Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Năng lượng thế giới đến năm 2030

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 58 trang )


1

LỜI NÓI ĐẦU

Trữ lượng năng lượng truyền thống ngày càng cạn kiệt, nhưng nhu cầu và giá
năng lượng ngày càng cao đã khiến cho an ninh năng lượng luôn là vấn đề cấp bách.
Bước sang thế kỷ 21, vấn đề an ninh năng lượng ngày càng trở thành mối quan tâm to
lớn của mọi quốc gia. Trong thế kỷ này, nhân loại sẽ chứng kiến sự bùng nổ năng
lượng tái tạo, năng lượng ―xanh‖, để dần thay thế các nguồn năng lượng truyền thống
gây ô nhiễm và đang cạn dần. Đi đầu trong xu hướng này là các nước phát triển trong
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), đặc biệt là các nước phát triển thuộc
Liên minh châu Âu (EU).
Trong những thập kỷ vừa qua, nhất là sau năm 1970 - những năm khủng hoảng dầu lửa,
công nghệ sử dụng năng lượng tái tạo đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể. Hiện tại, các nguồn năng
lượng này chưa làm thay đổi cơ bản cơ cấu cân bằng năng lượng của thế giới, nhưng trong
tương lai cơ cấu này chắc chắn sẽ thay đổi khi vấn đề công nghệ và giá thành năng lượng tái
tạo được giải quyết. Tổng sản lượng điện sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo tăng
với tỷ lệ 2,9% mỗi năm, và tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm trong tổng sản lượng
điện thế giới được dự báo tăng từ 19% năm 2006 lên 21% năm 2030. Theo giới phân
tích, nhu cầu thế giới về năng lượng mặt trời, gió và các dạng năng lượng tái sinh khác sẽ tăng
mạnh vào giữa thế kỷ này, do lo ngại ngày một tăng về tình trạng Trái đất nóng lên. Năng
lượng tái tạo được dự đoán sẽ có bước nhảy vọt và đến tầm 2050 sẽ bắt đầu thách thức sự
thống trị hiện nay của các loại nhiên liệu hoá thạch.
Để giúp bạn đọc có thêm thông tin và hiểu sâu hơn về triển vọng sử dụng năng
lượng trong tương lai, Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia biên soạn Tổng luận
―NĂNG LƯỢNG THẾ GIỚI ĐẾN NĂM 2030 ‖.
Đây là một lĩnh vực rộng và sâu được xã hội quan tâm nên việc biên soạn nội
dung Tổng luận không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong bạn đọc chia sẻ và thông
cảm.



Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia

2
I. NHU CẦU NĂNG LƯỢNG VÀ VIỄN CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI
1.1. Toàn cảnh kinh tế thế giới
Tăng trưởng kinh tế là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với việc dự
báo những thay đổi trong sử dụng năng lượng. Trong giai đoạn 2006-2030, tăng
trưởng GDP trung bình hàng năm của thế giới được dự báo là 3,5%. Trong dài hạn,
năng lực sản xuất và dịch vụ tăng (mặt cung tăng) quyết định tiềm năng tăng trưởng
kinh tế của bất kỳ nước nào. Tiềm năng tăng trưởng chịu ảnh hưởng bởi sự tăng
trưởng dân số, tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động, tích luỹ tư bản và cải thiện năng
lực sản xuất. Bên cạnh đó, đối với các nước đang phát triển, quá trình xây dựng cơ sở
hạ tầng, đào tạo nhân lực, thiết lập cơ chế điều tiết, kiểm soát thị trường và đảm bảo ổn
định chính sách đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc xác định tiềm năng tăng
trưởng từ trung đến dài hạn của các nước này.
Mức tăng trưởng GDP trung bình của thế giới được dự báo trong 24 năm (2006-
2030) cũng bằng với mức tăng trưởng đã được ghi nhận trong 24 năm qua. Sự tăng
trưởng trong các nền kinh tế công nghiệp của OECD được dự báo là sẽ chậm hơn
trong tương lai. Ngược lại sự tăng trưởng trong các nền kinh tế mới nổi ngoài OECD
được dự báo là sẽ cao trong tương lai. Tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong
giai đoạn 1982-2006 của các nước trong OECD là 2,9%, nhưng tỷ lệ này được dự báo
là sẽ chỉ còn khoảng 2,2% trong giai đoạn 2006-2030. Ngược lại, GDP bình quân của
các nước ngoài OECD tăng trung bình là 4,1% trong 25 năm qua và tỷ lệ này được dự
báo sẽ là 4,9% trong 24 năm tới (2006-2030), chủ yếu do mức tăng trưởng cao được
dự báo ở Trung Quốc và Ấn Độ. Các nước ngoài OECD chiếm tỷ lệ tăng trưởng GDP
bình quân thế giới ngày càng tăng, do sự tăng trưởng kinh tế cao và sự giảm tăng
trưởng của các nước OECD.
Mặc dù nhiều nền kinh tế ngoài OECD - đặc biệt là những nền kinh tế phụ thuộc
lớn vào xuất khẩu – có mức tăng trưởng chậm lại do suy giảm kinh tế thế giới bắt

nguồn từ các nền kinh tế OECD, nhưng một số cải cách có ý nghĩa đã được thực hiện
trong vài năm qua một số nước chủ chốt ngoài OECD đã phát huy tác dụng và làm
tăng thêm hy vọng về một sự phục hồi tăng trưởng mạnh trong dài hạn. Các chính sách
kinh tế vĩ mô được hoàn thiện, tự do hoá thương mại, chế độ tỷ giá trao đổi linh hoạt
và giảm thâm hụt ngân khố đã làm giảm tỷ lệ lạm phát của quốc gia, giảm sự bất ổn và
cải thiện môi trường đầu tư. Nhũng cải cách về cấu trúc kinh tế vĩ mô hơn nữa, như tư
nhân hoá và sửa đổi chính sách cũng đóng vai trò then chốt. Nhìn chung, những cải
cách này đều tác động tới tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trong thập kỷ qua ở nhiều nước
đang phát triển. Xu hướng này được dự báo là sẽ tiếp tục diễn ra khi các nền kinh tế
OECD phục hồi để thoát khỏi tình trạng suy thoái hiện nay.
Bảng 3: GDP thế giới theo nhóm nước, 2006-2030,
(tỷ USD)

Nhóm nước
2006
2010
2015
2020
2025
2030
Tỷ lệ tăng trưởng
hàng năm, 2006-
2030 (%)
OECD
35.221
37.133
42.403
47.466
52.996
59.264

2,2
Bắc Mỹ
15.331
16.073
18.789
21.341
24.283
27.802
2,5

3
EU
14.224
15.015
16.839
18.811
20.894
23.105
2,0
Châu Á
5.667
6.045
6.775
7.314
7.819
8.357
1,6
Ngoài OECD
24.717
31.723

41.529
52.907
65.062
78.220
4,9
Châu âu và Eurasia
3.159
3.940
4.865
5.725
6.536
7.381
3,6
Châu Á
13.408
17.934
24.606
32.726
41.428
50.834
5,7
Trung Đông
2.053
2.484
3.030
3.621
4.300
5.102
3,9
Châu Phi

2.341
2.870
3.612
4.384
5.182
5.958
4,0
Trung và Nam Mỹ
3.757
4.495
5.415
6.450
7.615
8.945
3,7
Toàn thế giới
59.939
68.856
83.932
100.373
118.058
137.484
3,5

Các nền kinh tế OECD
Tăng trưởng kinh tế Mỹ chậm đáng kể trong ngắn hạn do tình trạng suy thoái của
thị trường tài chính. Năm 2009, Mỹ được dự báo là có mức tăng trưởng GDP thực tế
âm và chỉ bắt đầu có dấu hiệu phục hồi trong quý 4/2009. Sự suy thoái này được coi là
tồi tệ hơn hai lần suy thoái trước đó (bắt đầu từ các năm 1991 và 2001). Tỷ lệ tăng
trưởng GDP thực tế phụ thuộc chủ yếu vào sự tăng trưởng lực lượng lao động và năng

suất lao động. Dự báo mức tăng trưởng GDP thực tế bình quân của Mỹ trong giai đoạn
2006-2030 là 2,4%.
Cũng giống với phần lớn các nước khác, Canada cũng có mức tăng trưởng kinh
tế chậm, năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của nước này chỉ đạt 0,5%, trong khi các
năm trước mức tăng trưởng này đạt 3%. Nền kinh tế của nước này bị tác động mạnh
bởi sự suy giảm kinh tế toàn cầu và sự sụt giảm nhanh giá năng lượng, đã làm cho thu
nhập từ khai thác năng lượng của nước này giảm mạnh. Hệ thống ngân hàng của
Canada với độ ―mở‖ tương đối hẹp nên chịu sự tác động tương đối hạn chế của khủng
hoảng tài chính trong năm 2007-2008.
Do có mối liên hệ gần gũi với nền kinh tế Mỹ, nên Mêxico cũng chịu sự tác động
tiêu cực của cuộc khủng hoảng hiện nay. Khoảng 80% xuất khẩu của Mêxico là sang
Mỹ và khi nền kinh tế Mỹ suy giảm thì cũng kéo theo sự suy giảm của kinh tế Mêxico.
Giá dầu tăng cao trở lại và kinh tế Mỹ phục hồi sau năm 2010 sẽ giúp phục hồi tăng
trưởng của Mêxico, với GDP tăng khoảng 3,4% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2030.
Các nền kinh tế thuộc OECD khu vực châu Âu cũng đang bị ảnh hưởng bởi sự
biến động của các thị trường tài chính quốc tế và suy thoái kinh tế. GDP bình quân của
khu vực này giảm mạnh, từ 3,4% năm 2006 và 3,1% năm 2007 xuống còn 1,4% năm
2008 và dự báo chỉ còn 0,2% năm 2009. Về dài hạn, tăng trưởng GDP của khu vực
này được kỳ vọng là khoảng 2% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2030. Theo Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF), những hy vọng về sự tăng trưởng dài hạn của các nước OECD khu
vực châu Âu phụ thuộc vào khả năng đẩy mạnh việc cải thiện năng suất lao động (một
phần do dân số già đi) và cải thiện mức độ linh hoạt của cấu trúc kinh tế.
Sau khi duy trì được mức tăng trưởng ổn định 2% hàng năm trong giai đoạn
2003-2007, tỷ lệ tăng trưởng GDP của Nhật Bản đã giảm xuống còn 0,4% năm 2008.
Trong quý 4/2008, xuất khẩu của nước này giảm 14% và giá trị sản xuất công nghiệp
giảm 20%. Mặc dù tăng trưởng GDP có thể trở lại khi tình hình kinh tế của phần còn
lại của thế giới được cải thiện sau năm 2010, nhưng sự suy giảm liên tục của lực lượng

4
lao động đang già hoá của Nhật Bản sẽ làm giảm sự tăng trưởng kinh tế của nước này.

