Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Nhiên liệu sinh học lợi ích và thách thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.7 KB, 52 trang )


1


LỜI GIỚI THIỆU


Hiện nay, thế giới đang phải đối mặt với các vấn đề nóng bỏng đó là: đảm bảo
nguồn năng lượng thay thế khi nhiên liệu hoá thạch nhất là dầu mỏ ngày càng trở nên
khan hiếm; môi trường tự nhiên ngày càng suy thoái, do sử dụng quá nhiều nhiên liệu
hoá thạch và tốc độ đô thị hoá tăng nhanh; hiện tượng nóng dần lên của Trái đất do
lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính là một trong những thách thức lớn nhất toàn cầu
trong thế kỷ 21; gần 2 tỷ người nghèo còn thiếu nước sinh hoạt và chưa được tiếp cận
với nguồn năng lượng tiên tiến.
Đảm bảo cung cấp năng lượng nhất là năng lượng tái tạo sẽ góp phần giảm đói
nghèo của các nước đang phát triển, làm giảm chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế
giữa các nước phát triển và đang phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế. Mô hình
vận hành phát triển kinh tế - xã hội hiện tại dựa chủ yếu vào nhiên liệu hoá thạch là mô
hình phát triển không bền vững về an ninh năng lượng lâu dài và làm suy thoái môi
trường và hệ sinh thái.
Thực hiện mục tiêu về an ninh năng lượng bền vững và bảo vệ khí hậu Trái đất,
ngôi nhà chung của nhân loại là trách nhiệm của các quốc gia không phân biệt hệ
thống chính trị, sự giàu nghèo hoặc kinh tế khác nhau. Nhiều nước trong vòng vài thập
kỷ qua đã có chính sách kết hợp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn năng lượng
hiện có với chính sách khai thác sử dụng các nguồn năng lượng sạch như năng lượng
nguyên tử, năng lượng tái tạo trong đó có nhiên liệu sinh học (NLSH), nhưng NLSH
vẫn đang là chủ đề gây tranh cãi trong các thảo luận quốc tế.
Để làm sáng tỏ thêm vấn đề này,Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia giới thiệu
Tổng luận: “NHIÊN LIỆU SINH HỌC: LỢI ÍCH VÀ THÁCH THỨC” nhằm cung cấp
thêm thông tin về sản xuất và sử dụng loại nhiên liệu này. Hy vọng tài liệu sẽ có ích
cho độc giả.



TRUNG TÂM THÔNG TIN
KH&CN QUỐC GIA





2
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT





TT
Nội dung
Viết tắt
1
Nhiên liệu sinh học
NLSH
2
Viện Năng lượng và Tài nguyên Ấn Độ
TERI
3
Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc
FAO
4
Liên minh châu Âu
EU

5
Xí nghiệp nhỏ và vừa
SMEs
6
Ngân hàng Thế giới
WB
7
Cơ chế phát triển sạch
CDM
8
Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển
UNCTAD
9
Nhân dân tệ
NDT
10
Khí nhà kính
GHG
11
Chất thải rắn đô thị
MSW
12
Chất thải tách từ nhiên liệu
RDF












3
ĐẶT VẤN ĐỀ



Hiện nay dầu mỏ chiếm hơn 35% tổng mức tiêu thụ năng lượng thương mại chủ
yếu của toàn thế giới. Xếp thứ hai là than đá chiếm 23% và khí thiên nhiên đứng
thứ 3 chiếm 21%. Những loại nhiên liệu hoá thạch này là nguồn phát thải khí nhà
kính chủ yếu gây nóng lên toàn cầu và làm biến đổi khí hậu. Các loại NLSH
chiếm khoảng 10% tổng mức tiêu thụ năng lượng chủ yếu trên toàn cầu, loại năng
lượng này dưới dạng nhiên liệu rắn, khí sinh học, nhiên liệu lỏng như ethanol sinh
học và diezel sinh học lấy từ các loại cây trồng như cây mía đường, củ cải đường
và các loại cỏ năng lượng hoặc từ gỗ nhiên liệu, than củi, chất thải nông nghiệp và
các sản phẩm phụ, những phế thải rừng, phân vật nuôi và các sản phẩm khác.
Trong thế kỷ 21, sự chuyển đổi quan trọng từ nền kinh tế dựa vào nhiên liệu
hoá thạch sang nền kinh tế dựa vào năng lượng sinh học mà năng lượng sinh học
được tạo ra bởi NLSH, sự chuyển đổi này có thể không chỉ có lợi cho người
nghèo ở nông thôn mà cho tất cả mọi người trên hành tinh, vì NLSH có thể giúp
giảm nhẹ biến đổi khí hậu, sử dụng loại nhiên liệu này sẽ giảm phát thải khí nhà
kính.
Theo Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO), ngành nông - lâm nghiệp có
thể cung cấp những nguồn năng lượng sinh học hàng đầu, là yếu tố then chốt để
đạt được 2 mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc: Xoá đói giảm
nghèo và đảm bảo môi trường bền vững. Tăng sử dụng năng lượng sinh học có thể
giúp đa dạng hoá các hoạt động nông - lâm nghiệp, ổn định an ninh lương thực,

góp phần phát triển bền vững.
Tăng sử dụng sinh khối làm năng lượng có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế, đặc
biệt ở những vùng nông thôn, từ đó thu hút đầu tư, mở ra các cơ hội kinh doanh
mới của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất NLSH,
thuốc chữa bệnh, vận tải, thương mại và sử dụng.

4
Sinh khối là nguồn năng lượng sẵn có ở địa phương có thể cung cấp nhiệt và
năng lượng, góp phần thay thế các loại nhiên liệu nhập khẩu, giúp tăng cường an
ninh năng lượng quốc gia, giảm nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm từ dầu mỏ .
Vấn đề nguyên liệu đầu vào cho sản xuất NLSH, nhất là trong lúc tình hình
cung cấp lương thực toàn cầu đang có xu hướng giảm, việc lựa chọn các loại cây
làm nguyên liệu đầu vào và sử dụng các vùng đất trồng chúng là mối quan tâm
của thế giới hiện nay.
Hiện nay người ta quan tâm đến việc chuyển đổi sinh khối thành năng lượng và
một số nước đã đưa ra những chiến lược và chương trình quốc gia. Để khai thác
nguồn nhiên liệu này hiệu quả, cần có các biện pháp quản lý phù hợp trong sản
xuất và sử dụng NLSH, đảm bảo được các dịch vụ năng lượng cho người nghèo ở
nông thôn.
Tuy nhiên, gần đây giá lương thực tăng cao, một phần do diện tích cây lương
thực, chẳng hạn như ngô được chuyển sang sản xuất NLSH đã làm tăng mối quan
tâm của thế giới. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, NLSH có thể làm trầm trọng
thêm phát thải khí nhà kính hơn là giảm thiểu chúng. Trong khi lợi ích tiềm năng
của NLSH đã thuyết phục một số chính phủ chớp lấy khả năng này, song nhiều
nhà lãnh đạo hiện nay vẫn còn đang phân vân về giá của nhiên liệu, đặc biệt là tác
động tới giá lương thực và các tác động bất lợi đối với môi trường.
Vấn đề đang được quan tâm nhiều ở các nước đang phát triển là vai trò của các
chính phủ và lĩnh vực tư nhân trong việc mở rộng sản xuất và sử dụng NLSH từ
sinh khối nông - lâm nghiệp để sản xuất và khai thác hiệu quả nguồn nhiên liệu
này.


