tăng đối với nghiên cứu cơ bản
Hiện nay, chính sách KH&CN của Singapo đang chú trọng vào các nghiên cứu cơ
bản dài hạn, khác với trước đây là tập trung vào R&D ứng dụng có tính ngắn hạn. Vào
thập kỷ 70 và 80, các chương trình R&D do Chính phủ tài trợ đã chú trọng vào các
công nghệ ứng dụng để đáp ứng các nhu cầu của ngành công nghiệp. Lúc đó, do
Singapo chủ yếu vẫn tiến lên bằng chiến lược tăng trưởng dựa vào đầu tư, nên sự
khuyến khích về năng lực đổi mới và sáng tạo công nghệ chưa phải là vấn đề nghiêm
trọng. Do ý thức được sự cần thiết phải nâng cao năng lực đổi mới, Kế hoạch Công
nghệ Quốc gia lần thứ nhất (1991-1996) đã chú trọng vào phát triển các năng lực trong
nghiên cứu cơ bản, với việc thành lập 13 Viện Nghiên cứu.
Trước thập kỷ 90, R&D do Chính phủ tài trợ chủ yếu tập trung vào trường Đại học
Quốc gia Singapo (NVS) (là trường đại học tổng hợp duy nhất của đất nước lúc đó) và
Viện Tiêu chuẩn và Nghiên cứu công nghiệp (SISIR, được thành lập vào thập kỷ 70,
có chức năng xây dựng chuẩn mực và tiêu chuẩn cho các loại sản phẩm/quy trình công
nghiệp khác nhau). Các Viện Nghiên cứu khác được thành lập khi thực hiện Kế hoạch
Công nghệ lần thứ nhất.

1.2.4. Khái quát chiến lược phát triển ngành y-sinh của Singapo
Singapo ý thức được sự cần thiết phải đưa đổi mới vào các chiến lược phát triển
kinh tế (được bao hàm trong hầu hết các sáng kiến của Cục Phát triển Kinh tế Singapo
- EDB). Trong khi chú trọng đến lĩnh vực sản xuất cho các lĩnh vực khác trong suốt 30
năm qua, ưu tiên cao nhất của Singapo là tăng năng suất. Có lẽ thành công của việc
tăng năng suất sản xuất của Singapo không nơi nào sánh kịp. Tuy nhiên, để chuyển
sang nền kinh tế tri thức, cần phải chuyển trọng tâm chú ý sang đổi mới, coi đó là ưu
tiên quốc gia. Song song với Sáng kiến Industry 21, để xây dựng kinh tế tri thức,
Chính phủ đã chọn ngành y-sinh làm “cột trụ thứ 4 của ngành sản xuất của Singapo”,

vì theo dự báo, CNSH, trong đó có y-sinh sẽ là công nghệ mũi nhọn trong những thập
kỷ đầu của Thế kỷ 21 (Bảng 1).

Bảng 1: Công nghệ mũi nhọn trong những thế kỷ gần đây
Thời kỳ
Công nghệ mũi nhọn
Các ngành then chốt
1770 - 1840
Cơ khí hoá
Dệt, kênh đào, đường giao thông
1830 - 1890
Động cơ hơi nước và đường
sắt
Động cơ hơi nước, đường sắt, tàu biển
1880 - 1940
Dựa vào công nghiệp nặng
Kỹ thuật điện, công nghiệp hoá chât,
luyện kim, đóng tàu, vũ khí hạng nặng
1930 - 1980
Sản xuất hàng loạt
Ô-tô, máy bay, hàng tiêu dùng, vật liệu
tổng hợp
1970 - 1990
CNTT-TT
Máy tính, phần mềm, viễn thông, các
công nghệ số
1990 -
những thập
kỷ tới
CNSH

Liệu pháp gen, dược phẩm mới

Với vai trò là cơ quan Chính phủ phụ trách vấn đề phát triển, EDB đóng vai trò
hàng đầu trong việc hoạch định chính sách. Chính EDB là cơ quan đã phát triển Chiến

10
lược Industry 21 vào năm 1999 nhằm đưa Singapo thành một “Trung tâm mạnh và ưu
việt trên toàn cầu của các ngành công nghiệp dựa vào tri thức”. Chương trình Industry
21 của EDB được coi là “Bản đề án nhằm tạo ra một vị trí chiến lược cho lĩnh vực sản
xuất và dịch vụ xuất khẩu của Singapo”, với 5 trận tuyến:
* Đa dạng hoá các cụm công nghiệp và trong phạm vi của từng cụm để tạo ra được
hỗn hợp các ngành và thị trường mạnh, cân đối;
* Xây dựng các năng lực có đẳng cấp quốc tế và số lượng được gộp vào từ toàn cầu;
* Xúc tiến đổi mới;
* Phát triển tài năng trong nước và thu hút tài năng nước ngoài;
* Tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và kết cấu hạ tầng có đẳng cấp quốc tế để
phục vụ cho các hoạt động tri thức.
Những tham số khác gồm:
* Sử dụng các nhân tố một cách năng động;
* Thường xuyên cải tiến;
* Tạo sự kết nối thường xuyên, liên tục.
Kiên trì truyền thống “Kaizen” (hoàn thiện liên tục), EDB hiện nay đang lập ra
những bước đi sau đây để tăng trưởng đổi mới, năng suất và sức cạnh tranh quốc tế:
* Nâng cao năng lực về khoa học, công nghệ và sản xuất tri thức;
* Tạo ra các điều kiện để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao;
* Thúc đẩy phát triển các “cụm” từ khu vực tư nhân;
* Nhân rộng các cụm trong nền kinh tế, xoay quanh những ưu thế độc đáo của
Singapo ở trong khu vực.
Trước đây, nền kinh tế Singapo phát triển chủ yếu dựa trên 3 ngành sản xuất mũi
nhọn là điện tử, hoá chất và cơ khí. Thế nhưng, nền kinh tế thế giới đang trên đà suy

thoái đã tác động mạnh đến xuất khẩu hàng điện tử của Singapo và đặt ra yêu cầu cấp
thiết cho Chính phủ nước này là phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước. Vì vậy,
Singapo đã có tham vọng biến ngành y-sinh thành một ngành chủ lực, một trụ cột “thứ
tư” của đất nước và dành hàng tỷ đô la Singapo (SGD) để đầu tư nghiên cứu và phát
triển công nghệ sinh học cũng như chế tạo dược phẩm, thiết bị y tế, các sản phẩm và
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Philip Yeo, đồng Chủ tịch EDB, nói: “Singapo đã có công
nghiệp cơ khí, đóng tàu, sản xuất chất bán dẫn và hoá chất, và vì vậy chúng tôi cần
phải phát triển thêm những ngành đang có nhiều triển vọng trên toàn cầu”.
Mặc dù các hãng dược phẩm nước ngoài đã tiến hành hoạt động sản xuất ở Singapo
từ thập kỷ 70, nhưng EDB đã áp dụng cách tiếp cận hệ thống để đưa ngành y-sinh
thành những khâu đem lại giá trị gia tăng. Từ năm 1999, công nghệ y-sinh đã được
chọn làm cột trụ nên nó đã có được tiến bộ to lớn. Nhóm chuyên trách về khoa học y-
sinh (BMSG) của EDB chịu trách nhiệm lập kế hoạch chiến lược và các chính sách
phát triển để tạo nên ngành công nghiệp của khoa học y-sinh. BMSG có nhiệm vụ xây
dựng Singapo thành một “Trung tâm có đẳng cấp quốc tế” về khoa học y-sinh, có đầy
đủ năng lực ở tất cả các khâu nằm trong chuỗi giá trị, từ nghiên cứu, sản xuất cho tới
các trụ sở đổi mới khu vực. BMSG tạo điều kiện thuận lợi để các công ty mới thâm
nhập vào Singapo bằng cách kết nối họ với những tổ chức, phương tiện và dịch vụ hỗ
trợ nghiên cứu của quốc gia. Đồng thời, BMSG chăm lo cho các hãng mới khởi sự và
các công ty lớn mạnh lên thông qua các biện pháp khuyến khích, các khoản tiền trợ
cấp và các chương trình. Sáng kiến về khoa học y-sinh của Singapo có thể coi là một
sự lựa chọn chiến lược, được cân nhắc kỹ lưỡng, dựa trên cách tiếp cận hệ thống và ý
chí tuyệt vời trong việc huy động mọi nguồn lực để hành động.
Trong khu vực châu Á, không chỉ riêng Singapo muốn phát triển công nghệ y-sinh
mà Trung Quốc, Nhật và Ấn Độ cũng đang lao vào cuộc. Song, có thể nói Singapo là