Ước tính mức tăng trưởng chỉ đạt 1,3% hàng năm từ năm 2008 đến 2015 và 0,5% từ
2015 đến 2030.
Sự tăng trưởng kinh tế cũng sẽ sớm trở lại đối với phần còn lại của OECD khu
vực châu Á. Tại Hàn Quốc, tăng trưởng GDP được dự báo đạt ở mức trung bình 3,3%
mỗi năm trong giai đoạn 2006-2030. Sự suy giảm kinh tế toàn cầu đã dẫn tới sự suy
giảm về xuất khẩu và cầu nội địa, mặc dù Ngân hàng Hàn Quốc (Bank of Korea) đã cố
gắng nới lỏng áp lực trên thị trường tài chính (bằng việc 6 lần hạ thấp tỷ lệ lãi suất từ
tháng 10/2008 đến 2/2009, xuống mức 2%, và bằng cách tăng lượng vốn vay thương
mại có tỷ lệ lãi suất thấp từ 6 tỷ USD lên 6,73 tỷ USD). Với cầu thế giới bắt đầu được
cải thiện sau năm 2010, tăng trưởng GDP Hàn Quốc được kỳ vọng là sẽ trở lại. Tuy
nhiên, trong dài hạn, sự tăng trưởng này được dự báo là sẽ chậm do sự tăng trưởng dân
số chậm lại của nước này.
Tăng trưởng GDP tại Ôxtrâylia và New Zealand được dự báo là khoảng 3% mỗi
năm từ 2006 đến 2030. Hai nước này cũng chịu sự tác động của suy giảm kinh tế toàn
cầu, cho dù sự tác động này không lớn do ngân hàng trung ương của hai nước đã có
những biện pháp hiệu quả để quản lý về mặt tiền tệ. Bên cạnh đó, họ cũng thực hiện
một số cải cách nhằm duy trì tính cạnh tranh của hàng hoá và sự linh hoạt của thị
trường lao động.
Các nền kinh tế không thuộc OECD
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình ở các nước ngoài OECD khu vực châu Âu
và Eurasia (bao gồm nước Nga và các nước ở Trung Á và Đông Âu - không phải toàn
bộ châu Á và châu Âu) được dự báo là khoảng 3,6% mỗi năm trong giai đoạn 2006-
2030. Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế của khu vực này đã đạt mức cao, do
cầu nội địa cũng tăng cao và giá năng lượng tăng cao có lợi cho các nước xuất khẩu
năng lượng (Nga, Kazakhstan, Azerbaijan và Turkmenistan). Tuy nhiên do suy thoái
kinh tế toàn cầu, giá dầu giảm, vốn vay các định chế tài chính quốc tế khó khăn do
khủng hoảng tài chính, đặc biệt tác động tới các nước như Nga, Kazakhstan và
Ukraina. Điều này khiến cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia này chậm lại trong
ngắn hạn. Tuy nhiên, trong trung và dài hạn có thể giá dầu tăng và kéo theo sự tăng
trưởng kinh tế trở lại ở các nước này.

Trong giai đoạn 2006-2030, tâm điểm của sự tăng trưởng kinh tế thế giới được
dự báo là thuộc về khu vực ngoài OECD ở châu Á. Tại khu vực này, tăng trưởng GDP
được dự báo là ở mức 5,7% mỗi năm. Trung Quốc, nền kinh tế lớn nhất ngoài OECD
khu vực châu Á, tiếp tục đóng vai trò chính cả về cung và cầu của kinh tế toàn cầu.
Toàn cảnh IEO2009 dự báo mức tăng trưởng kinh tế hàng năm của Trung Quốc là
6,4% giai đoạn 2006-2030, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới. Sáu năm kể từ khi gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tốc độ tăng trưởng GDP liên tục đạt mức bình
quân trên 10%, đưa Trung Quốc vượt Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới
năm 2007, dự trữ ngoại tệ đạt 1.520 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong
năm 2007 đạt 2.170 tỷ USD, sản lượng lương thực liên tục tăng và đạt mức trên 500
triệu tấn trong năm 2007… GDP của Trung Quốc năm 2008 vẫn tăng 10,7% mặc dù

5
tốc độ tăng trưởng có giảm so với năm 2007. GDP tăng 10,6% trong 3 tháng đầu năm
2009.
Số liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) công bố gần đây cho biết, tốc độ tăng
trưởng kinh tế thế giới năm 2008 là 3,4 %. Trong đó tăng trưởng kinh tế của các nước
phát triển là 1%, tăng trưởng kinh tế của các thị trường mới nổi và các quốc gia đang
phát triển là 6,3%. Tăng trưởng của Brazil là 5,8%. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới
―ảm đạm‖, sự phát triển của kinh tế Trung Quốc vẫn là khả quan nhất. Cho dù suy
thoái kinh tế toàn cầu tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu, GDP 2009 của Trung
Quốc có thể đạt 8,3%, trong khi tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 17,8%. 35%
GDP của Trung Quốc là từ xuất khẩu, trong đó xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, EU
và châu Á chiếm 70% tổng giá trị xuất khẩu.
Sự suy giảm kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh tới xuất khẩu của Trung Quốc,
dẫn tới tăng trưởng kinh tế của nước này có phần suy giảm trong ngắn hạn. Các vấn đề
về cấu trúc cũng có tác động tới tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong trung và dài hạn,
như vấn đề cải tổ các công ty nhà nước kém hiệu quả, cải tổ hệ thống ngân hàng.
IEO2009 dự báo sự phát triển nhanh của các thị trường tài chính nước này vẫn tiếp tục
và tạo sự ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo cho tiết kiệm nội địa nước này lớn nhất.

Một nền kinh tế đang lớn mạnh khác ở ngoài OECD khu vực châu Á là Ấn Độ.
Mặc dù nền kinh tế Ấn Độ không phụ thuộc nhiều vào thu nhập từ xuất khẩu như
Trung Quốc, nhưng sự tăng trưởng của nền kinh tế nước này vẫn chậm do chịu tác
động từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu, nhất là tác động tới đầu ra của các ngành công
nghiệp và nông nghiệp Ấn Độ. Gần 2/3 các hộ gia đình Ấn Độ sống dựa vào nông
nghiệp. Tăng trưởng GDP của nước này được dự báo là chậm trong ngắn hạn và phục
hồi tăng trưởng nhanh trong trung và dài hạn. Nước này cũng đang trong quá trình tư
nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước và thông qua các chính sách thị trường tự do.
Báo cáo Toàn cảnh Năng lượng Quốc tế (IEO2009) dự báo tăng trưởng kinh tế Ấn Độ
đạt 5,6% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2030.
Ngoài Ấn Độ và Trung Quốc, tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu lên các
nước ngoài OECD khu vực châu Á là rất rõ nét. Các nền kinh tế dựa vào xuất khẩu
(Hong Kong, Singapo và Đài Loan) cũng trở nên ―yếu‖ hơn trong ngắn hạn, khi cầu ở
Mỹ, EU và châu Á giảm. Đối với các nước mà ở đó cầu nội địa vẫn cao (như Việt
Nam và Philippin), thì tác động suy thoái toàn cầu ít trầm trọng hơn. Nhìn chung, hoạt
động kinh tế trong dài hạn ở các quốc gia ngoài OECD khu vực châu Á được nhận
định là sẽ khởi sắc. Trong giai đoạn 2006-2030, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của khu vực
này (trừ Trung Quốc và Ấn Độ) là khoảng 4,8% mỗi năm, kèm theo tỷ lệ tăng trưởng
của lực lượng lao động giảm và các nền kinh tế có xu hướng phát triển chững lại.
Sản xuất dầu và giá dầu đều có xu hướng tăng đã giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế ở các nước xuất khẩu dầu, chủ yếu ở Trung Đông. Trong những năm gần đây, tỷ lệ
tăng trưởng GDP thực tế ở Trung Đông trung bình khoảng 6%. Mặc dù sự sụt giảm giá
dầu thế giới làm chậm sự tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, nhưng trong trung và dài
hạn sự tăng trưởng này sẽ được phục hồi nhờ giá dầu có xu hướng tăng.

6















History

Tăng trưởng cao
Mức dự báo

Tăng trưởng thấp






Dự báo





Đối với các nền kinh tế châu Phi, IEO2009 dự báo tăng trưởng kinh tế khu vực
này là khoảng 4% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2030, so với 5% trong giai đoạn

2000-2007, chủ yếu sự tăng trưởng là từ xuất khẩu năng lượng hoá thạch và cầu nội
địa tăng. Tuy nhiên, các yếu tố chính trị và kinh tế, như tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm thấp,
chính phủ yếu kém, chất lượng cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực hạn chế, thêm vào đó
là các dịch bệnh (nhất là HIV/ADIS) là những rào cản lớn cho tăng trưởng kinh tế của
các nước châu Phi.
Hình 4: Tiêu thụ năng lượng thế giới theo 3 kịch bản tăng trưởng kinh tế thế giới 1980-
2030
(triệu tỷ Btu)

800


600


400


200



1980 1995 2006 2015 2030
1.2. Nhu cầu năng lượng thế giới theo nhóm nước
Báo cáo Toàn cảnh Năng lượng Quốc tế (IEO2009) của Cơ quan Thông tin Năng
lượng Mỹ dự báo rằng tiêu thụ năng lượng thế giới tăng 44% trong giai đoạn 2006-
2030. Nhu cầu năng lượng tăng mạnh nhất thuộc về các nước trong Tổ chức Họp tác
và Phát triển Kinh tế (OECD).
Theo IEO2009, tiêu thụ năng lượng thế giới tăng từ 472,4 triệu tỷ Btu (472
quadrillion Btu) năm 2006 lên 551,5 triệu tỷ Btu năm 2015 và 678,3 triệu tỷ Btu năm

2030 – tăng tổng cộng 44% trong giai đoạn 2006-2030. Tổng mức sử dụng năng lượng
của thế giới năm 2030 ước tính thấp hơn 2% mức dự báo của IEO2008, chủ yếu do
mức tăng trưởng kinh tế chậm lại trong năm nay.
Sự suy giảm kinh tế hiện nay làm giảm nhu cầu về năng lượng trong ngắn hạn,
do nhu cầu tiêu dùng và chế tạo sản phẩm và dịch vụ chững lại. Tuy nhiên, phần lớn
các nước sẽ lại bắt đầu phục hồi xu hướng tăng trưởng kinh tế trong vòng từ 12 đến 24
tháng tới.
Phần lớn các nước OECD có cơ sở hạ tầng năng lượng tốt nhất thế giới. Bên
cạnh đó, họ chiếm phần lớn mức tiêu thụ năng lượng thế giới hiện nay. Tuy nhiên mức
tiêu thụ năng lượng của một số nền kinh tế mới nổi ngoài OECD có nhiều khả năng
gia tăng. Năm 2006, 51% năng lượng tiêu thụ trên thế giới là nằm trong khu vực
OECD, nhưng tỷ lệ này sẽ tăng trưởng chậm trong giai đoạn 2006-2030, trung bình
0,6%/năm, trong khi tỷ lệ này ở các nền kinh tế mới nổi bên ngoài OECD là 2,3%.

7
Bảng1: Dự báo tiêu thụ năng lượng trên thế giới theo nhóm nước, 2006-2030 (đơn vị:
Triệu tỷ Btu)
Nhóm nước
2006
2010
2015
2020
2025
2030
Tỷ lệ tăng
trung bình
hàng năm từ
2006-2030
(%)
OECD

241,7
242,8
252,4
261,3
269,5
278,2
0,6
Bắc Mỹ
121,3
121,1
125,9
130,3
135,6
141,7
0,6
Châu Âu
81,6
82,2
84,8
87,9
90,0
91,8
0,5
Châu Á
38,7
39,5
41,8
43,1
43,9
44,6

0,6
Ngoài OECD
230,8
265,4
299,1
334,4
367,8
400,1
2,3
Châu Âu và
Nga
50,7
54,0
57,6
60,3
62,0
63,3
0,9
Châu Á
117,6
139,2
163,2
190,3
215,4
239,6
3,0
Trung Đông
23,8
27,7
30,3

32,2
34,6
37,7
1,9
Châu Phi
14,5
16,2
17,7
19,1
20,6
21,8
1,7
Trung và
Nam Mỹ
24,2
28,3
30,3
32,5
35,2
37,7
1,9
Toàn thế giới
472,4
508,3
551,5
595,7
637,3
678,3
1,5


Trung Quốc và Ấn Độ là những nền kinh tế ngoài OECD có tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất và là hai nước tiêu thụ năng lượng chính trong tương lai. Từ năm 1990,
tiêu thụ năng lượng của hai nước này tăng nhanh. Nếu như năm 1990 tỷ lệ tiêu thụ
năng lượng của hai nước mới chỉ chiếm 10% tổng tiêu thụ năng lượng thế giới, thì đến
năm 2006, tỷ lệ này đã là 19%. Trong giai đoạn 2006-2030, với tốc độ phát triển
nhanh về kinh tế, hai nước này sẽ còn chiếm tỷ lệ tiêu thụ năng lượng nhiều hơn, có
thể đạt tỷ lệ 28% của thế giới vào năm 2030. Ngược lại, tỷ lệ này của Mỹ giảm từ 21%
năm 2006 xuống khoảng 17% năm 2030.