5
I. NHIÊN LIỆU SINH HỌC VÀ MỐI QUAN TÂM HIỆN NAY

1.1 Khái niệm và các nhóm NLSH
NLSH là những nhiên liệu có nguồn gốc từ các vật liệu sinh khối như củi, gỗ, rơm,
trấu, phân và mỡ động vật nhưng đây chỉ là những dạng nhiên liệu thô. NLSH dùng
cho giao thông vận tải chủ yếu gồm: các loại cồn sản xuất bằng công nghệ sinh học để
sản xuất ra Gasohol (Methanol, Ethanol, Buthanol, nhiên liệu tổng hợp Fischer
Tropsch); các loại dầu sinh học để sản xuất diesel sinh học (dầu thực vật, dầu thực vật
phế thải, mỡ động vật). Hay nói cách khác; NLSH là loại nhiên liệu được hình thành từ
các hợp chất có nguồn gốc động thực vật (sinh học). Ví dụ như nhiên liệu chế xuất từ
chất béo của động thực vật (mỡ động vật, dầu dừa, ), ngũ cốc (lúa mỳ, ngô, đậu
tương ), chất thải trong nông nghiệp (rơm rạ, phân, ), sản phẩm thải trong công
nghiệp (mùn cưa, sản phẩm gỗ thải ), Loại nhiên liệu này có nhiều ưu điểm nổi bật so
với các loại nhiên liệu truyền thống (dầu khí, than đá ):
 Tính chất thân thiện với môi trường: chúng sinh ra ít hàm lượng khí gây hiệu
ứng nhà kính (một hiệu ứng vật lý khiến Trái Đất nóng lên) và ít gây ô nhiễm
môi trường hơn các loại nhiên liệu truyền thống.
 Nguồn nhiên liệu tái sinh: các nhiên liệu này lấy từ hoạt động sản xuất nông
nghiệp và có thể tái sinh. Chúng giúp giảm sự lệ thuộc vào nguồn tài nguyên
nhiên liệu không tái sinh truyền thống.
Tuy nhiên hiện nay vấn đề sử dụng NLSH vào đời sống còn nhiều hạn chế do chưa
hạ được giá thành sản xuất xuống thấp hơn so với nhiên liệu truyền thống. Trong
tương lai, khi nguồn nhiên liệu truyền thống cạn kiệt, NLSH có khả năng là nguồn
thay thế.
Năng lượng sinh học được tạo ra từ NLSH (nhiên liệu rắn, khí sinh học, nhiên liệu
lỏng như ethanol sinh học và diezel sinh học) lấy từ các loại cây trồng như cây mía
đường, củ cải đường và các loại cỏ năng lượng hoặc từ gỗ nhiên liệu, than củi, chất
thải nông nghiệp và các sản phẩm phụ, những phế thải rừng, phân vật nuôi và các sản

phẩm khác.
NLSH là khái niệm chung chỉ tất cả những dạng nhiên liệu có nguồn gốc sinh học,
có thể tạm chia làm mấy nhóm sau:
- Xăng sinh học - xăng pha cồn ethanol
- Diezel sinh học - diezel pha cồn ethanol hoặc dầu thực vật như dầu dừa, cọ, dầu
hạt cải
- Sinh khối - rơm rạ, củi, bã mía, trấu,
- Khí sinh học - những loại hỗn hợp khí tạo thành do sự phân hủy yếm khí trong
nông, lâm nghiệp, chăn nuôi, xử lý chất thải

6
Trong đó, hai dạng NLSH được sản xuất, sử dụng ở quy mô công nghiệp là xăng
sinh học và diezel sinh học, ở đây chúng ta quan tâm chủ yếu đến hai dạng này.
Diezel sinh học:
Là nhiên liệu diezel được sản xuất từ dầu thực vật như dầu canola, dầu đậu nành
hoặc mỡ động vật kết hợp với một loại cồn metanol hay ethanol có thể sử dụng cho xe
chạy động cơ diezel.
Người ta thường pha chế thêm 2 - 10% dầu thực vật hay 5 - 10% cồn ethanol khan
vào dầu diezel và dùng thay thế cho diezel truyền thống mà không cần có sự thay đổi
nào về động cơ. Tuy nhiên, sử dụng trực tiếp dầu thực vật gây ra một số vấn đề kỹ
thuật nên thông thường phải biến tính hóa dầu thực vật trước khi pha chế với diezel.
Xăng sinh học:
Đây là dạng NLSH đang được sản xuất, sử dụng với khối lượng rất lớn, năm 2004
sản lượng cồn trên thế giới khoảng gần 40 tỷ lít trong đó có đến 60 - 65% được dùng
làm nhiên liệu.
Sản lượng cồn sản xuất tập trung chủ yếu ở một số khu vực thể hiện ở bảng 1:

Bảng 1: Sản lượng cồn sản xuất tập trung chủ yếu ở một số khu vực trên Thế giới
TT
Khu vực, quốc gia

Sản lượng (tỷ lít/ năm)
1
Braxin
14
2
Hoa Kỳ
10
3
Trung Quốc
3
4
LB Nga
2,5
5
Ấn Độ
2
6
Tây Âu
2

Theo dự báo của các chuyên gia, trong vòng 10 năm nữa, ít nhất 60% số xe hơi đang vận
hành trên thế giới sẽ sử dụng những loại nhiên liệu sạch thay vì dùng xăng. Hầu hết thân và
lá của các loại cây mà chúng ta đang gieo trồng hiện nay, rác thải hay đồ phế thải đều có thể
dùng để chiết xuất thành những nhiên liệu sạch thay vì đốt cháy chúng.

Có thể liệt kê một số loại sau:
- Xenluloza Ethanol
Xác thực vật thân gỗ là một trong những ưu tiên số 1 để chiết xuất thành nhiên liệu.
Bằng phương pháp sinh học, người ta đã xử lý trước khi chúng phân hủy trong môi
trường hơi axít sau đó ngâm trong bồn nước nóng vài ngày. Vi khuẩn và các loại

enzym hoạt động tích cực, phá vỡ các phân tử gỗ (xenluloza) thành một loại đường

7
(xylose) có vị ngọt giống như trong kem đánh răng. Chất này giúp lên men toàn bộ xác
thực vật và công đoạn cuối cùng là chưng cất thành ethanol.
Hiện tại một nhà máy chưng cất nhiên liệu Ethanol quy mô lớn đang khởi động tại
bang Iowa (Hoa Kỳ). Vào cuối năm 2011 nhiên liệu Xenluloza ethanol sẽ dùng cho xe
hơi. Nhược điểm của phương pháp chưng cất này là tốn nhiều nước.
Các hãng nhiên liệu và nhà sản xuất động cơ đầu tư: Iogen (Shell), POET, SunEthanol
và Verenium. Lượng nước sạch tiêu tốn để có 1 lít ethanol: 11,2 lít. Hiệu suất: 66%.