11
nước đầu tư vào ngành này với quy mô lớn nhất. Mục tiêu của Singapo không chỉ là
biến nước này thành “bàn đạp” cho nhiều công ty quốc tế muốn thâm nhập thị trường
châu Á mà còn với ý đồ sâu xa hơn, đó là Singapo muốn trở thành một trung tâm của

những phát minh y học, từ đó hình thành nên các công ty trong nước thuộc lĩnh vực
này.
Singapo hy vọng sẽ khai thác hết những thế mạnh hiện có của mình: Là nơi có
nhiều người thuộc các sắc tộc khác nhau sinh sống và là quốc gia có bề dày về nghiên
cứu y học. Đây là yếu tố giúp đem lại nhiều thuận lợi khi nghiên cứu nguyên nhân của
các căn bệnh có liên quan đến yếu tố di truyền và sắc tộc. Singapo có tham vọng đến
năm 2010 sẽ trở thành một trung tâm thử nghiệm lâm sàng và phát triển dược phẩm
của khu vực và là nơi đặt trụ sở của 15 công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ y-
sinh hàng đầu trên thế giới.
Để thực hiện mục tiêu này, EDB đã dành ra 2 tỷ SGD (khoảng 1,1 tỷ USD) cho
phát triển công nghệ y-sinh. Trong đó, 1 tỷ SGD đã được đưa vào quỹ phát triển công
nghệ y-sinh nhằm hỗ trợ vốn cho các công ty còn non trẻ, thành lập các công ty liên
doanh trong và ngoài nước. 1 tỷ SGD còn lại được dùng để lập quỹ khuyến khích
nghiên cứu khoa học nhằm thu hút 3-5 trung tâm nghiên cứu hàng đầu trên thế giới
đến Singapo.
Ngoài ra, Chính phủ Singapo còn dự định bỏ ra 1,5 tỷ SGD để đầu tư vào R&D
công nghệ y-sinh trong vòng 5 năm tới thông qua Bộ Khoa học và Công nghệ Quốc
gia Singapo và dành hàng chục triệu SGD khác cho các trung tâm nghiên cứu như
Viện Di truyền học Singapo.
Xa hơn nữa, Chính phủ nước này tiến hành xây dựng một thành phố khoa học mang
tên Biopolis rộng 194 ha. Thành phố này sẽ là địa điểm tập trung các viện nghiên cứu
lớn với một quần thể gồm các căn hộ, cửa hàng, các điểm giải trí và một đường xe lửa
nội đô. Giai đoạn xây dựng cơ bản của thành phố này được hoàn tất vào giữa năm
2003.
Nhiều nhà quan sát cho rằng Singapo khó có thể thực hiện được mục tiêu làm trung
tâm công nghệ y-sinh ở châu Á, vì nước này gần như không có tài nguyên thiên nhiên,
trong khi đó nguồn nhân lực lại quá mỏng. Singapo chỉ có khoảng 4 triệu dân và đang
phải “nhập khẩu” rất nhiều nhân tài. Tuy nhiên, một số nhà phân tích cho rằng đa số
nhà nghiên cứu và sinh viên đến Singapo chỉ như là một bước chuyển tiếp trong sự
nghiệp để cuối cùng họ ổn định công việc tại một nước châu Âu hay Mỹ. Ming-Wei

Wang, Chủ tịch Công ty Sini West Holdings, một công ty dược phẩm của Mỹ có nhiều
phòng thí nghiệm ở Thượng Hải, nói: “Singapo đã trở thành một trung tâm đào tạo cho
các nhà khoa học đến từ Trung Quốc. Họ đến đây một vài năm và sau đó ra đi. Họ chỉ
xem Singapo như là một “cầu nối” để vươn tầm hoạt động sang Mỹ, châu Âu và châu
Đại Dương.
Theo ông Wang, Singapo khó có thể cạnh tranh với các thành phố khác như Thượng
Hải trong việc thu hút các nhà khoa học hàng đầu. Singapo cũng chưa có một cơ sở hạ
tầng giúp các nghiên cứu có thể “bước ra thị trường” nhanh chóng và dễ dàng. “Điều
duy nhất mà Singapo hiện có được chỉ là hỗ trợ của Chính phủ về mặt tài chính”,
Wang nói.
Singapo cũng thừa nhận những thử thách trên đối với việc phát triển công nghệ y-
sinh, nhưng Chính phủ nước này vẫn tin tưởng có thể thu hút được nhiều nhân tài từ
các nước thông qua các chương trình khuyến khích. Louis Lim, Giám đốc điều hành
của Hội Nghiên cứu y-sinh trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Singapo, nói:
“Trong lĩnh vực khoa học, nhân tài sẽ lôi kéo thêm được nhân tài. Vấn đề là nếu chúng
tôi trang bị cho họ đầy đủ phương tiện, thì chắc chắn là họ sẽ đến”.

12
Trên thực tế, Singapo đã thu hút được nhiều “hạt giống” khoa học của thế giới. EDB đã
mời được Nhà Vật lý Gunaretnam Rajagopal từ trường Đại học Cambridge đến Singapo
làm Viện trưởng Viện Tin-sinh học (Bioinformatics) và Edison Liu nguyên Giám đốc của
Viện Ung thư Quốc gia Mỹ về làm Viện trưởng Viện Di truyền học.
Ngoài việc thu hút nhân tài nước ngoài, Singapo còn áp dụng nhiều biện pháp nhằm
cải thiện chất lượng giáo dục khoa học ở các trường trung học cơ sở với hy vọng đây
sẽ là “chiếc nôi” cho những tiến sĩ khoa học trong tương lai.
Trường Đại học Quốc gia Singapo (NUS) hiện đang xây dựng một chương trình
nghiên cứu các ngành sinh học dành cho sinh viên trong năm tới và đang đặt nền móng
cho một chương trình đào tạo thạc sĩ ở Viện Tin-sinh học. Trong khi đó, Đại học Kỹ
thuật Nangyang (NTU) đang xây dựng trường công nghệ sinh học dự kiến sẽ khai
giảng vào năm 2003 và tuyển nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ từ các nước Trung

Quốc, Ấn Độ và Đông Nam Á. Với những nỗ lực trên, Singapo tin tưởng có thể đào
tạo được một đội ngũ hùng hậu các nhà khoa học trong nước trong vòng 3-5 năm tới,
giảm bớt lệ thuộc vào chất xám nước ngoài.
Ngành y-sinh của Singapo chỉ trong thời gian ngắn đã đã lớn mạnh lên trông thấy
nhờ các chính sách, sự đầu tư và các khuyến khích của Chính phủ. Mô hình này có thể
đem lại những bài học hữu ích cho các quốc gia nào muốn phát triển kinh tế dựa vào
công nghệ.

1.2.5. Sáng kiến về khoa học và công nghệ y-sinh
Năm 2000 được đánh dấu bằng sự ra đời của Sáng kiến về khoa học y-sinh, với sự
chỉ định của Uỷ ban Bộ, Uỷ ban thừa hành và Hội đồng Cố vấn Quốc tế về Khoa học
Y-sinh. Những dấu ấn khác bao gồm:
* Dành 600 triệu USD để đầu tư cho các hãng y-sinh thuộc đẳng cấp quốc tế nào
tiến hành R&D ở Singapo;
* Mở ra 4 chương trình mới cho giáo dục khoa học y-sinh:
+ Học bổng sau Đại học cho những sinh viên theo học các ngành then chốt về khoa
học sự sống ở những trường Đại học hàng đầu ở nước ngoài;
+ Học bổng đào tạo Thạc sĩ-Tiến sĩ cho các “bác sĩ khoa học” tại những viện nghiên
cứu y-sinh và y học hàng đầu ở nước ngoài;
+ Chương trình học bổng hỗ trợ cho các tiến sĩ hoặc các nghiên cứu sinh nào cam
kết sẽ làm việc ở Singapo;
+ Chương trình trao đổi các nhà nghiên cứu với những cơ quan hoặc các hãng quốc
tế hàng đầu.
* Chương trình gen học của Singapo;
* Thành lập Hội đồng Nghiên cứu Y-sinh trực thuộc Cục Khoa học và Công nghệ
Quốc gia để điều phối hoạt động R&D ở khu vực Chính phủ;
* Thành lập Uỷ ban Cố vấn về đạo đức sinh học để xem xét các vấn đề liên quan
đến xã hội, đạo đức và đạo lý.
Trong suốt năm đầu tiên của hướng ưu tiên chiến lược này, sản lượng do ngành y-
sinh tạo ra đã tăng lên đều đặn, trong khi lĩnh vực công nghệ co lại. Tăng 3,2% lên

3,67 tỷ USD, giá trị gia tăng của ngành y-sinh tăng 3,6% lên tới 2,2 tỷ USD. Nhân lực
sản xuất của ngành y-sinh tăng 5,7% (6000 người) vào năm 2001. Sản lượng của
ngành dược phẩm đạt giá trị 2,8 tỷ USD, chiếm 76% tổng giá trị sản lượng của toàn
ngành sản xuất y-sinh (Mặc dù con số này có thể thay đổi nếu như các nỗ lực R&YD
tăng lên theo dự kiến).
Công nghệ cũng duy trì tốc độ với sản lượng sản xuất tăng 3,4%, đạt gần 1 tỷ USD.
470 triệu USD đầu tư cho tài sản cố định đã được cam kết, thông qua 19 dự án mới,

13
bao gồm các khoản đầu tư của các công ty Mỹ, như Merck, Sharp and Dohme, Glaxo
Smith Kline, Baxter, Healthcare, Eli Lilly, Novartis…
Cuối năm 2001, sáng kiến y-sinh của Singapo đã được thiết lập chắc chắn và thu
hút được sự quan tâm của quốc tế.