Hình 1: Tiêu thụ năng lượng thế giới: các nước thuộc OECD và ngoài OECD từ năm
1980 và dự báo đến 2030 (đơn vị: triệu tỷ Btu)


8
Hình 2: Dự báo tiêu thụ năng lượng của Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ từ năm 1990 đến
2030 (đơn vị: triệu tỷ Btu)

Các nước ngoài OECD khu vực châu Á, có mức tăng trưởng tiêu thụ năng lượng
mạnh nhất so với các khu vực khác, tỷ lệ có thể đạt 104% từ năm 2006 đến 2030. Các
nước ngoài OECD khu vực Trung Đông, Trung và Nam Mỹ cũng có mức tiêu thụ
năng lượng tăng cao, lần lượt khoảng 60% và 50%, so với 25% của các nước ngoài
OECD khu vực châu Âu.
1.3. Tiêu thụ năng lượng thế giới theo dạng năng lượng
Nhìn chung việc sử dụng các dạng năng lượng đều tăng trong giai đoạn 2006-
2030. Giá dầu thế giới vẫn sẽ tương đối cao. Mức tăng trưởng tiêu dùng các nhiên liệu
lỏng khoảng 0,9% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2030. Các nguồn năng lượng tái tạo
có mức tăng trưởng nhanh nhất , mức tiêu thụ tăng khoảng 3% mỗi năm. Việc sử dụng
các nguồn năng lượng hoá thạch kéo theo vấn đề môi trường và nhiều chính phủ trên
thế giới sẽ tiếp tục khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo.
Hình 3: Tiêu thụ năng lượng thế giới theo dạng năng lượng từ năm 1980 và dự

báo đến 2030 (đơn vị: triệu tỷ Btu)

Phần còn lại của thế giới
Tiêu thụ năng lượng của Mỹ
Tiêu thụ năng lượng của
Trung Quốc và Ấn Độ
Năng lượng tái tạo
(không gồm nhiên liệu
sinh học)
Năng lượng nguyên tử
Gas tự nhiên
Than
Năng lượng dạng lỏng
(cả nhiên liệu sinh học)

9
Mặc dù các nguồn nhiên liệu lỏng (trong đó có nhiên liệu sinh học) vẫn là nguồn
năng lượng lớn, nhưng tỷ lệ nhiên liệu lỏng được tiêu thụ trên thị trường năng lượng
thế giới sẽ giảm từ 36% năm 2006 xuống 32% năm 2030. Trong gia đoạn dự báo, việc
tiêu thụ nhiên liệu lỏng trong các hộ gia đình, trong thương mại và sản xuất điện sẽ
giảm. Cụ thể việc sản xuất điện bằng nhiên liệu lỏng sẽ giảm 0,3% mỗi năm. Tuy
nhiên, các nước Trung Đông vẫn tiếp tục dựa vào nhiên liệu lỏng để sản xuất điện.
Trong lĩnh vực vận tải, tiêu thụ nhiên liệu lỏng vẫn chiếm tỷ lệ lớn, do thiếu
những tiến bộ công nghệ đột phá. Trong khu vực công nghiệp, tiêu thụ nhiên liệu lỏng
tăng trung bình khoảng 1,8% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2030.
Gas tự nhiên vẫn là dạng nhiên liệu quan trọng trong sản xuất điện trên thế giới,
do có hiệu quả hơn và ít chất thải cacbon hơn các năng lượng hoá thạch khác. Tiêu thụ
gas tự nhiên của thế giới được dự báo là sẽ tăng từ 104 nghìn tỷ feet khối (cubic feet)
năm 2006 lên 153 nghìn tỷ feet khối năm 2030, tăng trung bình 1,6% mỗi năm.
Tiêu thụ than thế giới cũng sẽ tăng trung bình 1,7% từ năm 2006 đến 2030. Mức

tăng cụ thể trong giai đoạn 2006 đến 2015 là 23 triệu tỷ Btu, giai đoạn 2015 – 2030 là
40 triệu tỷ Btu. Tiêu thụ than sẽ chiếm 28% tổng tiêu thụ năng lượng toàn cầu vào năm
2030. Do thiếu những quy định pháp luật để hạn chế việc sử dụng than, Mỹ, Trung
Quốc và Ấn Độ vẫn tiếp tục tiêu thụ nhiều nhất nguồn năng lượng hoá thạch này thay
vì sử dụng những nguồn năng lượng khác tốn kém hơn. 3 nước này được dự báo là sẽ
chiếm tới 88% mức gia tăng tiêu thụ than thế giới giai đoạn 2006-2030. Ngược lại, các
nước OECD khu vực châu Âu và Nhật Bản sẽ giảm mức tiêu thụ than, do dân số cũng
như nhu cầu điện năng tăng chậm , trong khi các nguồn năng lượng tái tạo, gas tự
nhiên và năng lượng hạt nhân được lựa chọn sử dụng hơn.
Sản xuất điện thế giới được dự báo là sẽ tăng từ 18 nghìn tỷ kWh năm 2006 lên
31,8 nghìn tỷ kWh vào năm 2030. Mức tăng sản lượng điện mạnh nhất được dự báo là
thuộc về các nước ngoài OECD. Các nước này có tỷ lệ tăng sản xuất điện hàng năm là
3,5%, chủ yếu do nhu cầu điện gia tăng trong các hộ gia đình, dịch vụ và thương mại.
Ngược lại, các nước OECD nơi có cơ sở hạ tầng đã được phát triển tốt và dân số tăng
chậm, thì có mức tăng trưởng trong sản xuất và tiêu thụ điện chậm hơn, với tỷ lệ tăng
trung bình hàng năm khoảng 1,2% giai đoạn 2006-2030.
Hiện nay trên thế giới, gas tự nhiên và than vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong sản
xuất điện năng, khoảng hơn 60%. Đây vẫn là 2 nguồn năng lượng quan trọng nhất
trong sản xuất điện năng vào năm 2030, dự báo tỷ lệ này tăng lên 64%. Trong các
nước ngoài OECD ở khu vực châu Á, các mỏ than vẫn còn trữ lượng nhiều, hơn nữa
giá dầu và gas tự nhiên cao hơn, khiến than vẫn là nguồn năng lượng rẻ cho sản xuất
điện.
Các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ cho sản xuất điện năng có tốc độ tăng
trưởng cao nhất, mức tăng trung bình hàng năm được dự báo là 2,9% trong giai đoạn
2006-2030. Tăng mạnh nhất là sản xuất điện năng từ thuỷ điện và năng lượng gió.
Trong số 3,3 nghìn tỷ kWh điện được tạo ra từ năng lượng tái tạo thì có 1,8 nghìn tỷ
kWh là từ thuỷ điện (chiếm 54%) và 1,1 nghìn tỷ kWh là từ nguồn năng lượng gió
(33%). Trừ thuỷ điện, nhìn chung giá thành sản xuất điện từ năng lượng tái tạo vẫn cao

10

hơn so với năng lượng hoá thạch, do chi phí đầu tư công nghệ năng lượng mới cao. Do
vậy các chính sách của chính phủ là rất cần thiết cho phát triển các nguồn năng lượng
tái tạo.
Xu hướng khá nổi bật tại các nước OECD là họ phát triển mạnh các nguồn năng
lượng tái tạo, trừ thuỷ điện. Ngoại trừ Canada và Thổ Nhỹ Kỳ, có rất ít các dự án thuỷ
điện lớn được đưa ra. Ngược lại với các nước OECD, các nước ngoài OECD lại đang
có xu hướng phát triển mạnh thuỷ điện, với các dự án xây dựng các nhà máy thuỷ điện
cỡ lớn và trung bình, chẳng hạn tại Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin, Việt Nam và Lào. Tỷ
lệ tăng trưởng phong điện cũng được cho là sẽ tăng cao trong các nước ngoài OECD,
đặc biệt là tại Trung Quốc - nước này chiếm 88% mức tăng trưởng phong điện trong
các nước ngoài OECD. Từ 2 tỷ kWh năm 2006, sản xuất phong điện của Trung Quốc
được dự báo là sẽ tăng lên 315 tỷ kWh vào năm 2030.
Sản xuất điện từ năng lượng nguyên tử trên thế giới được dự báo sẽ tăng từ 2,7
nghìn tỷ kWh năm 2006 lên 3 nghìn tỷ kWh năm 2015 và 3,8 nghìn tỷ kWh vào năm
2030. Giá nhiên liệu hoá thạch tăng, an ninh năng lượng và khí thải gây hiệu ứng nhà
kính là những lý do chính khiến cho nhiều nước phát triển điện hạt nhân. Phần lớn việc
mở rọng năng lực sản xuất điện hạt nhân sẽ thuộc về các nước ngoài OECD. Đặc biệt,
Trung Quốc, Ấn Độ và Nga là những nước sẽ chiếm tới gần 2/3 lượng gia tăng điện
hạt nhân trong giai đoạn 2006-2030. Trung Quốc được dự báo là sẽ nâng năng lực sản
xuất điện hạt nhân lên thêm 47 gigawatts (GW) trong giai đoạn 2006 – 2030. Con số
này ở Ấn Độ được dự báo là 17 GW và Nga là 21 GW. Nhiều nước OECD với các
chương trình hạt nhân hiện có cũng gia tăng thêm năng lực sản xuất điện hạt nhân,
chẳng hạn Hàn Quốc là 13 GW, Nhật Bản 8 GW và Mỹ 12 GW.
Tại Mỹ, Luật Chính sách Năng lượng 2005 (Energy Policy Act of 2005) cho
phép Bộ Năng lượng Mỹ có nguồn vốn phục vụ các hoạt động đổi mới công nghệ
nhằm tránh hoặc giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Bên cạnh đó, các điều khoản bổ
sung của Luật năm 2008 cho phép chi 18,5 tỷ USD cho xây dựng các nhà máy điện hạt
nhân. Đạo luật này cùng với bối cảnh giá nhiên liệu hoá thạch tăng cao khiến cho nước
này phải mở rộng năng lực sản xuất điện hạt nhân thêm 12,7 GW, nhờ xây dựng thêm
các nhà máy điện hạt nhân và nâng cấp các nhà máy hiện có trong giai đoạn 2006-

2030.
1.4. Phân phối năng lượng theo khu vực sử dụng
Khu vực dân cư
Năng lượng được tiêu thụ trong khu vực dân cư, hộ gia đình chiếm 15% năng
lượng tiêu thụ của thế giới năm 2006. Trong các khu nhà ở năng lượng được sử dụng
chủ yếu để chạy máy sưởi, điều hoà và các thiết bị điện tử khác. Việc sử dụng năng
lượng ở dân cư cũng khác nhau tuỳ theo từng nước, tuỳ theo thu nhập, nguồn tài
nguyên sẵn có, khí hậu và cơ sở hạ tầng năng lượng. Nhìn chung người dân ở các nước
OECD có mức tiêu thụ năng lượng cao hơn ở các nước ngoài OECD, chủ yếu do mức
thu nhập của các hộ gia đình của các nước OECD cao hơn, diện tích này ở rộng hơn và
sử dụng nhiều thiết bị tiêu thụ năng lượng hơn. Chẳng hạn tại Mỹ, năm 2006 GDP
bình quân đầu người là khoảng 43.000 USD và mức tiêu thụ năng lượng bình quân đầu

11
người trong các hộ gia đình là khoảng 36 triệu Btu. Trong khi đó tại Trung Quốc, GDP
bình quân đầu người chỉ đạt 4550 USD và lượng năng lượng tiêu thụ cũng chỉ 4 triệu
Btu.
Nhiều hộ gia đình ở các nước ngoài OECD vẫn dựa chủ yếu vào các nguồn năng
lượng truyền thống, không được mua bán trên thị trường, như củi và các phế phẩm để
sưởi và nấu nướng. Nhiều nước châu Phi còn chưa có điện. Cơ quan Năng lượng Quốc
tế nhận định rằng phần lớn các hộ gia đình ở cận sa mạc Sahara (châu Phi) vẫn dựa
vào củi đốt để nấu nướng. Hơn 95% các hộ gia đình ở một số nước châu Phi như
Congo, Benin, Camaroon, Chad… vẫn sử dụng củi đốt để nấu nướng. Một số nơi ở
Trung Quốc và Ấn Độ cũng dựa chủ yếu vào nguồn củi đốt, phế phẩm gỗ và than để
đun nấu. Tại Trung Quốc, khoảng 55% dân nông thôn sử dụng biomass cho đun nấu,
tỷ lệ này ở Ấn Độ là 87%.
Khu vực thương mại
Khu vực này là khu vực dịch vụ và cơ quan - gồm doanh nghiệp, các tổ chức
cung cấp dịch vụ. Ở khu vực này có nhiều dạng hoạt động sử dụng năng lượng, như
trường học, cửa hàng, khách sạn, nhà hàng, bệnh viện, viện bảo tàng, ngân hàng, bưu