- Ethanol từ cây ngô
Thân cây ngô, thức ăn thừa, thậm chí cả lốp xe cũ là sự kết hợp tuyệt vời để cho ra
thứ nhiên liệu ethanol sinh học. Trong môi trường yếm khí, dưới sức nóng của vài
nghìn độ C, không có ôxy, hỗn hợp này không cháy mà bị “bẻ gẫy vụn” bởi carbon
ôxít, carbon điôxít và hyđrô. Hỗn hợp khí thu được dạng gas sạch, lạnh và chỉ cần chất
xúc tác tách được ethanol và nhiều loại cồn khác.
Cuối năm 2009, nhiều nhà máy tách ethanol như thế sẽ đưa ra sản phẩm tại bang
Pennsilvania và Georgia, hoa Kỳ. Phương pháp điều chế ethanol này không tốn nhiều
nước và cho hiệu suất cao. Các hãng nhiên liệu và nhà sản xuất động cơ đầu tư:
Coskata (General Motors), Range Fuels. Lượng nước sạch tiêu tốn để có 1 lít ethanol:
3,78 lít. Hiệu suất: 66%.

- Dầu chiết xuất từ tảo
Sự biến đổi di truyền đặc biệt của loài tảo bởi những phản ứng sinh học cho phép
các nhà khoa học nghĩ tới một loại nhiên liệu sạch khá hoàn hảo. Tảo được nuôi trong
những túi nhựa lớn với nước và chúng rất thích ứng với khí cácboníc đậm đặc thải ra
từ các nhà máy xi măng, khí đốt lò than hay hơi men bia rượu. Sau đó tảo sẽ được tách
khỏi nước bằng máy li tâm và chiết xuất thành dầu với một loại dung môi. Quá trình
tách dầu tảo cho hiệu suất lớn hơn bất cứ loại thực vật nào hiện có như đậu nành hay

dừa, chà là… Tuy nhiên việc nuôi dưỡng chúng khá phức tạp và tốn công. Nhiều nhà
máy chiết xuất dầu tảo đang được xây dựng ở Hoa kỳ, vào năm 2012 dầu tảo sẽ có mặt
trên thị trường. Các hãng nhiên liệu và nhà sản xuất động cơ đầu tư: GreenFuel, HR
Biopetroleum (Shell), Solazyme, Solix. Lượng nước sạch tiêu tốn để có 1 lít dầu tảo:
Không. Hiệu suất: 103%.

- Dầu mía
Đường thô từ mía và các loại cây cùng họ của nó có phản ứng rất mạnh với các chất
xúc tác cứng để loại bỏ ôxy trong các phân tử đường và tạo thành năng lượng hyđrô các
bon. Bằng phương pháp tinh chế truyền thống, việc tách các phân tử đường thô khá đơn
giản, từ đó người ta đã chiết được các loại nhiên liệu như xăng, dầu diesel và khí.

8
Mía và các loại cây chứa đường cho năng lượng rất sạch mà quá trình chiết xuất
không quá phức tạp. Tuy nhiên so với các loại thực vật khác thì việc sử dụng đường
thô làm nhiêu liệu có giá thành cao hơn. Tập đoàn nhiên liệu và khí đốt Virent công bố
vào năm 2012 sẽ bán dầu mía dùng cho xe hơi.Các hãng nhiên liệu và nhà sản xuất
động cơ đầu tư: Virent (Shell và Honda) Lượng nước sạch tiêu tốn để có 1 lít dầu mía:
Không. Hiệu suất: 100%

- Butanol sinh học
Cũng như ethanol, quá trình chiết suất butanol cũng từ xác thực vật thuộc họ cây có
đường, tuy nhiên được thực hiện dựa trên khía cạnh biến đổi di truyền học của thực
vật. Các loại vi khuẩn sẽ giúp lên men và biến đường thô thành cồn. Không cần đến
nước, butanol sinh học đậm đặc, dễ chứa cũng như dễ vận chuyển. Butanol là nhiên
liệu rất quan trọng cho ngành công nghiệp chế tạo tên lửa. Trước đó theo cách chiết
xuất truyền thống chỉ lấy được butanol từ dầu mỏ.
Nhiều nhà máy của Anh và Hoa Kỳ đang xúc tiến chiết butanol từ các nguồn
nguyên liệu mới. Vào năm 2012 sẽ cho ra đời butanol sinh học.
Các hãng nhiên liệu và nhà sản xuất động cơ đầu tư: Cobalt Biofuels, Dupont (BP),

Gevo, Tetravitae Bioscience. Lượng nước sạch tiêu tốn để có 1 lít dầu mía: Không.
Hiệu suất: 900%.

1.2. Những nguyên tắc cơ bản của sản xuất NLSH
Nhìn chung, NLSH gồm các nhiên liệu ở dạng rắn, lỏng, và khí được tách ra từ các
chất sinh học và hữu cơ, mục đích chính là để sử dụng làm nhiên liệu cho các loại xe
có động cơ và các thiết bị sưởi nóng.
Sản xuất NLSH cần sử dụng 2 phương pháp chính:
Một là sử dụng các loại cây trồng có hàm lượng đường và tinh bột cao, sau đó sử
dụng quá trình lên men để sản xuất ethanol sinh học. Cách khác có thể sử dụng mỡ các
động thực vật có chứa hàm lượng dầu thực vật cao, sau đó là quá trình este hóa để sản
xuất ethanol sinh học.
Ethanol sinh học còn được gọi là cồn ngũ cốc hay cồn este, một loại NLSH được
sản xuất từ quá trình lên men các thực vật giàu đường và tinh bột và loại nhiên liệu
này được pha trộn với xăng. Ethanol sinh học có thể được chiết xuất từ các cây trồng
nông nghiệp như sắn, ngô, cây mía, củ cải đường, kê và các cây trồng tương tự khác.
Ethanol sinh học chủ yếu được sản xuất thông qua một quy trình chưng cất ethanol,
nhờ đó mà đường và tinh bột từ các nguyên liệu đầu vào được đun sôi và cô đặc tạo
thành cồn ngũ cốc. Các bước cơ bản cho sản xuất ethanol ở quy mô lớn, sử dụng tinh
bột là: Hóa lỏng- đường hóa- lên men vi sinh - và tinh lọc bao gồm chưng cất, khử

9
nước và qua quá trình biến chất bắt buộc. Các công đoạn chính được thể hiện trong sơ
đồ 1:

Sơ đồ 1: Các công đoạn chính của sản xuất NLSH















Năng lượng chứa trong ethanol xấp xỉ bằng 2/3 năng lượng trong xăng tính theo
cùng thể tích. Bởi lẽ đó giá của nó cao hơn, đặc biệt ethanol được sử dụng làm chất
phụ gia cho xăng. Tất cả các động cơ xe có thể sử dụng ethanol pha trộn với khối
lượng nhỏ, tới 20% (E20) hoặc với nồng độ cao, tới 85% (E85).
Các loại nhiên liệu đầu vào khác nhau do các đặc tính và hàm lượng đường thay
đổi, lượng ethanol thu được cũng khác nhau.