1.2.6. Khái quát chiến lược để phát triển ngành y-sinh
Một đặc trưng trong cách tiếp cận chiến lược của Singapo là cam kết các nguồn lực
tới hạn, sau đó linh hoạt bổ sung và hiệu chỉnh nếu xét thấy cần thiết. “Cách tiếp cận
hệ thống” của EDB được vạch ra ở 3 cấu phần chủ yếu được áp dụng cho mỗi khía
cạnh của ngành y-sinh, bao gồm: kết cấu hạ tầng, các khuyến khích về tài chính, các
sáng kiến giáo dục và nhân lực.
A. Phát triển kết cấu hạ tầng
Cấu phần chủ yếu của “cách tiếp cận hệ thống” là tạo ra toàn bộ kết cấu hạ tầng trọn
gói để hỗ trợ cho ngành y-sinh và thu hút các đối tác quốc tế, cả cá nhân lẫn công ty.
(1). Viễn thông và các nguồn tài nguyên Web
Một sáng kiến lớn được mở ra song song với Industry 21 là Infocomm 21 của ngành
viễn thông, được coi là chiến lược để đưa Singapo trở thành một trung tâm mạnh mẽ
và năng động về thông tin và viễn thông toàn cầu, với nền kinh tế mạnh phồn vinh và
xã hội thông tin thịnh vượng”. Ưu tiên số 1 của Infocomm là đảm bảo có được các
công nghệ viễn thông mũi nhọn phục vụ cho các ưu tiên kinh tế khác như nghiên cứu
y-sinh và chế tạo. Chiến lược này bao gồm các khoản trợ cấp để xây dựng kết cấu hạ

tầng và phần cứng băng rộng, cùng chia sẻ phí tổn thuê mạng quốc tế và trang bị băng
rộng cho các toà nhà thương mại và công nghiệp. Singapo tuyên bố toàn quốc có 99%
số người được hưởng dịch vụ băng rộng.
Một điều đáng lưu ý: Singapo hầu như được nối mạng hoàn toàn, với 99,9% hộ gia
đình truy cập Internet bằng mạng điện thoại. Phần lớn sinh viên được hưởng lợi ích
của Internet: Chính phủ khuyến khích chính thức, coi đó là một phương tiện giáo dục,
và năm 2001 Chính phủ mở ra một chương trình xây dựng “E-lifestyle” (Lối sống điện
tử) cho mọi người dân Singapo. “Singapore ONE” là một website của Chính phủ,
được kết nối bằng băng rộng với một số site giáo dục và giải trí để giới thiệu cho các
công dân và người tiêu dùng về các ích lợi của việc thông thạo sử dụng Internet.
Đặc biệt, Internet cũng được ứng dụng cho ngành y-sinh. Ngoài các website tìm
việc làm còn có một website y-sinh toàn diện cho phép những người dùng nào biết mật
khẩu có thể truy cập được cơ sở dữ liệu trực tuyến để biết thông tin về các nhà nghiên
cứu khác với ý định thiết lập quan hệ và hợp tác. Website này bao gồm một loạt các
thông tin khác để liên kết cộng đồng R&D y-sinh của Singapo với các đồng nghiệp và
đối tác trên khắp thế giới.
Web cũng được dùng làm công cụ tiếp thị của EDB đối với những hãng y-sinh nước
ngoài đang tìm kiếm thông tin về thị trường đầu tư và/hoặc thương mại, các luật định
và khuyến khích của Singapo. Các công ty Singapo có thể truyền thông về những quan
tâm của mình trong việc liên kết thông qua mạng lưới cán bộ ở nước ngoài của EDB.
Singapo hiện là một trung tâm thương mại điện tử của khu vực, với dịch vụ băng
rộng 1,2 Gb/giây. Tháng 5/2000, Cơ quan Tình báo Kinh tế (EIU) xếp Singapo ở vị trí
thứ 7 trên thế giới với tư cách là một quốc gia đã chuẩn bị tốt nhất để tiến hành kinh
doanh điện tử (và đứng ở vị trí đầu tiên trong số các nước châu Á). Tháng 12/2001,
Singapo áp dụng liên kết băng rộng giữa các trung tâm nghiên cứu của Singapo với
mạng lưới các cơ quan của Mỹ. Họ đầu tư 30 triệu USD để thúc đẩy hoạt động nghiên
cứu ở Singapo và cung ứng phương tiện thử nghiệm cho “Singapore ONE” - một kế
hoạch quốc gia nhằm kết nối toàn quốc bằng mạng điện tử. Singaren (Mạng Giáo dục

14

và nghiên cứu tiên tiến thế hệ sau của Internet) kết nối các nhà nghiên cứu với Quỹ
Khoa học Quốc gia (NSF) của Mỹ, hoạt động tương đồng với Internet 2, mà liên kết
191 cơ quan nghiên cứu hàng đầu của Mỹ thông qua trung tâm Abilene. 8 dự án hợp
tác giữa Singapo và Mỹ hiện đang được tiến hành on-line, bao gồm cả dự án chia sẻ dữ
liệu cấu trúc protein.
(2). Các phương tiện nghiên cứu
Chính phủ lập ra các “Biopolis”, đó là các công viên khoa học có chức năng cung
cấp các phương tiện thí nghiệm hiện đại cho các hãng chuyên về khoa học y-sinh đặt
địa điểm ở gần các viện nghiên cứu và trường đại học. Các hãng hoạt động ở Biopolis
còn đóng góp thêm vào các phương tiện chung để cùng nhau sử dụng. Biopolis cũng
sẽ là điểm đầu mối của kết cấu hạ tầng CNTT của mạng y-sinh (Biomedical Grid).
Ngoài kết cấu hạ tầng vật chất, một bộ phận nằm trong cách tiếp cận hệ thống của
Singapo là đảm bảo chu trình hoạt động của toàn bộ hệ thống cho các ngành hỗ trợ. Ví
dụ, Trung tâm Đánh giá dược phẩm có những chức năng giống của Cơ quan Thực
phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA), thực hiện nhiệm vụ chuẩn y các dược phẩm mới để
sử dụng trong nước căn cứ vào dữ liệu sơ bộ (và chưa được FDA hoặc Tổ chức tương
tự của châu Âu thông qua). Thời gian cần thiết để nhận được sự chuẩn y kể từ khi nộp
hồ sơ là 8-12 tháng. Đây là một thời gian không dài lắm và Singapo hy vọng sẽ hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư. Trung tâm cũng cung cấp tư vấn về biên bản thử nghiệm
lâm sàng và những vấn đề phát triển dược phẩm khác có liên quan đến các yêu cầu
đăng ký.
Một vấn đề then chốt đối với chu trình hoạt động của lĩnh vực y-sinh là có được các
mẫu nghiên cứu. Trung tâm Nghiên cứu Sản phẩm tự nhiên do Glaxo Smith Kline hỗ
trợ, chú trọng tìm kiếm các phân tử hoạt tính sinh học từ các nguồn tự nhiên. Công
nghệ tầm soát (Screening Technology) tiên tiến được kết hợp với tính đa dạng rất lớn
của Đông Nam Á để phát hiện ra các hợp chất tạo cơ sở đem lại những dược phẩm
mới. Hoạt động nghiên cứu cốt lõi bao gồm việc tạo và thử nghiệm các mẫu từ các
nguồn thiên nhiên và điều chế các dẫn suất có chất lượng cao. Nhóm nghiên cứu đã
thực hiện 1,6 triệu xét nghiệm/năm ở một loạt các lĩnh vực tư liệu khác nhau.
Việc lập kế hoạch đang được tiến hành đối với Mạng lưới Mô của Singapo-một kho

dữ liệu mô quốc gia, có kết cấu hạ tầng hiện đại để giúp việc tiếp cận với các mô được
của cơ thể người phục vụ cho nghiên cứ dân số và y học.
Một liên kết quan trọng nữa trong quá trình nghiên cứu là Tin-sinh học
(Bioinformatics). Hai viện nghiên cứu và đào tạo về y-sinh có chức năng hỗ trợ cho
cộng đồng nghiên cứu và đào tạo các chuyên gia trong nước: Trung tâm Tin-sinh của
trường Đại học Quốc gia và Viện Tin-sinh của Cơ quan Khoa học, Công nghệ và
Nghiên cứu (A*STAR). Hai cơ quan này có sự hợp tác mạnh mẽ với các trường Đại
học, viện nghiên cứu của Mỹ và các nước khác.
(3). Chuyển giao công nghệ
Đây là một phát triển tương đối mới ở Singapo. Năm 2001, A*STAR đã lập Exploit
Technologies Pte. Ltd với chức năng là một tổ chức tư nhân để quản lý sở hữu trí tuệ
do các Viện và Trung tâm nghiên cứu tạo ra.
(4). Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Nhiều năm nay, Singapo đã đạt được thành tích quan trọng trong việc bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ (IPR). Tháng 1/2000, Singapo đã là nước châu Á đầu tiên ký “Kế hoạch
Hợp tác Kiểm nghiệm dược phẩm” (PICS). Việc tham gia PICS có ý nghĩa quan trọng
trong việc thiết lập một vị thế ưu tiên cho Singapo với vai trò là một trung tâm về khoa
học y-sinh và dược phẩm của khu vực, để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công
nhận lẫn nhau về kiểm định những biện pháp sản xuất tốt (GMP) với các nước thành

15
viên khác của PICS, và để đảm bảo sự cong nhận về chất lượng các dược phẩm được
sản xuất và xuất khẩu từ Singapo.
Ngoài ra, Chính phủ Singapo đã ban hành những khung khổ toàn diện nhất châu Á
về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm:
* Phù hợp hoàn toàn với các khía cạnh của Hiệp định về Quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS) của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO);
* Đảm bảo hiệu lực cho IPR bằng một bộ máy tư pháp nghiêm khắc nhất thế giới;
* Liên tục đưa ra các chương trình giáo dục để nâng cao nhận thức của quần chúng
về tầm quan trọng của việc bảo hộ IPR;