điện, các toà nhà văn phòng… Ngoài ra còn có các khu vực chiếu sáng công cộng. Xu
hướng tăng trưởng kinh tế và dân số cũng kéo theo việc sử dụng năng lượng nhiều hơn
tại khu vực thương mại.
Cũng giống như trong khu vực hộ gia đình, ở khu vực thương mại, năng lượng sử
dụng theo đầu người ở các nước ngoài OECD chỉ khoảng 1,3 triệu Btu, thấp hơn nhiều
so với các nước OECD (16 triệu Btu). Trong số các nước OECD, Mỹ là nước sử dụng
năng lượng khu vực thương mại nhiều nhất và dự báo đến năm 2030 khu vực thương
mại sử dụng năng lượng ở Mỹ chiếm 44% tổng số năng lượng tiêu thụ ở khu vực
thương mại của OECD. Tại các nước không thuộc OECD, cùng với hoạt động kinh tế
và thương mại dịch vụ phát triển nhanh nên nhu cầu năng lượng khu vực thương mại
cũng tăng, mức tăng dự báo là 2,7% mỗi năm trong gia đoạn 2006-2030.
Khu vực công nghiệp
Năng lượng được tiêu thụ trong khu vực công nghiệp chủ yếu là gas tự nhiên và
các sản phẩm từ dầu lửa. Đây là khu vực sản xuất, chế tạo, nông nghiệp, khai khoáng,
xây dựng Nhu cầu năng lượng trong công nghiệp thay đổi tuỳ theo vùng và nước.
Nhìn chung năng lượng sử dụng trong khu vực công nghiệp nhiều hơn các khu vực
khác, chiếm tới 50% tổng năng lượng tiêu thụ của thế giới. Nói chung các nước OECD
sử dụng năng lượng trong công nghiệp hiệu quả hơn các nước ngoài OECD. Các nước
OECD cũng đang hướng tới các lĩnh vực công nghiệp có mức tiêu thụ năng lượng
thấp, điều này ngược lại với các nước ngoài OECD. Điều này dẫn tới tỷ lệ tiêu thụ
năng lượng khu vực công nghiệp tính trên GDP có xu hướng tăng ở các nước ngoài
OECD và giảm ở các nước OECD.
Tiêu thụ năng lượng khu vực công nghiệp được dự báo là sẽ tăng từ 175 triệu tỷ
Btu năm 2006 lên 245,6 tỷ Btu năm 2030. Khoảng 94% sự gia tăng năng lượng tiêu
thụ trong khu vực công nghiệp được dự báo là thuộc về các nước ngoài OECD, nơi có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ tiêu thụ năng lượng khu vực công nghiệp ở các

12
nước này được dự báo tăng trung bình hàng năm là 2,1%, so với chỉ 0,2% ở các nước
OECD trong giai đoạn 2006-2030. Chủ yếu sự gia tăng này diễn ra ở các nước BRIC

(Braxin, Nga, Trung Quốc và Ấn Độ), chiếm 2/3 sự gia tăng này.
Khu vực vận tải
Đây là khu vực tiêu thụ năng lượng nhiều thứ hai sau khu vực công nghiệp. Chủ
yếu khu vực này tiêu thụ nhiên liệu lỏng. Khu vực vận tải sử dụng khoảng 51% nhiên
liệu lỏng của thế giới năm 2006, tỷ lệ này được dự báo sẽ tăng lên 56% vào năm 2030.
Chủ yếu sự gia tăng này diễn ra ở các nước ngoài OECD, do thu nhập tăng và nhu cầu
sử dụng phương tiện cá nhân tăng cao, đặc biệt là ở Trung Quốc và Ấn Độ. Năng
lượng tiêu thụ trong khu vực vận tải của các nước ngoài OECD được dự báo tăng
trung bình hàng năm là 2,7% trong giai đoạn 2006 – 2030. Trong khi đó tỷ lệ này ở
các nước OECD chỉ là 0,3%.
1.5. Vấn đề khí thải CO
2
liên quan đến sản xuất và tiêu thụ năng lượng
Khí thải dioxide carbon (CO
2
) được dự báo là sẽ tăng từ 29 tỷ tấn năm 2006 lên
33,1 tỷ tấn năm 2015 và 40,4 tỷ tấn năm 2030 – tăng 39% trong giai đoạn 2006-2030.
Với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao và mức tiêu thụ năng lượng hoá thạch ngày càng tăng
ở các nước ngoài OECD sẽ dẫn tới sự gia tăng về lượng khí thải CO
2
. Năm 2006,
lượng khí thải này ở các nước ngoài OECD cao hơn ở các nước OECD tới 14%, tỷ lệ
này được dự báo là sẽ tăng lên 77% vào năm 2030.

Bảng 2: Khí thải dioxide carbon thế giới phân theo khu vực, 1990-2030
(Đơn vị: tỷ tấn)

Khu vực/ nước

Dự báo

Tăng trung bình
hàng năm (%)
1990
2005
2006
2010
2015
2020
2025
2030
OECD

OECD Bắc Mỹ
5.762
7.007
6.948
6.794
6.963
7.123
7.341
7.703
0,4
Mỹ

4.989
5.975
5.907
5.801
5.904
5.982

6.125
6.414
0,3
Canada
471
629
611
622
645
675
705
731
0,8
Mexico
302
403
431
371
414
466
510
557
1,1
OECD châu Âu
4.149
4.424
4.429
4.335
4.368
4.450

4.489
4.519
0,1
OECD châu Á
1.595
2.200
2.216
2.221
2.287
2.327
2.346
2.367
0,3
Nhật Bản
1.054
1.250
1.247
1.169
1.204
1.219
1.188
1.157
-0,3
Hàn Quốc
243
497
515
598
614
617

651
680
1,2
Ôxtrâylia/New Zealand
298
454
455
454
469
491
507
530
0,6
Tổng OECD
11.506
13.632
13.594
13.351
13.617
13.900
14.176
14.588
0,3


13
Ngoài OECD
Ngoài OECD châu Âu và
Eurasia
4.246

2.889
2.886
3.069
3.234
3.323
3.362
3.422
0,7
Nga
2.393
1.699
1.704
1.803
1.894
1.945
1.950
1.978
0,6
Các nước khác
1.853
1.190
1.182
1.266
1.339
1.378
1.412
1.443
0,8
Ngoài OECD châu Á
3.678

8.305
8.987
10.465
11.900
13.590
15.382
17.033
2,7
Trung Quốc
2.293
5.429
6.018
7.222
8.204
9.417
10.707
11.730
2,8
Ấn Độ
573
1.192
1.292
1.366
1.572
1.783
1.931
2.115
2,1
Các nước khác ở châu Á ngoài
OECD

811
1.684
1.678
1.877
2.124
2.390
2.744
3.188
2,7
Trung Đông
704
1.393
1.456
1.686
1.830
1.939
2.088
2.279
1,9
Châu Phi
659
985
982
1.086
1.161
1.239
1.325
1409
1,5
Trung và Nam Mỹ

695
1.093
1.123
1.311
1.368
1.437
1.547
1.654
1,6
Brazil
235
366
374
437
488
543
612
682
2,5
Các nước khác
460
727
749
874
881
894
935
972
1,1
Tổng số ngoài OECD

9.982
14.664
15.434
17.616
19.494
21.528
23.703
25.797
2,2
Toàn thế giới
21.488
28.296
29.028
30.967
33.111
35.428
37.879
40.385
1,4

II. SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ NĂNG LƯỢNG THẾ GIỚI ĐẾN NĂM 2030
2.1. Nhiên liệu lỏng
Tiêu thụ nhiên liệu lỏng thế giới
Tiêu thụ nhiên liệu lỏng thế giới theo tổng quan IEO 2009 sẽ tăng từ 85 triệu
thùng/ngày năm 2006 lên 107 triệu thùng/ngày vào năm 2030. Nhiên liệu lỏng không
chiết xuất từ dầu mỏ, với lượng tiêu thụ 13,4 triệu thùng/ngày, sẽ chiếm 12,6% tổng
sản lượng nhiên liệu lỏng vào năm 2030.
Tuy vậy, giá dầu mỏ thế giới sẽ vẫn ở mức trên 100USD/thùng (tính theo tỷ giá
USD năm 2007) từ năm 2013 cho tới cuối giai đoạn dự đoán. Hơn 89% mức tăng của
tổng tiêu thụ năng lượng lỏng dự kiến là của các nước châu Á không thuộc OECD và

Trung đông, những nước có mức tăng trưởng kinh tế mạnh. Khu vực vận tải chiếm tỷ
lệ lớn nhất trong tổng cầu năng lượng lỏng, chiếm gần 80% của tổng mức tăng thế giới.
Để thoả mãn mức tăng của cầu thế giới, sản xuất nhiên liệu lỏng gồm cả nhiên liệu
lỏng dầu mỏ và không phải chiết xuất từ dầu mỏ sẽ tăng 22 triệu thùng/ngày trong giai
đoạn 2006-2030. Giá dầu mỏ thế giới duy trì ở mức cao sẽ khiến cho việc phát triển
các nguồn năng lượng không chiết xuất từ dầu mỏ một cách kinh tế, sử dụng các công
nghệ thu hồi dầu tăng cường (EOR) nhằm tăng sản lượng các nguồn năng lượng chiết
xuất từ dầu mỏ và phát triển các nguồn năng lượng chiết xuất từ dầu mỏ phụ thông qua
các dự án tốn kém, mang tính rủi ro cao và rất khó về mặt kỹ thuật, gồm những dự án
ở các vùng nước cực sâu và ở Bắc Cực.