Bảng 2: Sản lượng ethanol theo các cây làm nguyên liệu đầu vào khác nhau
TT
Loại cây trồng
Lượng ethanol/0,4ha (tính bằng gallon)
1
Củ cải đường ( Pháp)
714
2
Cây mía ( Braxin)
662
3
Sắn (Nigeria)
410

4
Lúa miến (Ấn Độ)
374
5
Ngô ( Hoa Kỳ)
354
6
Lúa mỳ (Pháp)
227
Nguồn: Earth Policy Institute. Plan B 2.0: Rescuing a Planet Under Stress and
Civilization in Trouble 2006.

NLSH được sản xuất bằng phương pháp chuyển hóa este, một quá trình tách dầu
hữu cơ để tạo ra cồn (ethanol hoặc methanol) với chất xúc tác là ethyl hoặc methyl
ester. NLSH có thể pha trộn với nhiên liệu diesel hoặc sử dụng trực tiếp 100% để chạy

Tinh bột

Hóa lỏng

Đường hóa

Lên men

Tinh chế

Ethanol

10
động cơ. NLSH được chiết xuất từ các cây trồng nông nghiệp hoặc các nguồn từ dầu

cọ, dừa, đậu tương, lạc, vừng, hạt cây cải dầu, dầu từ rau thải hoặc dầu từ các vi tảo.
Diesel sinh học về tính chất giống như diesel từ dầu lửa, nhưng về bản chất chúng
được tách ra từ tự nhiên, nguồn tái tạo. Pha trộn 20% diesel sinh học với 80% dầu lửa
(B20) có thể sử dụng trong tất cả các thiết bị đốt diesel gồm, các động cơ đốt trong,
các nồi hơi nhiệt chạy dầu không được cải tiến. lượng pha trộn cao hơn gồm diesel
sinh học tinh khiết có thể sử dụng trong rất nhiều động cơ đã có chút ít cải tiến sau
năm 1994. Các loại rau thải là nguồn dầu dồi dào để sản xuất diesel sinh học nhưng vì
nguồn có sẵn không đảm bảo, vì vậy trên thế giới khó có thể kiếm đủ để sản xuất đáp
ứng cho các thiết bị dùng diesel. Tương tự, nguồn cung cấp mỡ động vật cũng hạn chế.
Hiện nay cây trồng nông nghiệp là nguồn nguyên liệu đầu vào để sản xuất diessel
sinh học có thể sử dụng được. Một thông số ảnh hưởng tới khả năng của nguồn nguyên
liệu đầu vào để sản xuất một khối lượng lớn diesel sinh học đó là khả năng sản lượng
trên diện tích trồng các loại cây nông nghiệp khác nhau. Một số sản lượng đặc trưng
của diesel sinh học được thể hiện ở bảng 3.

Bảng 3: Đặc trưng của nguyên liệu đầu vào để sản xuất diesel sinh học
TT
Cây trồng
Sản lượng ( lít/ha)
1
Dâm dương thảo ở Trung Quốc
503-970
2
Dầu cọ
508
3
Dừa
230
4
Hạt cải dầu

102
5
Đậu tương
59,2-98,6
6
Lạc
90
7
Cây hướng dương
82
Nguồn: Earth Policy Institute, Klass, Donald “Biomass for renewable Energy, fuels
and chemicals”. Academic Press, 1998

Tất cả các nguồn đầu vào và công nghệ sản xuất NLSH nêu trên được gọi là NLSH
thế hệ 1. Loại nhiên liệu thế hệ này bị hạn chế bởi việc mở rộng các nguồn có sẵn như
sử dụng đất hiện nay để trồng các loại cây thích hợp là có hạn và bằng các công nghệ
truyền thống sử dụng để chuyển đổi các nguồn nguyên liệu này thành NLSH còn bị
hạn chế bới hiệu quả và phương pháp xử lý.
Vì vậy người ta đã hướng tới NLSH thế hệ 2 . Loại NLSH này được sản xuất từ
nguồn nguyên liệu sinh khối không phải là lương thực, sử dụng các công nghệ đang
được triển khai hiện nay thông qua các thực nghiệm tự nhiên. Các nguyên liệu này
được gọi là “sinh khối xenluloza” có nguồn gốc từ chất thải nông nghiệp, chất thải
rừng, chất thải rắn đô thị, các sản phẩm phụ từ quá trình chế biến thực phẩm hoặc loại
cỏ sinh trưởng nhanh. Hiện nay người ta còn xếp nhiên liệu từ tảo là loại NLSH thế hệ
3. NLSH thế hệ 2 và thế hệ 3 được gọi là NLSH tiên tiến.

11
1.3. Những mối quan tâm hiện nay về NLSH
Hiện nay trên thế giới nhiều nước đang tìm kiếm các giải pháp để đạt được mục tiêu
về NLSH thông qua quá trình sản xuất và sử dụng hợp lý, nhưng cũng có nhiều mối

quan tâm về lĩnh vực này. Nhiều người cho rằng giá NLSH cao hơn. Các nhà chỉ trích
cũng yêu cầu giảm thải cácbon xung quanh vấn đề sản xuất NLSH. Số khác đã chỉ ra
rằng một số phương pháp sản xuất NLSH có thể làm tăng mạnh lượng nitơ thải vào
các sông hồ và các vùng nước biển. Sử dụng đất ngày càng tăng để sản xuất NLSH -
tăng mạnh sử dụng đất để sản xuất lương thực và sợi có thể gây ra các tác động
nghiêm trọng tới bảo tồn và các dịch vụ sinh thái và an ninh sinh kế của những người
sử dụng đất nghèo khó. Ngoài ra còn có những thách thức về kinh tế. Nhiều nước vùng
nhiệt đới nghèo đã coi đây là các mục tiêu tiềm năng đối với các đầu tư tương lai, hiện
nay còn thiếu cơ sở hạ tầng giao thông, nông nghiệp và thiếu kiến thức đầy đủ về tiềm
năng của NLSH. Hơn nữa các rào cản thương mại đang tiếp tục cản trở phát triển thị
trường NLSH toàn cầu. Các nhà phê phán cho rằng, thiếu chính sách công phù hợp, lợi
ích tiềm năng từ việc gia tăng sản xuất NLSH có thể bị tác động bởi giá nhiên liệu.
Điều quan trọng để giải quyết những mối quan tâm ngày càng tăng về NLSH đó là
cần đảm bảo chính sách hiệu quả. Bất kỳ chính sách đơn phương nào sử dụng để giải
quyết đồng thời mọi thách thức đều không hiệu quả và sẽ đánh mất cơ hội nhận ra các
lợi ích tiềm năng của NLSH. Trong thực tế, một chính sách hợp lý sẽ cần nhiều công
cụ và sự can thiệp khác nhau để thực hiện các mục tiêu đề ra.
Những mối quan tâm hiện nay :
 NLSH làm tăng giá lương thực
Theo FAO, năm 2007 giá lương thực toàn cầu tăng đột ngột gần 40% và nay sẽ còn
tiếp tục tăng. Gần như toàn bộ các sản phẩm nông nghiệp đã bị ảnh hưởng bao gồm
các loại ngũ cốc chính như ngô, lúa mỳ và lúa nước. Các nguyên nhân tăng giá gồm:
thời tiết bất lợi diễn ra ở các khu vực sản xuất chính, giá đầu vào cho sản xuất nông
nghiệp tăng (đặc biệt là dầu và các sản phẩm từ dầu mỏ và phân bón) và tính linh hoạt
bị hạn chế trong sản xuất nông nghiệp. Nhu cầu lương thực cũng gia tăng, đặc biệt là ở
các nước châu Á và các nước cận Sahara, châu Phi. Trong khi các chuyên gia đang bất
đồng về việc mở rộng sản xuất NLSH vì nó đẩy giá lương thực tăng cao hơn, mất đất
sản xuất lương thực và tạo ra cạnh tranh về sử dụng đất.
Mặt khác, yếu tố cơ bản làm tăng giá lương thực là do các phương thức sản xuất
nông nghiệp không còn được duy trì bởi những thay đổi về thách thức và nhu cầu.