* Dựa vào cơ quan “Tư vấn về rủi ro kinh tế và chính trị” để có được một hệ thống
bảo hộ IPR tốt nhất châu Á;
* Sự tư vấn của ngành công nghiệp được tích hợp vào những đợt xem xét định kỳ
chương trình bảo hộ IPR của Chính phủ để đảm bảo tính liên quan, tính hiệu quả và
tính phù hợp của những biện pháp hiện có đối với những người sở hữu công nghệ và
phản ánh được những tiến bộ công nghệ hoặc sự thay đổi của hoàn cảnh;
* Lập quan hệ với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, Hiệp định Paris, Budapest trong
lĩnh vực hợp tác về patăng.
Singapo ý thức được tầm quan trọng của IPR và việc bảo hộ, vì nó khuyến khích được
đầu tư của nước ngoài, cũng như việc tuyển mộ được những tài năng thuộc đẳng cấp quốc
tế.
B. Đưa ra các biện pháp khuyến khích về thuế và vốn
Từ năm 1987, EDB bắt đầu đầu tư vào các công ty y-sinh ở Mỹ và châu Âu, dựa
vào việc phân tích các sản phẩm, tiềm năng tăng trưởng, và các công nghệ của từng
công ty. EDB đã tiến hành chọn lựa rất kỹ lưỡng để đầu tư vào các công ty nào đã thiết
lập được thị trường tiềm năng, có thị phần lớn và ít bị cạnh tranh. EDB đầu tư ở mức
khiêm tốn (dưới 10% cổ phần công ty, để họ không kiểm soát được quyền lợi của
mình, mà làm cho họ thành đối tác quan trọng). Khi các công ty đã lớn mạnh lên,
EDB, với tư cách là nhà đầu tư, đề nghị họ lập cơ sở lâu dài tại Singapo.
EDB cũng cung cấp một số vốn ban đầu cho các hãng kinh doanh vốn mạo hiểm. Hiện
tại có trên 30 hãng kinh doanh vốn mạo hiểm có quyền lợi ở lĩnh vực khoa học y-sinh.
Ngoài ra, Chính phủ Singapo cũng đầu tư vào các doanh nghiệp kinh doanh vốn mạo hiểm
quốc tế thuộc các khoa học về sự sống, thông qua công ty đầu tư Temasek Holdings của
mình. Ví dụ, chính nhờ sự đầu tư của Temasek Holdings vào một doanh nghiệp vốn mạo
hiểm ở Mỹ mà đã thu hút được Tập đoàn Chiron liên doanh với Singapo.
C. Các sáng kiến về giáo dục và phát triển nhân lực
Bộ Giáo dục và Cơ quan Khoa học, Công nghệ và Nghiên cứu (A*STAR) hiện nay
đang chú trọng rất nhiều đến việc kết hợp các bộ môn khoa học y-sinh với các môn
học bắt buộc và có tính truyền thống, toán học và các chương trình giáo dục nói chung
nhằm mục tiêu tăng được 50% số sinh viên theo học các ngành thuộc khoa học về sự

sống, kể từ khi ban hành Sáng kiến “Industry - Công nghiệp 21”.
Ví dụ, ở cấp tiểu học và trung học cơ sở đã đưa vào Chương trình Science 01, đó là
những sự kiện và hoạt động kéo dài trong một tháng về khoa học, công nghệ và y-sinh
học, bao gồm những nghiên cứu và phát minh khoa học, cũng như những ứng dụng tri
thức khoa học, những đổi mới kỹ thuật và công nghệ phục vụ lợi ích của quần chúng.
Ngoài ra, chương trình giáo dục phổ thông cũng đang được cải cách để đưa vào các
lớp và môn học về lĩnh vực kinh doanh, nhằm kết hợp khoa học với các kỹ năng hoạt
động kinh doanh.
Chương trình “Tìm kiếm nhân tài khoa học quốc gia” được đưa ra để phát hiện
những sinh viên trong độ tuổi 15-18 mà có được tinh thần say mê nghiên cứu khoa học

16
và công nghệ và có nhiều khả năng để theo đuổi các nghề nghiệp trong lĩnh vực
nghiên cứu và phát triển. Với Chương trình này, hàng năm sinh viên được mời đến để
trình bầy các dự án nghiên cứu khoa học, hoặc kỹ thuật cho Ban giám khảo. Những
sinh viên nào thắng cuộc sẽ được cấp chứng chỉ, được hưởng trợ cấp (trong đó 10.000
USD giành cho các hoạt động liên quan đến KH&CN, kể cả các chuyến đi khảo sát
các trường đại học ở nước ngoài) và khoản học bổng để theo học từ cấp Đại học đến
cấp Thạc sĩ.
Ở cấp Đại học, Chương trình “Quỹ học bổng Khoa học Quốc gia” cấp với số lượng
ngày càng tăng cho các sinh viên thuộc các ngành then chốt và theo học các trường
được chọn ở nước ngoài. Những sinh viên nào được nhận học bổng phải chấp nhận
yêu cầu trở về nước phục vụ tại các viện, trường Đại học, bệnh viện hoặc ngành có
liên quan. A*STAR sẽ giúp đỡ xếp đặt nơi công tác phù hợp. Chương trình cũng có
thêm một số học bổng cho những sinh viên tốt nghiệp ở Singapo hoặc nước ngoài mà
có quan hệ gắn bó với những tổ chức nước ngoài.
Singapo có truyền thống trong việc tăng cường quan hệ với Mỹ và châu Âu trong
lĩnh vực kinh doanh, giáo dục và công nghệ. Các viện/trường ở Singapo đều ra sức tìm
kiếm hợp tác với những cơ quan KH&CN hàng đầu trên thế giới.
Một “Uỷ ban Tư vấn về nguồn nhân lực cho các khoa học y-sinh” được thành lập,

bao gồm đại diện của các nhà giáo dục và doanh nghiệp, được giao nhiệm vụ dự báo
nhu cầu nhân lực. Một cơ quan khác là “Hội đồng Nghiên cứu Y-sinh” có chức năng
lập kế hoạch, tìm kiếm và thu hút tài năng nước ngoài. “Contact Singapore” là một cơ
quan thuộc Bộ Nhân lực luôn duy trì một danh mục việc làm trên mạng để cho người
nước ngoài nào quan tâm, đồng thời cung cấp mọi thông tin liên quan đến triển vọng
công việc, học tập và cuộc sống ở Singapo. Việc này được bổ sung thêm bằng chương
trình trao đổi chuyên gia.

1.2.7. Triển vọng dài hạn của chiến lược phát triển y-sinh của Singapo
Liệu chiến lược của Singapo phát triển ngành y-sinh có đạt được thành quả hay không?
Thập kỷ 70 và 80, Singapo đã từng có chiến lược như vậy đối với lĩnh vực điện tử và đã gặt
hái được thành công ngoạn mục (và tiếp tục được duy trì). Thành công liên tục của ngành
điện tử Singapo, được coi là một trong những ngành trụ cột của đất nước, nhờ vào sự linh
hoạt của EDB trong việc điều chỉnh các chính sách và sáng kiến, căn cứ vào những biến đổi
diễn ra đối với ngành và thị trường điện tử trên toàn cầu, cũng như sự cam kết “đảm bảo
tiến trình” của EDB, cho dù sự thăng trầm của nền kinh tế. Mặc dù việc thực hiện chiến
lược mới ở giai đoạn đầu, nhưng đã có được những kết quả đầy hứa hẹn. Ví dụ, Trung tâm
Nghiên cứu sản phẩm thiên nhiên, thông báo rằng họ đã tìm ra được 10 dược phẩm mới nhờ
xem xét các mẫu thực vật nhiệt đới. Những khoản đầu tư mới và được tăng cường thêm cho
nghiên cứu, phát triển và sản xuất bởi các công ty dược phẩm và thiết bị y tế đa quốc gia đã
chứng tỏ họ tin vào quyết tâm của Singapo muốn biến đất nước này thành một trung tâm
của khu vực. Trung tâm Tin-sinh học Singapo đã trở thành một mắt xích chủ yếu trong
mạng lưới tin-sinh học toàn thế giới, và dẫn đầu quốc gia trong việc ứng dụng công nghệ
thông tin. Liên doanh giữa trường Đại học John Hopkins với công ty thiết bị y tế của Mỹ để
cho ra đời một công ty mạo hiểm, nhằm ứng dụng những thành tựu nghiên cứu của
Singapo, cho thấy rằng công cuộc nghiên cứu, phát triển và đổi mới của Singapo có thể duy
trì lâu bền mà không cần nhiều lắm những tác động của Chính phủ.
Thành công của EDB trong việc tạo dựng nên ngành y-sinh mà thực sự bắt đầu từ
con số 0, về cơ bản là nhờ vào những yếu tố sau:
* Không phụ thuộc vào chính trị và bộ máy quan liêu;

* Khả năng lãnh đạo nhờ điều phối các hoạt động khác nhau;

17
* Khả năng lãnh đạo nhờ đạt được sự đồng thuận của các quyền lợi cạnh tranh nhau;
* Lôi kéo được các nhà nghiên cứu, các nhà lập kế hoạch và các tư tưởng gia tài năng và
sáng giá nhất Singapo;
* Có phạm vi tác động rộng, kể cả việc tạo ra và thay đổi những chính sách thích hợp;
* Được uỷ thác cao để cam kết các nguồn lực của Chính phủ, bao gồm việc tài trợ,
nguồn cán bộ, kết cấu hạ tầng;
* Có vốn đầu tư hầu như không hạn chế;
* Có sự am hiểu và kính trọng trong giới tư nhân (kể cả toàn cầu);
* Hết mình vì nguyên tắc và thành công kinh tế của Singapo;
* Có tầm nhìn toàn cầu.