14
Các nước đóng góp lớn nhất vào mức tăng trưởng sản lượng không thuộc OPEC
sẽ là Mỹ và Braxin, do tổng sản lượng không thuộc OPEC trong năm 2030 tăng thêm
tới gần 13 triệu thùng/ngày so với mức của năm 2006 và chiếm 59% tổng mức tăng thế
giới. Năm 2006, sản lượng năng lượng lỏng đặc biệt của thế giới đạt 3,1 triệu
thùng/ngày. Năm 2030, sản lượng năng lượng lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ theo
tổng quan sẽ đạt 13,4 triệu thùng/ngày và chiếm tới hơn 12% tổng sản lượng năng
lượng lỏng thế giới, do các nguồn năng lượng không chiết xuất từ dầu mỏ của cả các
nước OPEC và không thuộc OPEC sẽ trở nên ngày càng cạnh tranh.
Mặc dù cầu về năng lượng lỏng của thế giới bị hạn chế trong kỳ hạn ngắn do
cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra từ năm 2008 và kéo dài tới năm 2009, nhưng xu
hướng phục hồi tăng trưởng được dự đoán sẽ diễn ra trong kỳ hạn dài khi kinh tế các
nước phục hồi. Đặc biệt, các nền kinh tế đang phát triển của các nước Trung đông và
Châu Á không thuộc OECD được dự đoán là sẽ phục hồi lại được mức tăng trưởng
kinh tế mạnh, đi kèm với nhu cầu tăng về năng lượng sử dụng cho giao thông và các
hoạt động sản xuất công nghiệp. Mức cạnh tranh chi phí ngày càng tăng của các nguồn
năng lượng khác khiến cho nhiều người tiêu dùng, ngoài khu vực vận tải, hiện đang sử
dụng nhiên liệu lỏng sẽ chuyển sang các nguồn nhiên liệu khác, và do kết quả tỷ lệ
tổng tiêu thụ nhiên liệu lỏng của khu vực vận tải sẽ tăng theo thời gian. Tới năm 2030,

khu vực vận tải tiêu thụ 56% tổng nguồn cung nhiên liệu lỏng, với mức tiêu thụ tăng
chiếm tới 79% tổng mức tăng của tiêu thụ nhiên liệu lỏng ở khắp các khu vực trong
giai đoạn 2006 tới 2030.
Các nước không thuộc OECD theo dự báo sẽ là những nước tăng mạnh sử dụng
nhiên liệu lỏng, được thúc đẩy thêm bởi mức tăng trưởng kinh tế vững mạnh, phát
triển các hoạt động công nghiệp và hoạt động vận tải phát triển nhanh chóng. Mức tiêu
thụ tăng lớn nhất của các nước không thuộc OECD từ 2006 tới 2030 dự kiến là ở các
nước châu Á không thuộc OECD, với 14,1 triệu thùng/ngày. Theo nước, Trung Quốc
(8,1 triệu thùng/ngày) và Ấn Độ (2 triệu thùng/ngày) thể hiện mức cầu tăng lớn nhất
trong khu vực và mức tăng trưởng dự kiến của cầu nhiên liệu lỏng của Trung Quốc
cũng là mức tăng lớn nhất tính theo nước trên toàn thế giới. Những mức tăng lớn về
tiêu thụ nhiên liệu lỏng cũng được cho là sẽ thuộc khu vực Trung Đông (3,3 triệu
thùng/ngày). Tiêu thụ nhiên liệu lỏng ở khu vực OECD nói chung sẽ tăng chậm hơn,
phản ánh những dự đoán về mức tăng trưởng chậm hoặc suy giảm dân số và mức tăng
trưởng kinh tế chậm ở hầu hết các nước OECD, so với những nước không thuộc
OECD trong hơn 2 thập niên qua. Ở Nhật Bản và Châu Âu OECD, tiêu thụ nhiên liệu
lỏng giảm ở mức trung bình tương ứng là 0,4% và 0,2%.
Giá dầu mỏ
Một nhân tố chính trong các dự đoán của IEO2009 là giả định về giá dầu mỏ thế
giới trong tương lai. Tác động của giá dầu thế giới lên cầu năng lượng sẽ là tác động
đáng kể tới độ chính xác của các dự đoán này. Trong tổng quan này, giá dầu lửa thế
giới trung bình tăng từ 61 USD/thùng năm 2009 lên 110 USD/thùng năm 2015 và 130
USD/thùng vào năm 2030. Các dự đoán đối với tổng tiêu thụ năng lượng lỏng vào năm
2030 giao động từ 90 triệu thùng/ngày trong trường hợp giá dầu cao cho tới 120 triệu
thùng/ngày trong trường hợp giá thấp, phản ánh sự thay đổi của các dự đoán.

15
Có ba kịch bản về giá dầu, mỗi một kịch bản phản ánh những giả định về các
nguồn và chi phí của các nguồn cung dầu mỏ thế giới. Nghiên cứu của Tổng quan
phản ánh quyết định mang tính giả định của các nước thành viên OPEC nhằm duy trì

mức sản xuất gộp chung của tổ chức này ở mức xấp xỉ 40% lượng cung năng lượng
lỏng thế giới. Kết quả là, khoảng 60% mức tăng dự kiến của tiêu thụ nhiên liệu lỏng
trong nghiên cứu là thuộc sản lượng của các nước không thuộc OPEC, gồm các dự án
chi phí cao và các dự án ở các nước có chế độ chính trị hoặc tài chính không hấp dẫn.
Trường hợp giá dầu cao giả định rằng một số nước không thuộc OPEC hạn chế
việc tiếp cận hơn hoặc tăng thuế sản xuất của các khu vực có tiềm năng trong tương lai,
và các nước thành viên OPEC giảm sản lượng của họ xuống dưới mức hiện tại. Giá
dầu tăng vượt các mức đề ra ở tổng quan, làm cản trở cầu về nhiên liệu lỏng và tạo
điều kiện tăng sản xuất từ các nguồn năng lượng không thuộc OPEC chiết xuất từ dầu
mỏ và không chiết xuất từ dầu mỏ giá cao vốn vẫn có thể tiếp cận và hấp dẫn đối với
việc khai thác và phát triển.
Trường hợp giá dầu thấp giả định rằng việc tiếp cận nhiều hơn, và các chế độ tài
chính hấp dẫn hơn ở một số khu vực không thuộc OPEC trong tương lai, gồm Nga và
vùng Caspian, cũng như mức sản lượng tăng ở các nước thành viên OPEC. Hệ quả là,
giá dầu xuống thấp dưới các mức đề ra trong tổng quan, dẫn tới cầu về nhiên liệu lỏng
thế giới tăng và sản lượng của các nguồn năng lượng chiết xuất từ dầu mỏ và không
chiết xuất từ dầu mỏ giảm ở các nước không thuộc OPEC vốn hiện vẫn có các chế độ
tài khoá hấp dẫn.
Sự thiếu hụt rõ ràng về cầu tương ứng với giá dầu cao ở các nước đang phát triển
(đặc biệt, Trung Quốc và Ấn Độ) đã dẫn tới các dự đoán về giá dầu lửa tiếp tục tăng
cao. Cầu tăng cao và nguồn cung đình trệ đã khiến một số nhà phân tích cho rằng giá
dầu 200$/thùng sẽ diễn ra trong kỳ hạn ngắn.
Tháng 7/2008, khi giá dầu tăng 150 USD/thùng, thì rõ ràng là tiêu thụ dầu trong
nửa đầu năm thấp hơn dự đoán và tăng trưởng kinh tế cũng chậm. Tháng 8/2008
chứng kiến sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại và mức cầu suy yếu
hơn nữa. Kể từ tháng 9/2008, suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm giảm mức cầu hiện tại
và cầu trong kỳ hạn tương lai gần về dầu mỏ của người tiêu dùng. Mặc dù tác động
của suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính lên cầu dầu mỏ có thể rất lớn trong kỳ
hạn ngắn, nhưng cũng có thể những tác động này sẽ tồn tại tương đối ngắn. Các nền
kinh tế quốc dân và cầu về dầu mỏ được dự đoán là sẽ bắt đầu hồi phục vào năm 2010.

Ngược lại, tác động của chúng lên công suất sản xuất dầu sẽ không được thấy rõ cho
tới giai đoạn 2010-2013, khi các khoản đầu tư hiện thời vào công suất mới nếu được
thực hiện, thì sẽ bắt đầu làm tăng sản lượng dầu lửa. Kết quả là, ngay khi cầu được cho
là sẽ phục hồi, thì những giới hạn vật lý đối với công suất sản lượng có thể dẫn tới một
làn sóng tăng giá dầu nữa, theo một mô hình tuần hoàn không mới đối với thị trường
dầu lửa thế giới.
Những bước phát triển trong năm qua chứng tỏ mức độ thay đổi mạnh mẽ và
nhanh chóng của các quy luật về giá dầu và thị trường nhiên liệu lỏng thế giới với vai
trò là tổng thể. Trong vòng vài tháng, sự thay đổi về cầu nhiên liệu lỏng thế giới hiện

16
tại và tương lai đã tác động tới nhu cầu nắm bắt sự tiếp cận bổ sung tới các nguồn năng
lượng chiết xuất từ dầu mỏ và phát triển nguồn cung nhiên liệu lỏng không chiết xuất
từ dầu mỏ và bảo tồn các quyết định sản xuất của OPEC. Thay vì cố dự đoán các quy
luật và nhận thức về cung và cầu sẽ thay đổi từ nay tới 2030, IEO2009 sử dụng ba kịch
bản giá dầu để phản ánh những giả định khác nhau về các mức cung, các nguồn và chi
phí nhiên liệu lỏng trong tương lai.
Sản xuất nhiên liệu lỏng thế giới
Trong tổng quan IEO2009, sản lượng nhiên liệu lỏng thế giới của năm 2030 vượt
mức của năm 2006 tới 22 triệu thùng/ngày. Mức tăng sản lượng được dự đoán là diễn
ra ở cả các nhà sản xuất thuộc OPEC và không thuộc OPEC, tuy nhiên, 59% tổng
lượng tăng được cho là sẽ nằm ở các vùng không thuộc OPEC, với 44% là của riêng
sản lượng nhiên liệu lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ của khu vực phi OPEC. Vào
năm 2030, sản lượng OPEC đạt 44 triệu thùng/ngày và sản lượng của khu vực không
thuộc OPEC đạt 63 triệu thùng/ngày trong tổng quan nghiên cứu.

Bảng 4: Sản xuất nhiên liệu lỏng thế giới, 2006-2030 (đơn vị: triệu thùng/ngày)

Nguồn nhiên liệu


2006
2010
2015
2020
2025
2030
Tỷ lệ tăng trưởng trung
bình hàng năm,
2006-2030 (%)
OPEC










Nhiên liệu lỏng tiêu
chuẩn
34,0
35,0
37,3
38,8
40,2
42.3
0,9
Dầu siêu nặng

0,6
0,6
0,7
0,8
1,0
1,2
2,8
Bitumen
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0

Khí hoá lỏng
0,0
0,0
0,1
0,2
0,3
0,3
18,3
Dầu đá phiến (Shale Oil)
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0


Nhiên liệu sinh học
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0

Tổng OPEC
34,7
35,6
38,1
39,9
41,4
43,8
1,0
Ngoài OPEC







Nhiên liệu lỏng tiêu
chuẩn
47,5
46,3
46,1

47,9
49,4
50,9
0,3
Dầu siêu nặng
0,0
0,0
0,0
0,0
0,1
0,1
14,3
Bitumen
1,2
1,9
2,8
3,3
3,8
4,2
5,3
Than hoá lỏng
0,1
0,2
0,3
0,5
0,8
1,2
9,0
Khí hoá lỏng
0,0

0,0
0,1
0,1
0,1
0,1

Dầu đá phiến
0,0
0,0
0,0
0,0
0,1
0,2
13,9
Nhiên liệu sinh học
0,8
1,9
2,8
3,8
5,0
5,8
8,6
Tổng ngoài OPEC
tal
b
. . . . . . . . .
49,9
50,7
52,5
56,0

59,6
62,8
1,0
Thế giới







Nhiên liệu lỏng tiêu
chuẩn

81,5
81,3
83,4
86,7
89,6
93,1
0,6
Dầu siêu nặng
0,6
0,7
0,7
0,9
1,0
1,2
3,0
Bitumen

1,2
1,9
2,8
3,3
3,8
4,2
5,3
Than hoá lỏng
0,1
0,2
0,3
0,5
0,8
1,2
9,0
Khí hoá lỏng
0,0
0,1
0,2
0,3
0,3
0,3
19,3
Dầu đá phiến
0,0
0,0
0,0
0,0
0,1
0,2

13,9
Nhiên liệu sinh học
0,8
1,9
2,8
3,9
5,1
5,9
8,6
Toàn thế giới
84,6
86,3
90,6
95,9
101,1
106,6
1,0