Trong vài thập kỷ, nghiên cứu triển khai trong nông nghiệp bị thiếu vốn do các đầu tư
tập trung vào cơ sở hạ tầng nông thôn và các công nghệ tưới tiêu hiện đại. Hơn nữa,
các chính sách về năng lượng và môi trường đã thúc đẩy phát triển NLSH gây tác động
và chi phối các chính sách về nông nghiệp. Vì vậy, việc sản xuất NLSH đã không
được lồng ghép đầy đủ và gắn với các chính sách nông nghiệp.

12
 Các khí nhà kính
Khi xác định được toàn bộ dây chuyền sản xuất phù hợp, sản xuất một số loại
NLSH như ethanol từ cây mía, kết quả cho thấy lượng cácbon điôxit giảm đáng kể so
với phát thải của nhiên liệu xăng truyền thống. Sản xuất một số NLSH lượng phát thải
cácbon thực tế có thể giảm đi hoặc thậm chí tăng lên. Đặc biệt việc phát quang các
cánh rừng để trồng cây năng lượng là mối quan tâm lớn, vì phương thức này có thể
làm thải ra một lượng lớn cácbon điôxit vào khí quyển. Các nguồn phát thải khác của
các khí nhà kính cũng là mối quan tâm như quá trình ô xy hóa các bãi than bùn được
tạo ra trong quá trình phát quang các rừng ngập nước để trồng cọ ở Inđônêxia. Ngoài
ra cũng không thể bỏ qua phát thải N
2
O, một loại khí nhà kính sinh ra trong quá trình
sản xuất và sử dụng NLSH. Phát triển NLSH sẽ làm tăng phát thải khí nhà kính hơn là
giảm, gây ảnh hưởng các mục tiêu chống biến đổi khí hậu. Các chính sách cần phải
đảm bảo bảo vệ được rừng và khích lệ những thay đổi các phương thức canh tác nông
nghiệp để làm giảm khí nhà kính thực sự. Vì thiếu các công nghệ phù hợp về giảm thải
các bon, người ta lý giải rằng hãy để cho xã hội đánh giá chính xác tác động của các
phương pháp canh tác lâm-nông nghiệp khác nhau. Thiếu phương pháp luận thống
nhất cũng là cản trở lớn để triển khai và thực hiện ngành công nghiệp NLSH bền vững
và các chính sách kết hợp. Hiện nay một số tổ chức quốc tế đang nỗ lực tháo gỡ cản
trở này.
 Các hệ sinh thái
Ô nhiễm không khí và nước, phá rừng, mất đa dạng sinh học và sử dụng quá mức

nước để tưới ở các nước sẽ dẫn đến tình trạng thiếu nước gia tăng vào vài thập kỷ tới,
đây là các vấn đề phải rất chú ý trong phát triển nông nghiệp để vừa tăng được sản
lượng lương thực và sản xuất NLSH. Việc mở rộng phát triển các mô hình hỗn hợp,
gồm sản xuất của các chủ có quy mô nhỏ, sự cân bằng giữa việc bảo vệ các hệ sinh
thái với phát triển kinh tế cần được giám sát chặt chẽ hơn.
 Mối quan tâm về thị trường
Một thị trường tự do và mở đối với NLSH để các sản phẩm, công nghệ và các nhà
sản xuất có thể tự do cạnh tranh sẽ khuyến khích được việc cải tiến sản phẩm, tăng khả
năng sản xuất và giảm giá thành. Nhưng rõ ràng là việc sử dụng đất trong môi trường
và các chi phí kinh tế đòi hỏi có sự can thiệp của quản lý để thiết lập các tiêu chuẩn tối
thiểu, tạo ra một sân chơi bình đẳng. Những quan tâm về thị trường có thể gộp lại vào
4 lĩnh vực: thương mại; khuyến khích; cơ sở hạ tầng và sử dụng đất.
- Về thương mại: Hiện nay thị trường NLSH trên thế giới chưa hình thành. Thuế
nhập khẩu và rào cản thương mại phi thuế do các nước tiêu thụ NLSH tiềm năng đặt ra
đã kìm hãm sự nổi lên của một thị trường chức năng toàn cầu và làm giảm các cơ hội
kinh tế đối với hàng loạt các nước đang phát triển. Các chính sách này cũng làm giảm

13
tiếp cận của các nước đang tiêu thụ NLSH giá thấp. Tuy nhiên, sự cạnh tranh trực tiếp
có thể tránh được ở những nơi người nông dân của các nước phát triển bảo vệ được thị
trường nội địa của họ và các nhà cung cấp lương thực và nhiên liệu ở các nước đang
phát triển có thể nhận dạng và tiếp cận với các thị trường mới.
- Khuyến khích: Mối quan tâm về các khuyến kích và ủy thác hiện nay cho sản xuất
NLSH chưa hợp lý. Rất nhiều ủy thác không phù hợp. Tuy nhiên, gần đây Hội nghị
Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) đã chỉ ra rằng không một
nước nào xây dựng một thị trường NLSH lại không sử dụng ủy thác và trợ cấp. Nếu
vội vã loại bỏ sự ủy thác hiện nay sẽ làm giảm tác dụng của ngành sản xuất NLSH còn
non trẻ, vì các nhà đầu tư đã cam kết về tài chính để đáp ứng các ủy thác, thiết lập khả
năng sản xuất bền vững. Tính biến động của chính sách và độ vững chắc của các
chương trình là sự thúc ép mạnh mẽ đối với đầu tư tương lai vào sản xuất và sử dụng