1.2.8. Cách tiếp cận hệ thống của EDB
Nhờ thực hiện thành công chiến lược đẩy mạnh ngành sản xuất điện tử trước đây,
EDB được trao trách nhiệm lập kế hoạch và tiến hành cách tiếp cận hệ thống cho chiến
lược phát triển ngành y-sinh để làm một ngành trụ cột, đưa Singapo tiếp tục đi lên ở
Thế kỷ XXI. EDB đã áp dụng việc lập kế hoạch ở 3 cấp như sau:
1. Một Uỷ ban ngang Bộ, được trợ giúp bởi một Uỷ ban thừa hành trong việc tiến
hành các chỉ thị, nhằm đảm bảo sự đồng thuận về chính trị thông qua quá trình phát
triển chính sách và chương trình;
2. Một “Uỷ ban Tư vấn Quốc tế” (IAC) về khoa học sự sống, bao gồm các nhà lãnh đạo
chủ chốt của ngành y-sinh và các nhà khoa học y-sinh nổi tiếng được tuyển dụng từ Mỹ và
châu Âu. IAC có vai trò như một ban tham vấn, với những nhiệm vụ chủ yếu như sau:
a. Tư vấn về những xu hướng lớn của ngành công nghiệp và hoạt động nghiên cứu
về khoa học sự sống ở toàn cầu;
b. Phê phán các sáng kiến hiện hành và cung cấp tư vấn để cải thiện hoặc đẩy mạnh;
c. Chia sẻ tri thức và kinh nghiệm trong công việc nghiên cứu khoa học và ngành
công nghiệp y-sinh để định hướng phát triển cho Singapo;

d. Cung cấp những đầu vào cần thiết cho các vấn đề đạo đức và đạo lý trong nghiên
cứu y-sinh, dựa trên kinh nghiệm của các nước.
3. Nhóm phụ trách về khoa học y-sinh của EDB (BMSG), có trách nhiệm lập kế
hoạch và quản lý “cách tiếp cận hệ thống” ở toàn bộ dây truyền giá trị, từ khâu nghiên
cứu đến khâu sản xuất, và các trụ sở khu vực dể bao hàm:
a. Tiến hành nghiên cứu các ngành y-sinh ở Mỹ và châu Âu nhằm phát triển một mô
hình hiệu quả cho Singapo. Nhờ nghiên cứu các kinh nghiệm của Mỹ và châu Âu,
EDB sẽ nhận dạng được những loại chiến lược và chính sách nào có tác dụng thúc
đẩy, những loại nào có tác dụng kìm hãm, trên cơ sở đó phát triển được một mô hình
tổng hợp, dựa trên những “thực tiễn tốt nhất”.
b. Đồng thời, BMSG sẽ:
* Khảo sát các thị trường xuất khẩu đối với các sản phẩm về dịch vụ y-sinh để đảm
bảo rằng các nhà đầu tư sẽ có doanh thu tiềm năng. BMSG (kết hợp với IAC) sẽ nhận
dạng ra những tụ điểm công nghệ cần phát triển.
* Nhận dạng và thiết lập quan hệ với những công ty y-sinh của Mỹ và châu Âu nào
đã biểu hiện có được những nghiên cứu, sản phẩm và công nghệ mũi nhọn. Tiếp đó sẽ
lựa chọn những công ty này để tạo cơ hội cho Singapo;
* Nhận dạng và phát triển những chính sách và biện pháp khuyến khích để thu hút
sự chú ý của các công ty đã được chọn ở trên. Việc Chính phủ Singapo tạo hiệu lực rất
lớn cho quyền sở hữu trí tuệ đã chứng tỏ là một sự khuyến khích đầu tư quan trọng;
* Hỗ trợ cho các công ty nào đang cân nhắc Singapo để làm nơi đầu tư cho R&D,
sản xuất hoặc đặt trụ sở;
* Tạo thuận lợi cho các công ty mới vào làm ăn ở Singapo bằng cách giúp họ lập
quan hệ với các tổ chức nghiên cứu, các cơ quan nhà đất/công nghiệp và các dịch vụ
hỗ trợ khác ở trong nước;
* Chăm lo phát triển các công ty đang hoạt động và mới khởi sự.

18

PHẦN II

ĐỊNH HƢỚNG CHIẾN LƢỢC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẾN NĂM 2010


2.1. NHỮNG THÁCH THỨC VỀ KINH TẾ ĐẶT RA CHO SINGAPO

2.1.1. Bối cảnh hiện nay
Mặc dù không có tài nguyên thiên nhiên, nhưng Singapo trong suốt 40 năm qua đã
đạt mức tăng trưởng trung bình hàng năm 8,37%- một con số đầy ấn tượng. Những
yếu tố góp phần làm nên sự thành công to lớn đó gồm:
* Singapo nằm ở vị trí chiến lược về giao thông vận tải, tài chính và thương mại;
* Đầu tư mạnh vào kết cấu hạ tầng;
* Nguồn nhân lực có động lực mạnh và được giáo dục tốt;
* Đầu tư của nước ngoài tăng mạnh và vững chắc;
Các chính sách và kế hoạch Chính phủ tạo thuận lợi cho tăng trưởng và kinh doanh.
Singapo đã đạt được những tiến bộ quan trọng, kể từ khi dành được độc lập vào năm
1965. Vì sự cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, cả từ phía các nước phát triển lẫn các nước đang
phát triển, nên Singapo đã lựa chọn chiến lược là nhanh chóng tiến lên cạnh tranh ở những
nấc thang công nghệ cao hơn thì mới có thể duy trì được vị thế của mình. Singapo đã nỗ lực
thu hút các ngành có giá trị cao như điện tử và hoá chất, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực
trình độ cao. Năm 2000, Singapo lại tiến thêm một bước nữa trong chuỗi giá trị, với sáng
kiến phát triển các ngành y-sinh có hàm lượng tri thức cao.
Thời gian sắp tới, Singapo sẽ tiếp tục quá trình nâng cấp và đổi mới để đủ sức cạnh tranh
trong nền kinh tế tri thức đang nổi lên khắp toàn cầu. Singapo cần phải phát hiện và tạo
dựng được ưu thế so sánh của mình ở trong một hoàn cảnh kinh tế đang thay đổi.

2.1.2. Những thách thức ở phía trước
Sức mạnh của toàn cầu hoá đã hội nhập các nền kinh tế ở trên khắp thế giới với mức
độ chưa từng có trước đây. Những tiến bộ trong lĩnh vực CNTT-TT đã cho phép các
hoạt động kinh doanh được đặt địa điểm và tiến hành hầu như ở bất cứ nơi nào trên thế

giới. Dòng lưu chuyển nhanh chóng của thông tin và tăng năng suất nhờ công nghệ đã
rút ngắn rất nhiều các chu kỳ kinh doanh và khiến sự cạnh tranh giữa các khu vực ngày
càng trở nên gay gắt. Bởi vậy, các nước đã nhận thấy những ưu thế so sánh của mình
trước đây, dựa vào hiệu quả và chi phí, đang nhanh chóng bị suy giảm .
Sự tăng trưởng nhanh chóng của các nền kinh tế lớn đang nổi lên như Trung Quốc,
Ấn Độ đã làm bức tranh kinh tế toàn cầu thay đổi rất nhiều. Với các thị trường nội địa
lớn và nguồn nhân lực có kỹ năng rất dồi dào, chi phí rẻ, sự mở cửa của các nền kinh
tế này đã trở thành một lực lượng hùng mạnh đang định hướng nền kinh tế và môi
trường đầu tư toàn cầu. Sự tăng trưởng của các quốc gia này vừa tạo ra những cơ hội,
vừa tạo ra các thách thức cho cả thế giới, trong đó có Singapo.

2.1.3. Định hướng của Singapo để duy trì tăng trưởng kinh tế
* Chiến lược đổi mới
Singapo được xếp ở vị trí cao trong số các quốc gia có sức cạnh tranh nhất thế giới
hiện nay. Trong Niên giám Cạnh tranh Thế giới 2005 của IMD, Singapo được xếp ở vị
trí thứ 3 trong số các nền kinh tế có sức cạnh tranh cao nhất, còn trong Báo cáo về Sức

19
cạnh tranh toàn cầu 2004-2005 của WEF, Singapo được xếp ở vị trí thứ bảy. Trong số
các quốc gia nhỏ (có dân số dưới 20 triệu), Singapo là nền kinh tế có sức cạnh tranh
thứ nhì.
Là một quốc gia nhỏ, với ít ưu thế về tài nguyên ngoại trừ vị trí thuận lợi về địa lý,
Singapo nhận thức được rất rõ ràng để nâng cao được sức cạnh tranh, Singapo nhất
thiết phải tìm ra được các phương thức mới để duy trì ưu thế cạnh tranh về lâu dài.
Singapo sẽ phải tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng hoàn hảo, duy trì môi trường đầu
tư và nền chính trị ổn định, quản lý hiệu quả và chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ mạnh,
đồng thời phải có được nguồn cung cấp thường xuyên và đầy đủ đội ngũ nhân lực
được giáo dục tốt. Tuy nhiên, những tài sản này, theo nhận định của các quan chức và
chuyên gia Singapo, vẫn chưa đủ sức để giúp Singapo tiếp tục duy trì sự phát triển
thịnh vượng của mình.

Thời gian tới, Singapo sẽ phải đẩy mạnh các kế hoạch đã đề ra và tìm các phương
thức mới để đem lại những khác biệt, ngoài hiệu quả về chi phí và hiệu suất, đồng thời
tạo dựng các ưu thế cạnh tranh lâu bền. Singapo phải biết tập trung những nguồn lực
có hạn của mình để tạo ra những đỉnh điểm xuất sắc ở những lĩnh vực phù hợp và phát
triển được các năng lực mà những đối thủ cạnh tranh khó bắt chước được.
Các chiến lược kinh tế của Singapo nhằm vào những thực tế kinh tế đã thay đổi và
ứng phó với những thách thức đặt ra cho khả năng cạnh tranh kinh tế của mình. Hướng
chú trọng của khu vực công nghiệp chuyển sang các hoạt động dựa vào trình độ và tri
thức, bổ sung thêm cho hoạt động sản xuất. Singapo sẽ phát triển năng lực đổi mới,
với vai trò là một nguồn sức mạnh mới, lâu bền để đem lại ưu thế cạnh tranh.
Trên bình diện quốc tế, nhiều quốc gia cũng đang chú trọng vào việc tạo dựng năng
lực đổi mới, với tư cách là chiến lược đem lại khả năng cạnh tranh bền vững. Ở các
nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), điều này được thấy rõ qua
việc chú trọng mạnh mẽ và ngày càng gia tăng của họ đến lĩnh vực giáo dục đại học và
nghiên cứu. Đặc biệt, có các quốc gia tuy nhỏ, nhưng tiên tiến như Phần Lan, Thụy
Điển… lại đang dẫn đầu làn sóng đổi mới ở châu Âu, với sự đầu tư lớn vào họat động
nghiên cứu và phát triển (R&D), đồng thời xây dựng các kết cấu để hỗ trợ sự phát triển
của những hệ thống đổi mới một cách hiệu quả.
* Hoạt động nghiên cứu của khu vực công trong hệ thống đổi mới
Các viện nghiên cứu công đóng vai trò then chốt trong hệ thống đổi mới. Khu vực
này có tác dụng giảm bớt các rào cản và chi phí cho doanh nghiệp khi tiến hành đổi
mới và tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động này diễn ra một cách hiệu quả, có
hiệu suất và sức cạnh tranh cao. Vai trò quan trọng này được thực hiện bằng các
phương thức dưới đây:
a) Tạo ra nguồn nhân lực R&D có các kỹ năng, tri thức và kinh nghiệm thích hợp-
điều then chốt là sự thuyên chuyển cán bộ giữa khu vực nghiên cứu công và các doanh
nghiệp;
b) Là đối tượng cộng tác trong R&D và bổ sung tri thức/trình độ nội sinh của doanh
nghiệp, đồng thời là xúc tác để tạo ra các hoạt động dựa vào tri thức ở khu vực doanh
nghiệp thông qua việc khai thác các phát minh/sáng chế ở khu vực này;