17
IEO2009 giải định rằng các nhà sản xuất OPEC sẽ lựa chọn duy trì thị phần cung
nhiên liệu lỏng của họ và sẽ đầu tư vào tăng công suất sản lượng để duy trì một thị
phần xấp xỉ 40% tổng sản lượng nhiên liệu lỏng toàn cầu tới 2030. Khối lượng tăng
các dạng nhiên liệu lỏng thông thường của các thành viên OPEC chiếm tới 8,3 triệu
thùng/ngày vào tổng mức tăng của sản lượng nhiên liệu lỏng thế giới trong giai đoạn
2006-2030, trong khi nguồn cung nhiên liệu lỏng chiết xuất từ dầu mỏ từ các nước
không thuộc OPEC chiếm 3,3 triệu thùng/ngày.
Nhiên liệu lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ sẽ có tỷ trọng tăng trưởng lớn nhất
trong thời kỳ dự đoán, do giá dầu cao khiến cho chúng trở nên cạnh tranh hơn về khía
cạnh kinh tế. Nhiên liệu không chiết xuất từ dầu mỏ chiếm 47% mức tăng của tổng sản
lượng từ 2006 tới 2030, hay 10,4 triệu thùng/ngày, trong đó 9,6 triệu thùng/ngày là của

các nguồn không thuộc OPEC. Giá dầu cao, những cải tiến trong công nghệ khai thác
và chiết xuất, sự chú trọng vào hiệu quả thu hồi dầu, sự nổi bật và mức tăng trưởng
liên tiếp của sản lượng nguồn nhiên liệu không chiết xuất từ dầu mỏ là những nhân tố
chính dẫn tới mức tăng trưởng của sản lượng nhiên liệu lỏng không thuộc OPEC trong
tổng quan nghiên cứu.
Các dự đoán của IEO2009 dựa trên hướng phân tích hai giai đoạn. Các dự đoán
về sản lượng nhiên liệu lỏng trước năm 2015 phần lớn dựa trên việc đánh giá theo từng
dự án khối lượng sản xuất và thời gian dự kiến, có tính tới tỷ lệ giảm của các dự án
tích cực, hoạt động phát triển và khai thác dự kiến, tình trạng địa chính trị đặc thù của
các nước và các thể chế tài chính. Tuy nhiên, thường có những giai đoạn trì hoãn dài
giữa thời điểm các dự án cung được công bố và thời điểm khi chúng thực sự đi vào sản
xuất. Ngoài ra, nhiều dự án gần đây bị trì hoãn do những kỳ vọng thấp về mức tăng
trưởng của nhu cầu nhiên liệu lỏng trong kỳ hạn ngắn do sự suy thoái của kinh tế toàn
cầu và khó khăn về nguồn tín dụng cấp cho các dự án sản xuất trong thời kỳ khủng
hoảng tín dụng toàn cầu. Do các dự án thường không được công bố từ 7 tới 10 năm
trước giai đoạn sản xuất đầu tiên của chúng, nên cách đánh giá theo dự án không thể
cung cấp một bức tranh hoàn chỉnh về các kế hoạch sản xuất của công ty hay đất nước
và khối lượng sản xuất đạt được. Thay vào đó, các quyết định sản xuất được đưa ra sau
năm 2015 được cho là dựa chủ yếu vào tính khả dụng của nguồn tài nguyên và khả
năng phát triển kinh tế của sản xuất.
Sản xuất của các nước không thuộc OPEC
Sự hồi phục và duy trì của giá dầu cao dự đoán trong tổng quan IEO2009 được
cho là sẽ khuyến khích các nhà sản xuất ở các nước không thuộc OPEC tiếp tục đầu tư
vào công suất sản lượng nhiên liệu lỏng chiết xuất từ dầu mỏ và tăng đầu tư vào các dự
án thu hồi dầu nâng cao và sản xuất nhiên liệu lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ. Sản
lượng của các nước không thuộc OPEC tăng vững chắc theo dự đoán, từ 50 triệu
thùng/ngày trong năm 2006 cho tới 63 triệu thùng/ngày vào năm 2030, do giá cao thu
hút đầu tư vào các khu vực trước đó được coi là không có tiềm năng kinh tế, và nỗi lo
sợ về những hạn chế nguồn cung sẽ khuyến khích một số quốc gia tiêu thụ mở rộng
sản xuất nhiên liệu lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ, từ các nguồn tài nguyên nội địa,

ví dụ như than và sinh khối. Bất chấp sự chín muồi ở hầu hết các nước sản xuất không

18
thuộc OPEC, sản lượng nhiên liệu lỏng chiết xuất từ dầu mỏ trong nghiên cứu tăng từ
48 triệu thùng/ngày trong năm 2006 lên 51 triệu thùng/ngày vào năm 2030, được dẫn
đầu bởi sản lượng của các nước như Braxin, Nga, Kazakhstan và Mỹ.
Các mức tăng lớn của sản lượng nhiên liệu lỏng xăng dầu chiết xuất từ dầu mỏ
của các nước không thuộc OPEC được dự đoán là thuộc một vài khu vực có những
phát hiện lớn hoặc tiềm năng tài nguyên chưa được khám phá cao. Các mức sản lượng
đáng kể trong sản xuất nhiên liệu chiết xuất từ dầu mỏ được dự đoán diễn ra ở khu vực
Caspian (Kazakhastan) và Nam Mỹ (Braxin). Canada được dự đoán là nhà cung ứng
lớn nhiên liệu lỏng không thuộc OPEC, với sản lượng bitumen không chiết xuất từ dầu
mỏ của nước này (cát dầu) phần nhiều là để bù cho những mức suy giảm dự kiến trong
sản lượng xăng dầu chiết xuất từ dầu mỏ của nước này.
Theo IEO 2009, sản lượng nhiên liệu lỏng chiết xuất từ dầu mỏ của các nhà cung
ứng không thuộc OPEC tăng lên 6 triệu thùng/ngày vào năm 2015 và 12 triệu
thùng/ngày vào năm 2030, do giá dầu cao đáng kể đã kích thích sự phát triển các
nguồn nhiên liệu thay thế, phụ thuộc vào các giới hạn diễn ra do các biện pháp bảo vệ
môi trường dự kiến và sự phát triển của ngành công nghiệp nói chung. Trong trường
hợp giá dầu thấp, một vài nguồn tài nguyên không chiết xuất từ dầu mỏ trở nên cạnh
tranh về mặt kinh tế, và sản lượng của nhiên liệu lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ của
các nước không thuộc OPEC trong năm 2030 chỉ chiếm có 9 triệu thùng/ngày.
Mức suy giảm rõ rệt nhất ở sản lượng nhiên liệu lỏng không thuộc OPEC được
dự kiến là của vùng Biển Bắc (gồm sản lượng ngoài khơi của Na Uy, Anh, Hà Lan và
Đức), trong đó có rất ít kỳ vọng về những khám phá mới có khả năng bù cho mức suy
giảm của các khu khai thác hiện có.
Mức suy giảm lớn thứ hai ở sản lượng nhiên liệu lỏng không thuộc OPEC dự
kiến là của Mexico, nơi mà sản lượng nhiên liệu lỏng giảm xuống xấp xỉ 1,9 triệu
thùng/ngày vào năm 2020 trước khi tăng trở lại một cách chậm chạp lên 2,3 triệu
thùng/ngày vào năm 2030. Mức tăng dự kiến này phụ thuộc hoàn toàn vào sự phát

triển của các nguồn tài nguyên tiềm năng ở vùng nước sâu của Vịnh Mexico, sự phát
triển này phải mất vài năm trước bất cứ một mức tăng nào của sản lượng.
Sản lượng nhiên liệu lỏng chiết xuất từ dầu mỏ của Canada giảm tới 1 triệu
thùng/ngày từ 2006 tới 2030. Tuy nhiên, nhiên liệu lỏng xăng dầu không chiết xuất từ
dầu mỏ (từ cát dầu) được kỳ vọng là nhiều hơn mức bù cho mức suy giảm,vì vậy tổng
sản lượng tăng tới 2,1 triệu thùng/ngày trong tổng quan nghiên cứu, tới 5,4 triệu
thùng/ngày vào năm 2030.
Mức tăng lớn nhất trong tổng sản lượng nhiên liệu lỏng phi OPEC được dự kiến
là của Mỹ, trong đó sản lượng nhiên liệu chiết xuất từ dầu mỏ tăng từ 7,8 triệu
thùng/ngày trong năm 2006 lên 10,2 triệu thùng/ngày vào năm 2030. Mặc dù sản
lượng nhiên liệu lỏng chiết xuất từ dầu mỏ của Mỹ đã suy giảm trong nhiều năm,
nhưng nó được kỳ vọng sẽ tăng theo dự đoán, vừa với vai trò là kết quả của các dự án
ngoài khơi nước sâu được dự kiến đi vào sản xuất trong tương lai gần, và vừa bởi ứng
dụng các công nghệ thu hồi dầu tiên tiến (EOR) sẽ tăng năng xuất trong kỳ hạn dài. Vì
vậy, tổng sản lượng dầu thô ngoài khơi của Mỹ tăng từ 1,4 triệu thùng/ngày trong năm

19
2006 lên khoảng 2 triệu thùng/ngày vào năm 2010 và 2,7 triệu thùng/ngày vào năm
2030 trong tổng quan nghiên cứu, do sản xuất dầu sử dụng EOR tăng gấp 5 lần, từ 0,3
triệu thùng/ngày vào năm 2006 lên 1,7 triệu thùng/ngày vào năm 2030.
Các nhiên liệu lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ cũng được dự đoán là một nguồn
quan trọng ngày càng tăng của nguồn cung nội địa của Mỹ. Vào năm 2030, sản lượng
nhiên liệu lỏng từ các nguồn không chiết xuất từ dầu mỏ chiếm 257 nghìn thùng/ngày
từ than hoá lỏng, 1880 nghìn thùng/ngày từ nhiên liệu sinh học (ethanol và diezen sinh
học) và 144 nghìn thùng/ngày từ đá phiến sét dầu.
Mức đóng góp lớn thứ hai vào sản lượng nhiên liệu lỏng phi OPEC theo tổng
quan IEO2009 là của Braxin trong đó tổng sản lượng tăng tới 3,7 triệu thùng/ngày từ
2006 tới 2030, với 3 triệu thùng/ngày của mức tăng là từ sản lượng nhiên liệu lỏng
chiết xuất từ dầu mỏ. Mức tăng trưởng mạnh của sản lượng nhiên liệu lỏng chiết xuất
từ dầu mỏ của Braxin một phần là do sự phát triển ở các giếng khai thác sản xuất hiện

đang hoặc trong tiến trình hoặc dự kiến. Ngoài ra, những khám phá gần đây ở các lòng
chảo Campos và Santos đã bổ sung vào sản lượng trung và dài hạn và gợi ra sự hiện
diện của các giếng khai thác lớn.
Nga và Kazakhstan là những nguồn tăng trưởng nổi bật khác trong sản lượng
nhiên liệu lỏng phi OPEC trong nghiên cứu của IEO2009. Cả hai nước đều có vị trí ở
vùng Á Âu và châu Âu ngoài OECD, một khu vực dễ xảy ra tranh chấp lãnh thổ, bao
vây vận tải và các thay đổi hợp đồng và can thiệp chính trị. Sản lượng của Nga được
dự đoán sẽ giảm trong kỳ hạn gần vì các chính sách thuế khiến cho các công ty hoạt
động với thua lỗ tài chính ròng, làm suy giảm nguồn đầu tư vào phát triển tài nguyên.
Sau khi giảm xuống tới 9,2 triệu thùng vào năm 2011, sản lượng nhiên liệu lỏng của
Nga bắt đầu tăng chậm lên 9,5 triệu thùng/ngày vào năm 2015, khi các nhà đầu tư cẩn
trọng, những người liên tiếp phải đối phó với những điều chỉnh về các mức thuế, đáp
ứng với sự ổn định của các mức thuế được dự kiến và giá dầu thế giới tăng cao. Kết
quả là, sản lượng tăng lên 10,9 triệu thùng/ngày vào năm 2020 và 11,9 triệu
thùng/ngày vào năm 2030 theo dự báo của IEO2009. Các mức sản lượng của Nga sẽ
khác nhau rõ rệt theo các trường hợp giá dầu, theo các giả định khác nhau về mức độ
tiếp cận kinh tế được tạo ra đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong kỳ hạn
dài. Sản lượng tăng từ 2015 tới 2030 được dự đoán đạt chưa tới 0,5 triệu thùng/ngày
trong trường hợp giá dầu cao và 4,7 triệu thùng/ngày trong trường hợp giá dầu thấp.
Mặc dù việc khai thác ở Vùng Đông Bắc Siberia được giả định trong suốt thời gian dự
kiến, nhưng khai thác ở vùng Bắc Cực không được giả định.
Mức tăng trưởng trung hạn của sản lượng nhiên liệu lỏng của Kazakhstan sẽ phụ
thuộc phần lớn vào các nguồn tài nguyên của các mỏ dầu Kashagan và Tengiz và năng
lực của nhà đầu tư để vận chuyển sản lượng từ các dự án này tới thị trường thế
giới.Mặc dù các nguồn tài nguyên nổi tiếng và tiềm năng này đủ để hỗ trợ cho mức
tăng trưởng của sản lượng, nhưng việc thiếu các tuyến xuất khẩu có khả năng tiếp cận
dễ dàng hiện thời có thể sẽ cản trở sự phát triển. Hai mô hình vận chuyển chính là
bằng đường ống và bằng xe lửa, kết hợp với nhau cho phép vận chuyển tổng cộng 0,8
triệu thùng/ngày tới Nga. Ngoài ra, một đường ống từ Kazakhstan tới Trung Quốc hiện