NLSH.
Đối với NLSH thế hệ 2 đang nổi lên, cần phải đầu tư tài chính vào giảm thiểu phát
thải khí nhà kính trong tất cả các công đoạn của dây chuyền sản xuất. Đơn giản chỉ
dựa vào việc ngăn cấm và những khuyến khích tiêu cực khác để đạt được mục đích là
không hiệu quả.
- Cơ sở hạ tầng: Một thách thức thị trường nữa là nhiều nước có năng lực sản xuất
NLSH yếu kém do thiếu phương tiện giao thông, thể chế , các quy định và cơ sở hạ
tầng dịch vụ để hỗ trợ ngành công nghiệp NLSH. Các đầu tư vào cơ sở hạ tầng là các
đầu tư ưu tiên để sản xuất NLSH, vì các ngân hàng phát triển sẽ không cung cấp tài
chính trừ phi nhu cầu về sản phẩm được xác định rõ ràng.
Nhiều nước đang phát triển thiếu các quy định, thể chế và hệ thống luật pháp để
thuyết phục các nhà đầu tư chấp nhận rủi ro về tài chính trong quá trình xây dựng
ngành công nghiệp mới nổi này. Chính phủ các nước này đang đấu tranh để triển khai
và thực hiện các hệ thống như hỗ trợ nhu cầu kỹ thuật, tài chính để xây dựng một
khung quản lý phù hợp.
- Sử dụng đất: Khi giá nhiên liệu và lương thực gia tăng, sự cạnh tranh đất trên thế
giới, đặc biệt là diện tích rừng sẽ trở nên mãnh liệt. Nhiều nước phát triển thiếu năng
lực thể chế để đáp ứng các chính sách và lồng ghép chương trình về chính sách nông
nghiệp, năng lượng và môi trường chính sách về sử dụng đất một cách chặt chẽ. Các
chính phủ, người giữ vai trò tạo điều kiện thuận lợi giữa các cộng đồng địa phương,
các doanh nghiệp và các nhóm lợi ích đang chịu sức ép ngày càng gia tăng. Hiện nay
chính phủ các nước đang thiếu sự lựa chọn chặt chẽ về thể chế và chính sách để thực
hiện trách nhiệm này. Đối với nhiều chính phủ, thì đây là một thách thức đặc biệt và
chưa rõ ràng để trên cơ sở đó có thể yêu cầu hỗ trợ về kỹ thuật và tư vấn chính sách từ
bên ngoài.

14
II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NHIÊN LIỆU SINH HỌC TRÊN THẾ
GIỚI


2.1. Tình hình phát triển ở một số nước
An ninh năng lượng luôn gắn liền với an ninh quốc gia, an ninh kinh tế và được
đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển
bền vững. NLSH đang được hầu hết các quốc gia trong đó có Việt Nam hướng tới
sử dụng rộng rãi.
EU đã kêu gọi các quốc gia tăng cường sử dụng NLSH với tỷ lệ gia tăng 5,7%
vào năm 2010 và đạt 20% vào năm 2020. Nghiên cứu sử dụng NLSH hiện nay đã
trở thành xu thế phát triển tất yếu ở nhiều quốc gia để thay thế xăng dầu các thập
kỷ tới. Dự báo, cuối thế kỷ 21, năng lượng tái tạo trong đó có NLSH, sẽ chiếm
hơn 50% số năng lượng thương mại.
Nhiều quốc gia trong 2-3 thập kỷ qua đã tập trung nghiên cứu sử dụng NLSH
(xăng/diesel pha ethanol và diesel sinh học), thay thế xăng dầu truyền thống, tiến
tới xây dựng ngành “xăng dầu sạch”. Thế giới đã có khoảng 50 nước khai thác và
sử dụng NLSH trong đó đi đầu phải kể đến Braxin, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ,
Thái Lan và các nước châu Âu.
Nếu như năm 2003 thế giới mới chỉ sản xuất được khoảng 38 tỷ lít ethanol thì
đến năm 2005 đã sản xuất được 50 tỷ lít (trong đó tới 75% dùng làm NLSH) và dự
kiến đến năm 2012 đạt khoảng 80 tỷ lít. Diesel sinh học nguồn gốc động thực vật
sản xuất năm 2005 đạt 4 triệu tấn nhưng dự kiến đến năm 2010 sẽ tăng lên 20
triệu tấn.
Theo các chuyên gia nhận định, lý do để các nước lựa chọn NLSH bởi nguồn
nguyên liệu thực vật tồn tại phong phú và có khả năng tái tạo, cung cấp với số
lượng lớn để thay thế khi giá xăng dầu đang biến động.
Sản lượng NLSH thế giới đã tăng 28% (từ 44 tỷ lít năm 2006), nhiên liệu
êtanol tăng 22% và diezel sinh học tăng 80%. Mặc dù các loại diezel sinh học chỉ
chiếm gần 1% sản lượng cung cấp nhiên liệu lỏng toàn cầu, nhưng sự tăng mạnh
sản lượng các loại NLSH trong năm 2006 đã đáp ứng 17% nhu cầu cung cấp tăng
thêm của các loại nhiên liệu lỏng trên toàn thế giới của năm 2006.
Bên cạnh đó, nó hạn chế gây ô nhiễm môi trường, làm giảm hiệu ứng nhà kính
và có thể mua bán, chuyển nhượng, thu lợi thông qua các dự án Cơ chế phát triển

sạch (CDM). Ngoài ra, phát triển năng lượng sinh học sẽ góp phần xây dựng
ngành kinh tế nông nghiệp ngoài chức năng cung cấp lương thực còn là nguyên
liệu đầu vào cho năng lượng.

15
Có thể khái quát tình hình sản xuất và sử dụng NLSH ở một số nước như sau:

Braxin:
Braxin là quốc gia đầu tiên trên thế giới có công đưa NLSH trở thành dạng nhiên
liệu phổ biến như ngày nay. Vào đầu những năm 1970, giá dầu mỏ tăng đột biến đã
khiến cho các nhà khoa học Braxin nghĩ đến việc tận dụng thế mạnh về ngành mía
đường của mình để sản xuất ethanol làm nhiên liệu thay thế một phần cho nhiên liệu
truyền thống, nhằm giảm đi sự lệ thuộc vào nguồn dầu mỏ nhập khẩu.
Trải qua hơn 30 năm phát triển, ngày nay ngành công nghiệp sản xuất cồn và NLSH
của Braxin đã trở thành ngành kinh tế trọng yếu của đất nước với doanh thu hàng năm
lên tới gần 10 tỷ USD. Hiện có khoảng 4,2 triệu xe ô tô chạy hoàn toàn bằng cồn khan
và 7,2 triệu xe khác sử dụng nhiên liệu hỗn hợp - xăng pha 22 - 24% cồn. Cả nước có
tới 25.000 trạm cung cấp các dạng NLSH ở khắp nơi trong cả nước.
Kế hoạch của Braxin sản xuất 50 tỷ lít ethanol và 3,5 tỷ lít dầu diezel sinh học vào
năm 2015, cao gấp 1,5 lần sản lượng hiện nay, đồng thời khẳng định sản lượng và giá
lương thực tại quốc gia Nam Mỹ này sẽ không bị ảnh hưởng bởi việc đẩy mạnh sản
xuất hai loại NLSH này trong tương lai.
Phần lớn lượng dầu diezel sinh học sẽ được chiết xuất từ đậu tương và các loạt cây
lấy dầu khác như cọ, bông và hướng dương. Braxin sẽ mở rộng diện tích trồng đậu
tương lên 90 triệu ha, trong đó 75 triệu ha sẽ phục vụ cho sản xuất lương thực và 15
triệu ha phục vụ sản xuất nhiên liệu. Vào năm 2015, thành phần dầu diezel sử dụng tại
Braxin sẽ bao gồm 5% diezel sinh học và 95% diezel sản xuất từ dầu thô.
Trong khi đó, việc sản xuất ethanol sẽ vẫn dựa trên công nghệ hiện nay và Braxin sẽ
tăng gấp đôi diện tích canh tác mía. Dự kiến, nước sản xuất ethanol lớn thứ 2 thế giới
này sẽ tăng diện tích trồng mía, từ 2,5% tổng diện tích đất canh tác trên toàn quốc hiện