c) Chia sẻ và cung cấp kết cấu hạ tầng, phương tiện và các dịch vụ R&D và kỹ
thuật, là cầu nối với cơ sở tri thức KH&CN toàn cầu.
* Thúc đẩy phát triển KH&CN
KH&CN đã là động lực hàng đầu đem lại sự phát triển kinh tế trong 2-3 thế kỷ qua.
Những đột phá công nghệ đã biến đổi nền kinh tế của các nước phát triển ở Bắc Mỹ,
Tây Âu và Nhật Bản. Những nước ở tuyến đầu trong việc gặt hái các thành quả công
nghệ vẫn tiếp tục được hưởng những tiêu chuẩn sống cao nhất.

20
Trong một môi trường toàn cầu hoá và cạnh tranh ngày càng gay gắt, một trong
những điều mấu chốt để duy trì ưu thế cạnh tranh của mình là phát triển các năng lực
công nghệ siêu đẳng và tiếp tục tạo ra các việc làm mới có giá trị cao mà các đối thủ
cạnh tranh vẫn còn chưa thực hiện được.
KH&CN là lĩnh vực mà Singapo có thể phát huy tới mức tối đa nhờ thế mạnh của
người dân Singapo trong lĩnh vực khoa học và toán học. Các học sinh Singapo thường
xuyên dẫn đầu trong các cuộc thi về khoa học và toán học. Những học sinh dẫn đầu
này đều đi vào các ngành KH&CN ở các trường đại học, nơi họ dành được những
thành tích xuất sắc.
Thiên hướng tự nhiên về khoa học này của người dân Singapo đã được sự khuyến
khích bởi hệ thống giáo dục, tạo nền tảng cho một xã hội trong đó KH&CN được phát
triển thuận lợi và một nguồn nhân lực có khả năng làm cho các đổi mới công nghệ và
tiến bộ khoa học được nhanh chóng thích ứng và áp dụng.
* Tăng cường phát triển tài năng
Tài năng là nhân tố then chốt để phát triển kinh tế trong thế kỷ 21, giúp duy trì sự
thịnh vượng kinh tế của mỗi quốc gia. Nhân tố quan trọng đem lại thành công cho
Singapo là khả năng Singapo đưa đất nước mình trở thành điểm đầu mối (Node) của
nhân tài quốc tế - nuôi dưỡng nguồn nhân tài của đất nước mình, đồng thời thu hút
nhân tài từ khắp nơi trên thế giới đến sinh cơ lập nghiệp ở Singapo.
Điều này đã và đang diễn ra. Những thành phố thành công trên toàn cầu hiện nay
chính là các trung tâm nhân tài toàn cầu. Các khu vực tăng trưởng ở Boston-

Cambridge và Thung lũng Silicon đã minh chứng rằng đầu tư và các cơ hội kinh tế đều
là kết quả của công cuộc phát triển nhân tài.
Nhân tài sẽ phải trở thành một ưu thế cạnh tranh mới của Singapo. Singapo cần phải
xây dựng một xã hội năng động và cởi mở, đem lại các cơ hội kinh tế cho những người
tài năng và có trí sáng tạo. Đặc biệt, công việc nghiên cứu sẽ là một hoạt động được
kết mạng cao độ và các nhà nghiên cứu sẽ được thu hút vào cộng đồng của những con
người yêu thích sáng tạo, luôn luôn tương tác, kích thích và thách thức nhau để tiến
lên.
Mục tiêu đặt ra là biến Singapo thành một “cục nam châm” có sức thu hút những tài
năng ưu tú trong các lĩnh vực KH&CN được chọn. Điều này sẽ giúp phát triển nền
kinh tế và biến Singapo thành cửa ngõ R&D của châu Á, tạo ra một con đường bền
vững để có được sự tăng trưởng kinh tế dài hạn. Song song với sự tăng trưởng các
ngành công nghiệp dựa vào tri thức của Singapo, sẽ cần phải đào tạo nhiều hơn các
nhà khoa học ở cấp sau đại học và tiến sỹ để phục vụ cho các ngành công nghệ cao
như y-sinh, dược phẩm…

2.2. CÁC HƢỚNG CHIẾN LƢỢC ĐỂ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH KH&CN

2.2.1. Thấm nhuần quan điểm coi KH&CN là nhân tố then chốt để cạnh tranh lâu
bền
Nhiều quốc gia đã ý thức được tầm quan trọng của KH&CN và đổi mới đối với sự
tăng trưởng kinh tế và đang thực hiện những bước đi cần thiết để củng cố các hệ thống
KH&CN và đổi mới của mình.
Báo cáo của OECD, “Triển vọng của KH&CN và Đổi mới 2004” đã nêu rõ sự cam
kết của Chính phủ các nước OECD để tăng cường hoạt động R&D nhằm thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế. Chính phủ các nước OECD đã cam kết tăng mức chi tiêu cho
R&D, cho dù nguồn ngân sách eo hẹp của mình. Nhiều quốc gia, cũng như Liên minh
châu Âu đã định ra các mục tiêu rõ ràng để nâng mức chi tiêu cho R&D, cả ở khu vực

21

Chính phủ lẫn khu vực tư nhân. Các khỏan kinh phí ngày càng gia tăng đã và đang
được đầu tư cho các lĩnh vực KH&CN mà có nhiều triển vọng đem lại giá trị lớn về
KT-XH, đặc biệt là CNTT, CNSH và công nghệ nano (CNNN). Các quốc gia, chẳng
hạn như Đan Mạch và Hà Lan đã thành lập những Quỹ đặc biệt để tài trợ cho hoạt
động nghiên cứu ở những lĩnh vực KH&CN ưu tiên của mình.

2.2.2. Định hướng R&D của Singapo
Uỷ ban ngang Bộ về R&D (MCRD) do Phó Thủ tướng, Tiến sỹ Tong Tan làm Chủ
tịch, đã được thành lập tháng 8/2004 để xem xét các chiến lược và phương hướng
R&D của Singapo.
Để thi hành nhiệm vụ này, MCRD đã tham quan các cơ quan và doanh nghiệp R&D
khác nhau thuộc khu vực Chính phủ và tư nhân. MCRD cũng tham quan 5 nuớc nhỏ,
nhưng có nền kinh tế phát triển, bao gồm Thụy Sỹ, Đan Mạch, Hà Lan, Thụy Điển và
Phần Lan để hiểu biết tốt hơn cách thức mà các nước đó đã tổ chức thành công để đạt
được sự tăng trưởng kinh tế cao và hiệu quả hoạt động KH&CN lớn, bền vững, mặc dù
quy mô dân số của họ tương đối nhỏ. Điều mà MCRD rút ra là:
(1) Các nhà lãnh đạo cấp cao của các nước trên đều rất coi trọng và thấy được tính
cấp bách của hoạt động R&D.
(2) Singapo cần phải tái chú trọng đối với chương trình nghị sự về nghiên cứu và
đổi mới của mình để theo kịp sự phát triển của quốc tế. Singapo cần đẩy mạnh công
cuộc biến đổi đất nước thành nền kinh tế định hướng vào đổi mới (Innovation-driven
Economy), cạnh tranh dựa trên tri thức và nhân tài và nhờ vậy sẽ tiến bước vào con
đường tăng trưởng kinh tế lâu bền.