20
có dung tích 0,2 triệu thùng/ngày, và vận chuyển bằng đường biển tới Azebaijan và tới
Iran đạt dung tích xuất khẩu tổng cộng xấp xỉ 0,1 triệu thùng/ngày. Trong vài năm qua,
dung tích cung cấp đường ống tới Nga và Trung Quốc và dung tích vận chuyển bằng
tàu thuỷ tới Iran được kỳ vọng sẽ tăng gấp đôi. Như vậy, do vị trí địa lý của
Kazakhstan, tiềm năng xuất khẩu của nước này không chỉ phụ thuộc vào độ dồi dào
của tài nguyên và khả năng khai thác mà còn phụ thuộc vào việc xây dựng các tuyến
đường xuất khẩu, một nhiệm vụ đòi hỏi sự phối hợp của khu vực. Trước đó,
Kazakhstan đã chứng tỏ việc thiếu quan tâm tới tính ràng buộc của hợp đồng và phải
buộc tái đàm phán lại về doanh thu đầu tư. Trường hợp giá dầu cao giả định
Kazakhstan sẽ lại thay đổi các điều khoản của doanh thu dự án và không thu hút được
các mức đầu tư nước ngoài bổ sung cao. Vì vậy, sản lượng nhiên liệu lỏng của nước
này trong năm 2030 dao động từ 2,9 triệu thùng/ngày trong trường hợp giá dầu cao tới
3,9 triệu thùng/ngày trong trường hợp giá dầu thấp.
Sản lượng của OPEC
Tổng sản lượng nhiên liệu lỏng của các nước thành viên OPEC tăng với tỷ lệ
trung bình hàng năm là 1%, dẫn tới sản lượng đạt 43,8 triệu thùng nhiên liệu lỏng/ngày
vào năm 2030, trong đó 29,5 triệu thùng/ngày có nguồn gốc từ Trung Đông. Trong
suốt thời kỳ dự đoán, Ả rập Saudi vẫn là nhà sản xuất nhiên liệu lỏng lớn nhất của
OPEC, với sản lượng tăng từ mức 1,3 triệu thùng/ngày của năm 2006 lên 12 triệu
thùng/ngày vào năm 2030 trong tổng quan nghiên cứu. Mức tăng của tổng sản lượng
tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng trung bình hằng năm là 0,5%, dựa vào giả định rằng Ả
rập Saudi sẽ tiếp tục thực hiện các kế hoạch hiện được công bố và sẽ tìm cách duy trì
công suất sản lượng dư trên 2 triệu thùng/ngày.

Bảng 5: Trữ lượng dầu của các nước trên thế giới tính đến 1/2009 (đơn vị: tỷ thùng)
Nước
Trữ lượng dầu
Ả rập Xê-út
266,7

Canada

178,1
Iran
136,2
Iraq
115,0
Kuwait
104,0
Venezuela
99,4
Các TVQ A rập thống nhất
97,8
Nga
60,0
Libi
43,7
Nigêria
36,2
Kazakhstan
30,0
Mỹ
21,3
Trung Quốc
16,0
Qatar
15,2
Brazil
12,6
Algêri

12,2

21
Mexico
10,5
Angola
9,0
Azerbaijan
7,0
Na Uy
6,7
Phần còn lại của thế giới
64,6
Toàn thế giới
1342,2

Các quyết định của OPEC về đầu tư vào công suất sản xuất bổ sung là sự khác
biệt chính giữa các trường hợp giá dầu của IEO2009. Trường hợp giá dầu thấp giả
định rằng các nước OPEC sẽ tăng đầu tư hoặc thông qua các công ty dầu quốc nội của
họ hoặc bằng cách cho phép quyền tiếp cận kinh tế lớn hơn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài, tùy thuộc vào từng nước. OPEC được giả định là tăng công suất sản xuất
nhằm tối đa hóa doanh thu của chính phủ thông qua các mức sản lượng hơn là bằng
cách kiểm soát giá dầu. Trong trường hợp này, các mức sản lượng tăng đạt tới 22,8%
triệu thùng/ngày, tới 57,4 triệu thùng vào năm 2030, hoặc xấp xỉ 48% tổng sản lượng
nhiên liệu lỏng thế giới trong trường hợp giá dầu thấp.
Trong trường hợp giá dầu cao, bản chất cartel của OPEC được giả định là tăng
cường theo thời gian. Trong trường hợp này, các nước thành viên OPEC đóng góp vào
việc duy trì mức giá cao kỷ lục bằng cách thắt chặt hơn nữa các mục tiêu sản lượng
của họ hàng năm. Kết quả là, sản lượng có thể giảm từ 6,4 triệu thùng/ngày, tới 28,2
triệu thùng/ngày vào năm 2030, hay 31% tổng sản lượng nhiên liệu lỏng thế giới.

Irắc dự kiến tăng sản lượng nhiên liệu lỏng của nước này tới mức trung bình là
3,9%/năm trong tổng quan nghiên cứu, đạt mức tăng trưởng hằng năm cao nhất về
tổng sản lượng nhiên liệu lỏng trong tất cả các nhà sản xuất. Tình trạng điêu tàn của cơ
sở hạ tầng liên tục diễn ra và bất ổn về luật pháp được cho là sẽ hạn chế mức tăng
trưởng sản lượng trong kỳ hạn trung hạn xuống 2,8%/năm, tức là giảm thêm 0,4 triệu
thùng/ngày từ 2010 tới 2015. Trong kỳ hạn dài, nếu năng lực sản xuất nhiên liệu lỏng
của nước này được ổn định như dự kiến, thì đầu tư vào sản lượng dầu có thể tăng tới
8,5% hàng năm từ 2016 tới 2020 trước khi ổn định ở mức khiêm tốn là 1,8% hằng năm
từ 2020 tới 2030.
Qatar được cho là đạt mức tăng trưởng trung bình hàng năm lớn thứ hai về tổng
sản lượng nhiên liệu lỏng từ 2006 tới 2030, với 3,3%, với tổng khối lượng tăng từ 1,1
triệu thùng/ngày vào năm 2006 sẽ lên 2,5 triệu thùng/ngày vào năm 2030.
Angola được dự kiến đạt mức tăng trung bình hằng năm lớn thứ ba trong tổng
sản lượng nhiên liệu lỏng từ 2006 tới 2030, ở tỷ lệ 2,7%, hầu như hoàn toàn thuộc vào
mức tăng sản lượng của dầu thô và chất condensate từ các dự án ngoài khơi. Các mục
tiêu sản xuất được OPEC đưa ra không được cho là gây trở ngại cho việc phát triển các
dự án ở Angola, nơi mà tổng sản lượng nhiên liệu lỏng tăng tới 2,7 triệu thùng/ngày
vào năm 2030 trong tổng quan nghiên cứu.
Các giả định tương tự cũng được áp dụng cho Nigeria, nơi mà mức sản lượng do
các nguồn tài nguyên tạo ra tăng ở mức trung bình là 1,4% năm, lên 3,4 triệu
thùng/ngày vào năm 2030.

22
Cận lịch sử cho thấy chính phủ Venezuela phản ứng với giá dầu cao bằng cách
thắt chặt các điều khoản đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và hạn chế việc tiếp
cận tới các trữ lượng của nước này. Kết quả là, theo như nghiên cứu, với giá dầu tăng
cao lại sau năm 2012, và vẫn ở mức cao lịch sử qua 2030, những thay đổi về quyền uỷ
thác hơn nữa trong các điều khoản giao kèo cùng với những mối đe doạ quốc hữu hoá
khu vực năng lượng sẽ dễ cản trở tiềm năng sản xuất trong kỳ hạn ngắn và làm giảm
luồng đầu tư và phát triển các dự án bổ sung trong tương lai dài. Trong tổng quan

nghiên cứu, mức tăng trưởng sản lượng của Venezuela được dự đoán chủ yếu là từ sản
xuất dầu siêu nặng và giới hạn ở mức 0,6 triệu thùng/ngày từ 2006-2030.
Sản xuất nhiên liệu không chiết xuất từ dầu mỏ
Theo IEO2009, 12,6% lượng cung nhiên liệu lỏng thế giới vào năm 2030 sẽ là
của các nguồn năng lượng không chiết xuất từ dầu mỏ, gồm 1,5 triệu thùng/ngày của
OPEC và 11,9 triệu của các nguồn năng lượng không thuộc OPEC. Mặc dù khối lượng
và thành phần của sản lượng không chiết xuất từ dầu mỏ khác nhau theo các giả định
về giá dầu trong nghiên cứu IEO2009 (từ 17,8 triệu thùng/ngày trong trường hợp giá
cao cho tới 12, 4 triệu thùng/ngày trong trường hợp giá thấp) nhưng nguồn gốc địa lý
của mỗi một dạng nhiên liệu không thay đổi nhiều do việc sản xuất chung thường giới
hạn ở một số nước nơi các dự án đã được tuyên bố hoặc đang tiến hành. Sản lượng
nhiên liệu không chiết xuất từ dầu mỏ của OPEC bị chi phối chủ yếu bởi dầu siêu
nặng từ Venezuela và Qatar. Trong tổng quan IEO2009, sản lượng dầu siêu nặng của
Venezuela tăng từ 0,6 triệu thùng/ngày năm 2006 lên 1,2 triệu thùng/ngày vào năm
2030, còn sản lượng của Qatar tăng từ một lượng không đáng kể của năm 2006 lên 0,2
triệu thùng/ngày vào năm 2030.
Ngoài OPEC, sản lượng nhiên liệu lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ là thuộc một
nhóm đa dạng các nước và các dạng nguồn. Với vai trò là tổng thể, sản lượng nhiên
liệu lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ phi OPEC dự kiến tăng tới 9,6 triệu thùng/ngày
từ 2006 tới 2030, với 65% thuộc về các nước OECD. Các nước có phần đóng góp lớn
nhất vào mức tăng của sản lượng nhiên liệu lỏng không chiết xuất từ dầu mỏ phi
OPEC từ 2006-2030 là Canada (mức tăng 3,1 triệu thùng/ngày), Mỹ (2,2 triệu thùng),
Trung Quốc (1 triệu thùng) và Braxin (0,7 triệu thùng).
2.2. Khí tự nhiên
Trong tổng quan nghiên cứu của IEO2009, tiêu thụ khí tự nhiên ở các nước
không thuộc OECD tăng trưởng nhanh gấp hai lần so với các nước OECD. Sản lượng
tăng ở khu vực không thuộc OECD chiếm tới hơn 80% mức tăng trưởng của sản lượng
thế giới từ 2006 tới 2030.
Trên toàn thế giới, tổng tiêu thụ khí tự nhiên tăng mức trung bình là 1,6%/năm
trong tổng quan nghiên cứu của IEO2009, từ 104 nghìn tỉ feet khối vào năm 2006 lên

153 nghìn tỉ feet khối vào năm 2030. Với giá dầu mỏ thế giới được giả định là trở lại
mức cao sau năm 2012 và vẫn cao cho tới cuối giai đoạn dự kiến, người tiêu dùng sẽ
lựa chọn khí tự nhiên tương đối ít tốn kém cho nhu cầu năng lượng của họ khi có thể.
Ngoài ra, do khí tự nhiên sản sinh ra ít CO
2
khi được đốt hơn so với dầu hoặc than, nên
các chính phủ thực hiện các kế hoạch quốc nội hoặc địa phương để làm giảm phát thải