nay lên 5%. Ngoài ra, Braxin cũng có kế hoạch xuất khẩu 13 tỷ lít ethanol vào năm
2015. Năm 2007, nước này đã sản xuất 18 tỷ lít ethanol, trong đó xuất khẩu 3 tỷ lít.
Ngân hàng Phát triển kinh tế và xã hội quốc gia Braxin đã kết hợp cùng Tổ chức
Nông-Lương Liên Hợp Quốc (FAO) và Ủy ban kinh tế Mỹ Latinh và Caribê của Liên
Hợp Quốc thực hiện cuộc điều tra "Ethanol sinh học từ mía đường - nguồn năng
lượng cho sự phát triển bền vững". Theo đó, để sản xuất ra 50 tỷ lít ethanol/năm, các
nhà sản xuất hiện đang sử dụng khoảng 15 triệu hécta đất, tương đương khoảng 1%
diện tích đất nông nghiệp toàn cầu, và đạt năng suất trung bình 3.300 lít/hécta.
Điều tra này đã cho thấy rõ sự ưu việt về công nghệ của Braxin, nước có năng suất
trung bình khoảng 6.600 lít ethanol/hécta. Thậm chí theo số liệu của Liên hiệp các
ngành công nghiệp mía đường quốc gia, năng suất của một số trung tâm sản xuất
ethanol tại quốc gia lớn nhất Nam Mỹ này có thể đạt tới 7.500 lít/hécta.

16
Ngoài ra, cây mía từ các niên vụ sau còn cho sản lượng cao hơn nhờ hấp thụ được
những phần thừa hữu cơ của vụ thu hoạch trước, và sau từ 5 đến 10 năm sử dụng liên
tục, năng suất ethanol có thể lên tới mức 13.000 lít/hécta. Đây là một luận cứ quan
trọng của Braxin để làm dịu nỗi lo ngại của nhiều quốc gia trên thế giới rằng phát triển
NLSH sẽ cần thêm diện tích đất nông nghiệp và do đó ảnh hưởng tới an ninh lương
thực.
Dù đã đạt được những thành quả về sản xuất NLSH, Braxin có thể và vẫn cần thu
hút thêm những trung tâm khoa học, các chương trình nghiên cứu sau đại học và các
chuyên gia nước ngoài để đưa ra chương trình sản xuất phù hợp về mặt xã hội, kinh tế
và môi trường.
Để đáp lại những lo ngại rằng các tập đoàn lớn sẽ thâu tóm ngành công nghiệp này
và đẩy người nông dân ra khỏi mảnh đất của họ, các nhà khoa học Braxin cũng đang
chú trọng phát triển công nghệ sản xuất ethanol theo mô hình nhỏ.
Trong Hội chợ triển lãm quốc tế nhiên liệu lần thứ nhất, vừa kết thúc tại thành phố
Sao Paulo (Braxin), năm 2008, nước chủ nhà đã giới thiệu loại máy sản xuất ethanol
thông minh (USI). Theo tác giả của sáng chế ra USI, loại máy lọc sinh học cỡ nhỏ này

cho phép các hộ nông dân có thể sản xuất ra ethanol từ mía, khoai, sắn hoặc lúa miến.
Hiện nay Braxin đang nghiên cứu chế tạo máy phát điện dùng ethanol với mục tiêu
giúp các cộng đồng dân cư nông thôn tự thỏa mãn nhu cầu về điện.
Một sáng kiến khác gây được sự chú ý trong hội chợ trên là máy sản xuất diezel
sinh học cơ động có thể vận chuyển được bằng xe tải. Về mặt ứng dụng NLSH, Braxin
đã cho trưng bày tại Hội chợ bộ sưu tập động cơ Flex, máy bay Ipanema, máy ủi, xe
máy và một số phương tiện chạy bằng cồn sinh học, và sáng chế mới đây nhất là xe
buýt Eletra, hoạt động bằng cách kết hợp diezel sinh học và ắc quy điện.
Là nước tiên phong trong công nghệ sản xuất NLSH, với Chương trình quốc gia về
nhiên liệu cồn sinh học năm 1975 và Chương trình quốc gia về diezel sinh học năm
2005, Braxin luôn nhấn mạnh loại năng lượng tái tạo này giúp làm giảm hiện tượng
trái đất nóng lên. Hiện tại Braxin đang giúp một số nước ở Trung Mỹ phát triển công
nghệ này.

Hoa Kỳ:
Hiện Hoa Kỳ là nước sản xuất ethanol lớn nhất thế giới, với sản lượng năm 2007
đạt 28 tỷ lít, nhưng khác với ethanol của Braxin, ethanol sản xuất tại nước này được
chiết xuất từ ngô.
Hoa Kỳ sản xuất và sử dụng NLSH với quan điểm hoàn toàn khác với Braxin, xuất
phát từ nhu cầu giải quyết tạm thời việc thiếu thị trường tiêu thụ ngô. Năm 1978, Tổng
thống J.Carter là người đầu tiên đưa ra chương trình giảm thuế cho các nhà sản xuất

17
cồn nhiên liệu. Chính sách này đảm bảo tiêu thụ được lượng ngô thừa cùng các dạng
ngũ cốc kém chất lượng mà việc cất giữ bảo quản sẽ không có hiệu quả kinh tế. Bên
cạnh đó, cuộc khủng hoảng về dầu mỏ trong những năm 1970 cũng là một yếu tố tích
cực đối với chương trình NLSH của Hoa Kỳ. Thời gian gần đây, NLSH được sử dụng
rộng rãi ở 36 bang của Hoa Kỳ lại là do áp lực về vấn đề môi trường. Việc sử dụng
NLSH giúp giảm thiểu lượng khí thải độc hại, mặt khác chính thành phần ethanol có
trong xăng làm tăng trị số ốctan cho nhiên liệu, hạn chế việc dùng phụ gia tăng trị số