2.2.3. Các mũi chiến lược then chốt của R&D
MCRD đã nhận dạng 5 mũi chiến lược then chốt cho các nỗ lực R&D trong 5 năm
(2006-2010), bao gồm:
(1) Huy động nhiều nguồn lực hơn cho R&D và tiếp tục có sự quan tâm của các
lãnh đạo cấp cao tới hoạt động R&D
Hiện tại, Singapo thua kém nhiều so với các nước tiên tiến khác xét về mức độ chi

tiêu cho R&D. Năm 2004, tổng chi tiêu cho R&D của Singapo so với GDP chỉ đạt
2,25%, trong khi GDP lại thấp hơn so với các nước phát triển.
Singapo cần phải đẩy mạnh hoạt động R&D của đất nước lên nhiều lần và phân bổ
thêm các nguồn kinh phí mới cho hoạt động này. Hội đồng Cố vấn Quốc tế của Cục
Phát triển Kinh tế (EDB) cũng thừa nhận sự cần thiết phải tăng kinh phí cho R&D.
Singapo đặt chỉ tiêu tăng chi phí cho R&D lên ít nhất 3% trong 5 năm tới. Đây sẽ là
khoản đầu tư quan trọng trong tương lai và sẽ có tác động lớn tới nền kinh tế.
Để đảm bảo tiếp tục có sự quan tâm của lãnh đạo cấp cao tới R&D, Singapo thành
lập một Hội đồng Cố vấn cấp cao, có tên gọi là Hội đồng về Nghiên cứu, Đổi mới và
Doanh nghiệp (RIEC), do Thủ tướng làm Chủ tịch, có chức năng hướng dẫn và lãnh
đạo công cuộc biến đổi nền kinh tế Singapo thông qua họat động nghiên cứu và đổi
mới. Hội đồng này được hỗ trợ bởi một Quỹ Nghiên cứu Quốc gia mới (NRF).
(2) Chú trọng vào các lĩnh vực R&D có tầm quan trọng về kinh tế
Singapo sẽ tập trung ngân sách nghiên cứu vào một số lượng nhỏ các lĩnh vực chiến
lược để phát triển đầy đủ các năng lực nghiên cứu ở các ngành công nghiệp có thể
cạnh tranh được về kinh tế.
Ngoài việc tiếp tục phát triển sâu thêm các năng lực ở các ngành chế tạo hiện có
như điện tử, hoá chất, kỹ thuật, y-sinh thông qua các khoản đầu tư tiếp tục cho R&D
và phát triển nguồn nhân lực, Singapo sẽ tìm kiếm các lĩnh vực tăng trưởng mới để

22
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế về lâu dài. Cục NRF đã nhận dạng 2 lĩnh vực có
nhiều tiềm năng tăng trưởng mạnh, đó là: (1) Lĩnh vực công nghệ môi trường và tài
nguyên nước, và (2) Lĩnh vực Phương tiện số và tương tác. Các Uỷ ban chỉ đạo cấp Bộ
đã được thành lập để khởi động sự phát triển ở 2 lĩnh vực này, điều phối các hoạt động
xuyên cơ quan ở các lĩnh vực phát triển ngành, nghiên cứu và giáo dục, hướng dẫn các
vấn đề chính sách có thể nảy-sinh.
(3) Cân đối giữa nghiên cứu hàn lâm và nghiên cứu hướng vào nhiệm vụ
Trong phạm vi các lĩnh vực đã lựa chọn, Singapo sẵn sàng cung cấp kinh phí cho
một loạt các nghiên cứu nằm trong một “phổ” rất rộng, bao gồm nghiên cứu cơ bản và

nghiên cứu ứng dụng.
Singapo sẽ hỗ trợ gia tăng cho nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở đem lại sự xuất sắc về khoa
học. Việc này giúp tạo ra tri thức mới và thu hút nhân tài đến Singapo. Để phục vụ mục tiêu
này, Quỹ Nghiên cứu và Hàn lâm (AcRF) gồm không chỉ phục vụ cho những nghiên cứu cơ
bản ở các trường đại học, mà còn cho những nghiên cứu hàn lâm, do các nhà nghiên cứu đề
xuất, mà có sự liên kết rộng với tầm nhìn dài hạn trong các mối quan tâm chiến lược của
Singapo. A*STAR (trực thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp-MTI) sẽ tiếp tục tạo động lực
cho các hoạt động nghiên cứu định hướng vào nhiệm vụ.
(4) Khuyến khích hơn nữa hoạt động R&D ở khu vực tư nhân
Càng ngày, khu vực tư nhân ở Singapo càng là một ưu tiên then chốt, vì các công ty
tư nhân là những chủ thể tốt nhất để đưa ra quyết định lĩnh vực R&D nào cần đầu tư
và liên kết các khoản đầu tư R&D với các cơ hội thương mại.
Trong thời gian trước mắt, sự gia tăng chi tiêu cho R&D ở khu vực tư nhân sẽ tiếp
tục phần lớn là bởi các MNC. Singapo sẽ xem xét những biện pháp khuyến khích để
bảo đảm tính hiệu quả tiếp theo của chúng trong việc thu hút các trung tâm R&D toàn
cầu đến đặt địa điểm ở Singapo.
Singapo sẽ huy động nhiều nguồn lực hơn để phân bổ cho các hoạt động thúc đẩy
này và đảm bảo thiết lập được một khung khổ để hỗ trợ chất lượng cao, bao gồm
nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao và các quy định bảo hộ sở hữu trí tuệ tinh xảo.
Một vấn đề quan trọng là cần phải tạo lập được một “sân chơi” khoáng đạt cho cộng
đồng nghiên cứu, giúp cho các nhà khoa học và kỹ sư tài năng có thể dễ dàng lưu
chuyển khắp các cơ quan hàn lâm, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong các mạng
công tác mở.
(5) Tăng cường mối quan hệ giữa R&D và doanh nghiệp
Đổi mới là mối quan tâm then chốt của nhiều quốc gia mà đang tìm cách duy trì khả
năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Ngay cả những quốc gia có truyền thống
từ lâu về những thành tích khoa học cũng đang ý thức được sự cần thiết phải củng cố
các khung khổ đổi mới của mình để đem lại lợi ích kinh tế cao hơn từ các công trình
nghiên cứu bằng cách tăng cường mối quan tâm giữa nghiên cứu và đổi mới.
Singapo sẽ củng cố mối quan hệ giữa các tổ chức tri thức và các cơ quan thực hiện

nghiên cứu như các trường đại học kỹ thuật, đại học tổng hợp, viện nghiên cứu và
doanh nghiệp. Các cơ quan này cần được nâng cao năng lực thương mại hoá các kết
quả nghiên cứu và xây dựng quan hệ cộng tác chặt chẽ hơn với khu vực công nghiệp.
Các cơ quan thực hiện nghiên cứu sẽ xem xét cách thức để củng cố khung khổ
chuyển giao công nghệ và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tinh xảo hơn, bao gồm cả việc
tiếp cận với tài chính, quản lý và tiếp thị các đổi mới.
Singapo sẽ phát triển các khung khổ đồng tài trợ mạnh giữa các chủ thể công và tư,
chẳng hạn như khuyến khích các trường đại học kỹ thuật liên kết với các Hiệp hội
công nghiệp để cộng tác thực hiện các sáng kiến R&D, với sự hỗ trợ của Chính phủ.

23
Đặc biệt, các cơ quan SPRING, Internet Singapo và EDB sẽ cộng tác chặt chẽ để
thúc đẩy các doanh nghiệp khởi nghiệp. Singapo sẽ chú trọng nhiều hơn đến các công
ty khởi sự và các doanh nghiệp tăng trưởng mới, nhất là những doanh nghiệp có liên
quan đến các lĩnh vực chiến lược đã được nhận dạng. Những nỗ lực này sẽ gieo mầm
cho sự tăng trưởng mới và tạo sức bật về kinh tế. Singapo sẽ tiếp tục thúc đẩy đổi mới
công nghệ và năng lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), có thể bổ sung cho
các MNC thông qua các chiến lược phát triển cụm kinh tế.

2.3. TẠO DỰNG MÔI TRƢỜNG CÔNG NGHỆ THUẬN LỢI ĐỂ DUY TRÌ
TĂNG TRƢỞNG CÔNG NGHIỆP
Singapo đã xây dựng các ưu tiên nghiên cứu của khu vực công trong 5 năm 2006-
2010, dựa trên Kế hoạch của ngành Chế tạo tới năm 2018 do EDB thiết kế và Lộ trình
CNTT-TT của IDA, cũng như Kế hoạch xây dựng Quốc gia CNTT tới năm 2015 (IN
2015).
Quá trình lập kế hoạch đã có sự tham gia của các chuyên gia và các nhà lãnh đạo từ
cộng đồng nghiên cứu và khu vực công nghiệp của Singapo và nước ngoài, cũng như
các cơ quan và Bộ then chốt. Quá trình này bao hàm việc xem xét một phạm vi công
nghệ rất rộng, đánh giá nhu cầu kết cấu hạ tầng KH&CN trong tương lai, các mối liên
kết giữa viện nghiên cứu và trường đại học, các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ,

xem xét hiện trạng và triển vọng của ngành công nghiệp, các nỗ lực được điều phối
của các cơ quan trong khu vực công.

2.3.1. Đối với ngành Chế tạo và Dịch vụ
Chế tạo và dịch vụ vẫn tiếp tục là 2 động lực để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của
Singapo trong một nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa. Hai mũi song hành này sẽ giúp
đảm bảo tính đa dạng của nền kinh tế và giúp Singapo đứng vững trước các chu kỳ
kinh doanh. Nó giúp tạo ra các việc làm tốt với các kỹ năng đa dạng và tạo cơ hội cho
mọi thành viên trong xã hội.
Singapo sẽ chú trọng tạo ra những nét khác biệt, độc đáo cho đất nước để trở thành
một địa điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế và đạt được vị thế hàng đầu trong
các cụm công nghiệp của mình. Điều này đòi hỏi phải có những năng lực hết sức đa
dạng, từ KH&CN cho đến các kỹ năng sáng tạo và bí quyết quản lý, cũng như sự chú
trọng đến những lĩnh vực riêng, có thế mạnh của mình.
Cơ sở chế tạo vào công nghệ vững chắc sẽ giúp Singapo thu hút được các hoạt động
R&D mũi nhọn, do vậy sẽ thu hút và neo giữ được các hoạt động công nghiệp có giá
trị gia tăng cao cho đất nước.
Các cụm công nghiệp chính trong khu vực chế tạo của Singapo gồm: điện tử, hoá
chất, y-sinh, kỹ thuật chính xác, kỹ thuật vận tải và các cụm công nghiệp chung. Các
cụm trong khu vực dịch vụ gồm: giáo dục, y tế, CNTT-TT và phương tiện, hậu cần,
dịch vụ kỹ thuật và môi trường, dịch vụ kinh doanh và ngành nghề.
Ở mỗi một cụm đó, Singapo đều đề ra mục tiêu duy trì vị thế hàng đầu hiện có,
đồng thời tích cực theo đuổi các lĩnh vực tăng trưởng mới, chẳng hạn như phát triển
các hình ảnh động và trò chơi điện tử, giáo dục, kỹ thuật môi trường và năng lực thay
thế. Ngoài ra, Singapo sẽ tiếp tục tìm kiếm các ngành công nghiệp tăng trưởng mới và
đang nổi.