23


Dự báo



Tổng


Ngoài OECD
OECD




khí nhà kính có thể sẽ khuyến khích việc sử dụng nó để thay cho nhiên liệu hoá thạch
khác.
Vào năm 2006, các nước thành viên OECD tiêu thụ 52 nghìn tỉ feet khối khí tự
nhiên còn các nước không thuộc OECD tiêu thụ 53 nghìn tỉ feet khối. Trong nghiên
cứu của IEO2009, tiêu thụ khí tự nhiên ở các nước không thuộc OECD tăng trưởng
nhanh gấp đôi so với các nước OECD, với 2,2% mức tăng trưởng trung bình hằng năm

từ 2006 tới 2030 đối với các nước không thuộc OECD, so với mức trung bình là 0,9%
đối với các nước OECD. Các nước không thuộc OECD chiếm tới 74% tổng mức tăng
của tiêu thụ khí tự nhiên trong thời kỳ dự đoán, và tỷ trọng của các nước không thuộc
OECD trong tổng tiêu thụ khí tự nhiên thế giới tăng từ 50% trong năm 2006 lên 58%
vào năm 2030.
Các nước OECD chiếm tới 38% tổng sản lượng khí tự nhiên thế giới và 50% tiêu
thụ khí tự nhiên vào năm 2006, khiến cho các nước này phụ thuộc vào nhập khẩu từ
các nguồn không thuộc OECD với 25% tổng tiêu thụ của họ. Vào năm 2030, các nước
OECD chiếm 31% sản lượng và 42% tiêu thụ, với sự phụ thuộc vào khí tự nhiên của
các nước không thuộc OECD chỉ cao hơn chút ít so với năm 2006, ở mức 27%. Ở các
khu vực không thuộc OECD, xuất khẩu ròng tăng trưởng chậm hơn so với tổng sản
lượng.
Nhu cầu khí tự nhiên thế giới
Hình 5: Tiêu thụ khí tự nhiên của thế giới, 1980-2030, (đơn vị: nghìn tỷ f
eet khối)
200


150



100


50



0


1980 1995 2006 2015 2030

Các nước OECD
Trong tổng quan IEO2009, tiêu thụ khí tự nhiên ở Bắc Mỹ tăng lên mức trung
bình là 0,8%/năm từ 2006 tới 2030. Ở Mỹ, nước tiêu thụ khí tự nhiên lớn nhất thế giới,
mức tiêu thụ ở hầu hết các ngành tiêu dùng cuối cùng tăng chậm cho tới năm 2030.
Tuy nhiên, tiêu thụ khí tự nhiên của ngành điện của Mỹ lại tăng nhanh chóng từ 2006
tới 2025 để đáp ứng với những lo ngại về khả năng có những điều luật mới giới hạn
phát thải khí nhà kính của các máy phát. Sau năm 2025, mức tăng tiêu thụ khí tự nhiên
của Mỹ phục vụ việc phát điện chậm lại do giá của khí tự nhiên tăng lên, sự phát triển
thế hệ các nguồn năng lượng tái tạo và tăng công suất đốt than sạch. Kết quả là, phát
điện bằng khí tự nhiên vào năm 2030 đạt 94% của mức đỉnh năm 2025. Với các khu

24
vực là người tiêu dùng cuối cùng cho thấy một mức tăng trưởng chậm nhưng chắc
trong tiêu thụ, tổng cầu của Mỹ về khí tự nhiên vào năm 2030 nhiều hơn mức tổng
21,7 tỷ feet khối của năm 2006 là 2,7 nghìn tỷ feet khối.
Tổng tiêu thụ khí tự nhiên của Canada tăng đều, với tỷ lệ 1,5%/năm, từ 3,3 nghìn
tỷ feet khối năm 2006 lên 4,7 nghìn feet khối vào năm 2030. Mức tăng trưởng dự kiến
của tiêu thụ khí tự nhiên công nghiệp của Canada phần lớn dựa vào sự kỳ vọng rằng
khí tự nhiên thương mại sẽ được tiêu dùng với số lượng ngày càng nhiều để khai thác
các lớp lắng cát dầu của nước này. Vào năm 2006, 12% tổng tiêu thụ khí tự nhiên của
Canada đã được sử dụng cho sản xuất cát dầu, vào năm 2030, tỷ lệ này có thể lên tới
22%.
Đối với Mexico, hơn 90% lượng tiêu thụ khí tự nhiên là dành cho khu vực công
nghiệp và sản xuất điện. Năm 2006, lượng khí tự nhiên được tiêu thụ cho việc sản xuất
điện ở Mexico chiếm ½ lượng tiêu thụ cho ngành công nghiệp, vào năm 2030, dự kiến
con số này sẽ tương đương với lượng tiêu thụ của khu vực công nghiệp.
Tiêu thụ khí tự nhiên ở các nước châu Âu thuộc OECD tăng với một tỷ lệ trung

bình là 10%/năm, từ 19,2 nghìn tỉ feet khối vào năm 2006 lên 21,5 nghìn tỉ feet khối
vào năm 2015 và 24,1 nghìn tỉ feet khối vào năm 2030, hầu hết là do gia tăng sử dụng
sản xuất điện. Trong tổng quan IEO2009, khí tự nhiên là nguồn năng lượng tăng
trưởng lớn thứ hai sử dụng cho sản xuất điện trong khu vực này, với tỷ lệ là 2%/năm,
so với năng lượng tái tạo là 3,2%/năm. Sử dụng khí tự nhiên cho sản xuất điện của khu
vực này sẽ tăng từ 5,8 nghìn tỉ feet khối vào năm 2006 lên 7,7 nghìn tỉ feet khối vào
năm 2015 và 9,3 nghìn tỉ feet khối vào năm 2030.
Tiêu thụ khí tự nhiên ở các nước châu Á thuộc OECD tăng ở mức trung bình là
1%/năm từ 2006 tới 2030. Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia/New Zealand được dự đoán
là có nhu cầu tăng thêm chưa tới 1 nghìn tỉ feet khối khí tự nhiên từ năm 2006 tới 2030.
Tổng tiêu thụ khí tự nhiên đối với vùng này tính tổng thể tăng từ 5,5 nghìn tỉ feet khối
vào năm 2006 lên 7 nghìn tỉ feet khối vào năm 2030.
Các nước không thuộc OECD
Nga là nước tiêu thụ khí tự nhiên lớn thứ hai chỉ sau Mỹ, với cầu đạt 16,6 nghìn
tỉ feet khối vào năm 2006 và tương đương với 55% tổng tiêu thụ năng lượng của Nga.
Theo tổng quan IEO2009, tiêu thụ khí tự nhiên của Nga tăng trung bình 0,9%/năm và
tỷ trọng của nó trong tổng tiêu thụ năng lượng tăng tới 56% vào năm 2030.
Tiêu thụ khí tự nhiên ở các nước khác của châu Âu không thuộc OECD và vùng
Á Âu tăng ở mức trung bình hằng năm là 1,3%, từ 8,8 nghìn tỉ feet khối năm 2006 lên
12 nghìn tỉ feet khối vào năm 2030. Các nước châu Á không thuộc OECD, vốn chiếm
9% tổng tiêu thụ khí tự nhiên thế giới vào năm 2006, được dự báo đạt mức tăng trưởng
nhanh nhất trong tiêu dùng khí tự nhiên và chiếm 31% tổng mức tăng trong tiêu thụ
khí tự nhiên thế giới trong giai đoạn 2006-2030. Tiêu thụ khí tự nhiên ở các nước châu
Á không thuộc OECD tăng từ 9,4 nghìn tỉ feet khối vào năm 2006 lên 24,5 nghìn tỉ
feet khối vào năm 2030, tăng trung bình 4,1%/năm trong giai đoạn đự đoán.
Ở cả Trung Quốc và Ấn Độ, khí tự nhiên chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong hỗn hợp
năng lượng, tương đương với 3% và 8% với mỗi nước trong tổng tiêu thụ năng lượng

25


Nước/Nhóm nước


2006
Dự báo
Tỷ lệ % tăng
trưởng
trung bình
hàng năm

2010

2015

2020

2025

2030

chính của năm 2006. Trong tổng quan IEO2009, tiêu thụ khí tự nhiên tăng nhanh
chóng ở cả hai nước, tăng tới 5,2%/năm ở Trung Quốc và 4,2%/năm ở Ấn Độ, tính
trung bình từ 2006-2030.
Đối với phần còn lại của các nước châu Á không thuộc OECD, khí tự nhiên đã là
một nguồn năng lượng nổi trội, tương đương với 23% tổng tiêu thụ năng lượng chủ
yếu trong năm 2006. Tiêu thụ khí tự nhiên hằng năm của các nước này cộng lại tăng
chậm hơn của Trung Quốc hoặc Ấn Độ, với mức tăng trưởng trung bình là 3,6%/năm.
Tuy nhiên, với sự tiêu thụ được khởi đầu từ một nền tảng lớn hơn, các nước còn lại
của châu Á không thuộc OECD lại bổ sung lượng tiêu thụ khí tự nhiên vào thời kỳ dự
đoán lớn hơn là của Trung Quốc và Ấn Độ cộng lại. Cả hai nước Trung Quốc và Ấn

Độ cộng lại được dự đoán tiêu thụ thêm 7,1 nghìn tỉ feet khối vào năm 2030 so với
năm 2006, so với mức tăng 8,1 nghìn tỉ feet khối của các nước châu Á không thuộc
OECD.
Tiêu thụ khí tự nhiên tăng với tỷ lệ trung bình hàng năm là 2% ở Trung Đông và
3,2% ở châu Phi từ 2006 tới 2030. Có rất ít cơ sở hạ tầng trên lục địa này để thực hiện
thương mại liên vùng khí tự nhiên, và Angieri, Nigeria, Ai cập và Libi, những nhà sản
xuất lớn của châu Phi, cũng là những nhà tiêu dùng chính. Bốn nước này cộng với
Nam Phi và Tuynidi, chiếm tới 94% lượng tiêu thụ năng lượng khí tự nhiên của châu
Phi trong năm 2006. Tại Trung và Nam Mỹ, khí tự nhiên là một nguồn năng lượng
tăng trưởng nhanh nhất với cầu tăng ở mức trung bình tới 2,4%/năm, từ 4,5 nghìn tỉ
feet khối vào năm 2006 lên 8,1 nghìn tỷ feet vào năm 2030. Đối với Braxin, nền kinh
tế lớn nhất khu vực, tiêu thụ khí tự nhiên tăng gấp đôi, từ 0,7 nghìn tỉ feet khối vào
năm 2006 lên 1,8 nghìn tỉ feet khối vào năm 2030.
Sản xuất khí tự nhiên thế giới
Nhằm đáp ứng tăng trưởng cầu dự kiến của IEO2009, các nhà sản xuất khí tự
nhiên của thế giới sẽ cần tăng cung lên tới 48 nghìn tỉ feet khối từ 2006 tới 2030. Phần
lớn mức tăng trong cung ứng này được dự kiến là của các nước không thuộc OECD,
mà trong nghiên cứu chiếm tới 84% tổng mức tăng của sản xuất khí tự nhiên thế giới
từ 2006 tới 2030. Sản xuất khí tự nhiên của các nước không thuộc OECD tăng tới mức
trung bình 2,1%/năm, từ 65 nghìn tỉ feet khối vào năm 2006 lên 106 nghìn tỉ feet khối
vào năm 2030, còn sản xuất của các nước thuộc OECD tăng trưởng chỉ có 0,8%/năm,
từ 40 nghìn tỉ feet khối lên 47 nghìn tỉ feet khối.

Bảng 6: Sản xuất khí tự nhiên của thế giới theo nước và nhóm nước, 2006-2030
(Đơn vị: nghìn tỷ Feet khối)




OECD Bắc Mỹ

26.6
27.7
27.9
29.0
31.1
31.9
0.8
Mỹ
18.3
20.1
20.5
21.5
23.3
23.6
1.1
Canada
6.5
5.5
5.4
5.4
5.6
5.7
-0.6
Mexico
1.7
2.1
2.1
2.1
2.3
2.5

1.6

×