2.3.2. Các kế hoạch công nghệ
Các kế hoạch phát triển công nghiệp được sự hỗ trợ bởi các kế hoạch công nghệ
tương ứng. Sự cộng tác chặt chẽ giữa khu vực công nghiệp với các viện nghiên cứu và


24
trường đại học là yếu tố cần thiết để đáp ứng các nhu cầu công nghệ của các Dự án và
sáng kiến công nghiệp chủ yếu.
EDB đã nhận dạng các lĩnh vực KH&CN và kỹ thuật cần thiết để đạt được các mức
đặt ra cho các cụm chế tạo và dịch vụ. Những lĩnh vực đó bao gồm các lĩnh vực
KH&CN được chú trọng cho từng cụm, cũng như các công nghệ có phạm vi rộng, liên
quan đến nhiều cụm khác nhau, chẳng hạn như công nghệ điện toán, công nghệ vật
liệu, CNNN và vi điện tử.

2.3.3. Các ưu tiên chiến lược của hoạt động nghiên cứu ở khu vực công
Những mục tiêu nghiên cứu chiến lược của A*STAR là:
* Neo giữ các cụm chế tạo có giá trị gia tăng cao thông qua việc phát triển theo
chiều sâu các năng lực R&D;
* Phát triển các ngành tăng trưởng mới, có cường độ R&D mạnh.
Do cơ sở nguồn năng lực nhỏ hẹp, nên các khoản đầu tư nghiên cứu ở khu vực công
phải được tập trung vào những lĩnh vực đã chọn để dồn mọi nỗ lực tạo dựng sức cạnh
tranh quốc tế. A*STAR nhằm vào các lĩnh vực KH&CN rộng có liên quan nhiều nhất
tới sự phát triển các ngành công nghiệp then chốt, y-sinh, điện tử, CNTT-TT và
phương tiện, hoá chất và kỹ thuật.
Ở những ngành có giá trị gia tăng cao, có những cơ hội tồn tại để đưa những hoạt
động hiện có lên những nấc thang cao hơn và R&D. Đặc biệt, các ngành, chẳng hạn
như ngành bán dẫn và ngành ổ cứng máy tính ở Singapo đang tham gia vào các ngành
có hàm lượng R&D cao ở toàn cầu. Những xu hướng chuyển địa điểm R&D ra nước
ngoài và ra khỏi 3 nền kinh tế trong tam giác Mỹ-châu Âu-Nhật Bản cũng có thể đưa
ra các cơ hội để Singapo tận dụng.
Ở những ngành khác, những tiến bộ KH&CN cũng có thể tạo ra những ngành công
nghiệp tăng trưởng mới, chẳng hạn như những tiến bộ của công nghệ sinh học
(CNSH), CNTT, CNNN, đặc biệt là ở những nơi hội tụ các lĩnh vực trên.


2.3.4. Những ưu tiên chiến lược của từng lĩnh vực cụ thể

2.3.4.1. Ưu tiên chiến lược của Hội đồng Nghiên cứu Y-sinh (BMRC)
Những nỗ lực của BMRC 5 năm qua đã tập trung vào công tác xây dựng kết cấu hạ
tầng để tiến hành R&D cơ bản về y-sinh thuộc đẳng cấp thế giới. Trong 5 năm tới, 5
viện nghiên cứu của BMRC sẽ tiếp tục phát triển theo chiều sâu các năng lực cốt lõi cơ
bản ở những lĩnh vực đặc thù để hỗ trợ cho ngành y-sinh đang tăng trưởng, biến những
sản phẩm nghiên cứu cơ bản thành những ứng dụng hữu ích cho y tế và thương mại.
Mục tiêu chung đặt ra là kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua những tiến bộ về
chăm sóc sức khoẻ con người.
Để tối ưu hoá những nguồn lực hạn chế của mình, BMRC sẽ đảm bảo để những
nghiên cứu trong phòng thí nghiệm có động lực bởi những nhu cầu lâm sàng thích
đáng hiện nay. Để thúc đẩy sự cộng tác, BMRC sẽ xây dựng các chương trình nghiên
cứu chiến lược theo chủ đề để tăng cường sự tham gia và quan hệ đối tác của các
nhóm nghiên cứu hữu quan.
5 lĩnh vực nghiên cứu then chốt trong lĩnh vực y-sinh đã được nhận dạng là sẽ có
tầm quan trọng đối với Singapo gồm:
(a) Phát minh dược phẩm;
(b) Chụp ảnh sinh học;
(c) Tế bào gốc;
(d) Nghiên cứu các nhóm họ gần (Cohort);

25
(e) Các phần tử đánh dấu sinh học (Biomarkers).
Những Chương trình này sẽ giao hòa với các năng lực y-sinh cốt lõi để phát triển
mạnh hơn nữa cụm công nghiệp y-sinh của Singapo.
* Phát triển theo chiều sâu các năng lực R&D cơ bản
Y-sinh là một lĩnh vực đa ngành, đòi hỏi phải có những cấu kiện lắp ráp cơ bản để
đảm bảo tạo ra các sản phẩm nằm trong toàn bộ chuỗi giá trị. Sinh học Phân tử và Sinh
học Tế bào sẽ tiếp tục đóng vai trò nền tảng cho các phát minh dược phẩm mới. Nhờ

áp dụng các công cụ mới, hiện các công nghệ mới và phương pháp luận mới đang
được phát triển để làm sáng tỏ các mạng lưới phức tạp của gen (Hệ gen học) và protein
(Protein học), giúp các nhà khoa học hiểu được các cơ chế quyết định sự sống và các
quá trình điều chỉnh sự sống ở con người, mầm bệnh và các loài mang bệnh truyền
nhiễm.
Với sự bùng nổ gần đây của các dữ liệu về gen và protein, những ứng dụng mới của
bộ môn Kỹ thuật sinh học điện toán (Computational Bio-Engineering) đang nổi lên
trong lĩnh vực cấu trúc và chức năng đại phân tử. Ngoài ra, tin-sinh học cung cấp công
cụ để lập mô hình các lộ trình sinh học phức tạp. Xử lý sinh học, cũng như Kỹ thuật
sinh học và CNNN là 2 lĩnh vực cơ bản nữa để giúp phát triển các năng lực trong chế
tạo vacxin và liệu pháp sinh học, cũng như trong các liệu pháp mới dùng CNNN để
dẫn nạp thuốc, chế tạo các bộ phận nhân tạo và cấy ghép, cũng như các thiết bị y tế.
Trong 5 năm tới, các viện nghiên cứu của BMRC sẽ phát triển sâu thêm các năng
lực cơ bản này. Điều này cũng tạo cơ hội quan hệ với cộng đồng y tế, nơi mà các phát
minh khoa học mới có thể được khai thác nhằm mục đích chữa trị. Để đạt được mục
đích này, BMRC sẽ tiếp tục thúc đẩy mối quan hệ giữa các nhà nghiên cứu cơ bản và
giới y học để tận dụng mọi tiềm năng tri thức có được ở Singapo.
* Xây dựng và củng cố trình độ chuyển hoá các kết quả nghiên cứu thành ứng dụng
thực tiễn
Các nỗ lực nghiên cứu y-sinh đòi hỏi phải đầu tư lâu dài. Các công ty Dược phẩm
xuyên quốc gia đang ngày càng có xu hướng thuê hoạt động R&D ở bên ngoài và các
công ty ngày càng ít có ý muốn nắm lấy các phát minh ban đầu để phát triển tiếp vì
cần phải đầu tư những nguồn lực lớn. Để đáp ứng với xu hướng toàn cầu này, trong đó
các viện nghiên cứu đóng vai trò ngày càng lớn trong lĩnh vực phát minh dược phẩm,
BMRC sẽ thành lập một phòng thí nghiệm phát triển ở trong nước để giúp nuôi dưỡng
những phát minh ở giai đoạn đầu của các viện nghiên cứu nhằm đưa chúng tới mức độ
đủ để khu vực công nghiệp có thể nắm bắt và đưa vào ứng dụng.
Năm 2004, BMRC đã thành lập Trung tâm Y học Phân tử (CMM) để làm cầu nối
giữa nghiên cứu cơ bản và y học lâm sàng. Với vai trò là một Chương trình hướng tới
các trung tâm nghiên cứu, CMM đặt ra mục tiêu kết hợp các nhà khoa học và các bác

sỹ từ các viện nghiên cứu, trường đại học và bệnh viện để đào tạo một loại hình các
nhà khoa học-bác sỹ mới.

2.3.4.2. Những ưu tiên chiến lược của Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật
(SERC)
SERC hỗ trợ 4 ngành công nghiệp chế tạo then chốt của Singapo, bao gồm Điện tử,
CNTT-TT, Hoá chất và Kỹ thuật. Các viện nghiên cứu của SERC phát triển các công
nghệ và năng lực liên quan để đáp ứng nhu cầu của các ngành chế tạo tương ứng.
SERC cũng tích cực giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh
tranh toàn cầu thông qua Chương trình Get-up. Ở đây, các viện nghiên cứu của SERC
đóng vai trò then chốt trong việc cung cấp trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao nhân lực
cho các doanh nghiệp Singapo. SERC sẽ tiếp tục đầu tư để phát triển công nghệ và sẽ

×