ốctan mà phụ gia này cũng là tác nhân gây ô nhiễm.
Hoa Kỳ coi sử dụng NLSH như một biện pháp cần thiết để giảm thiểu sự ô nhiễm
môi trường, đặc biệt là ở các thành phố lớn có mật độ xe hơi cao.
Đến năm 2015, sản lượng NLSH của Hoa Kỳ sẽ tăng hơn 16 tỷ gallon (1 gallon
=3,78lít)/năm. Ethanol tăng từ 4,5 tỷ gallon trong năm 2006 lên14,2 tỷ gallon, còn lại
diezel sinh học là 2,15 tỷ gallon. Etanol sẽ tương ứng với 9,4% mức tiêu thụ xăng và
ước tính diezel sinh học sẽ bằng khoảng 4% tổng mức tiêu thụ diezel.
Phần lớn ethanol được bán ở Hoa Kỳ là loại 10E, hỗn hợp gồm 90% xăng và 10%
etanol, có thể được phân phối thông qua các trạm xăng dầu và thông thường được sử
dụng trong các phương tiện chạy bằng nhiên liệu xăng phổ biến. Theo nghiên cứu này,
mức sản xuất ethanol không phụ thuộc vào việc chế tạo các bơm loại 85E hoặc chấp
nhận sử dụng rộng rãi các phương tiện giao thông Flex-Fuel có khả năng như E-85.
Ví dụ, ngô được sử dụng để sản xuất nhiên liệu ethanol sẽ lấy từ các nguồn dự trữ
mà hiện nay để xuất khẩu và chăn nuôi. Từ khi Hoa Kỳ đáp ứng hơn 60% sản lượng
ngô trong thương mại quốc tế thì giá thực tế của nhiên liệu này sẽ cao hơn so với với
giá ngô trên toàn cầu. Thứ hai, ngô là nguồn lương thực chính để chăn nuôi gia súc,
việc chuyển ngô sang hướng sản xuất ethanol có khả năng làm cho giá thịt và cũng
như các sản phẩm bơ sữa tăng lên và sản lượng vật nuôi giảm đi.
Đồng thời, sự gia tăng sản lượng diezel sinh học sẽ có tác động đáng kể đến việc
nhập khẩu các loại dầu thực vật. Hiện nay, Hoa Kỳ thực sự là nhà nhập khẩu dầu thực
vật với khoảng 4,8 tỷ pound (1 pound = 0,454kg)/năm. Báo cáo dự kiến đến năm
2015, sản lượng nhập khẩu này sẽ đạt 20,5 tỷ pound, tăng hơn 300%.
 Ở Hoa Kỳ, việc xây dựng năng lực sản xuất các NLSH sẽ nhanh chóng diễn ra
khi các nhà máy tinh chế dầu cạnh tranh nhau để đảm bảo các nguyên liệu và
đưa các thiết bị sản xuất vào hoạt động.
 Hiệu quả sản xuất các NLSH trong tương lai phần lớn xoay quanh các vấn đề :
giá dầu tăng cao, các chính sách, khuyến khích thuận lợi của Chính phủ và giá
trị, tiềm năng của ngô và các nguyên liệu khác. Nếu bất kỳ một trong những
yếu tố này ít thuận lợi, thì việc sản xuất các NLSH có thể bị giảm đáng kể.


18
 Sản xuất NLSH quy mô lớn ở Hoa Kỳ đang đứng trước thách thức lớn như việc
vận chuyển và các cơ sở hạ tầng, cách thức vận chuyển NLSH và nguyên liệu
đầu vào khác.
 Tuy nhiên, việc phát triển NLSH trong tương lai sẽ không phụ thuộc vào kế
hoạch năng lượng của Hoa Kỳ. Việc giải phóng nền kinh tế toàn cầu khỏi sự
phụ thuộc vào nguồn dầu lửa ở Trung Đông, đòi hỏi các công nghệ khác sử
dụng các nhiên liệu từ thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Xenluloza ethanol được
sản xuất từ các chất thải nông nghiệp và các cây trồng có khả năng bảo quản ở
mức thấp như thân cây cỏ, đây có thể là một nội dung của giải pháp có quy mô
lớn hơn, nếu những thách thức về công nghệ được đáp ứng.

Ấn Độ:
Năm 2006, một nhóm nghiên cứu của Viện Năng lượng và Tài nguyên Ấn Độ
(TERI), đã công bố dự án 10 năm trị giá 9,4 triệu USD nghiên cứu lấy hạt jatropha để
sản xuất nhiên liệu cho các trạm xăng. Một thách thức nữa là trồng cây jatropha trên
đất có chất lượng thấp.
Cây jatropha đầu tiên được trồng trên đất cằn đã ra hoa. Cùng với các nhà nghiên
cứu khác ở TERI, Ấn Độ đã có 5 năm để thử nghiệm các vi sinh vật mycorrhiza khác
nhau, nấm cộng sinh làm tăng khả năng trồng nhiều loại cây trên đất cằn. Các nghiên
cứu của Ấn Độ đã phát hiện ra rằng hiệu quả cao nhất là nấm trong loài bụi đơn có khả
năng làm tăng 15% sản lượng jatropha.
TERI đã triển khai các dự án trồng jatropha ở vùng nông thôn bang Andra Pradesh
miền đông nam Ấn Độ cộng tác với các viện tài chính địa phương nhằm đảm bảo vốn
vay hỗ trợ mua hạt; ngoài ra dự án còn hợp tác với các công ty bảo hiểm để ngăn ngừa
thiệt hại tiềm tàng cho nông dân. Hơn nữa, dự án của TERI cũng hướng dẫn người
nông dân cách trồng cây jatropha.
Cho đến nay, dự án đã ký kết với 5000 nông dân, sở hữu 1000 ha đất. Mục tiêu của
dự án là đến tháng 3/2008 phải trồng được 8000 ha jatropha. Thành công đối với cây
trồng đầu tiên này sẽ mang lại lợi ích cho rất nhiều nông dân. Cuối năm 2008, TERI đã

khánh thành cơ sở sản xuất diezel sinh học từ jatropha, tạo ra 90 triệu lít điezel sinh
học/năm.
TERI đã nghiên cứu các gien trong cây jatropha kích thích ra hạt, như vậy, họ có
thể nâng cao tỷ lệ dầu trong hạt. Sẽ phải mất tới 18 tháng để phân lập các gien và nhân
bản gien. Các nhà nghiên cứu dự kiến sẽ sử dụng kỹ thuật nhân giống phân tử, trong
đó họ xác định được một gien có ích, lựa chọn các kiểu di truyền đặc biệt và nhân
giống chúng. Đến năm 2012, cây jatropha biến đổi gien sẽ được trồng.

19
Chính phủ Ấn Độ đang xem xét một sáng kiến quốc gia về phát triển cây jatropha
như một nguồn nhiên liệu chủ yếu, họ dự kiến trồng 400000 ha jatropha ở 22 trong số
28 bang của Ấn Độ.
Không chỉ riêng Ấn Độ mới quan tâm tới cây jatropha, chính phủ Inđônêxia cũng đang
đẩy mạnh trồng loại cây này như một số nước châu Phi. Jatropha có sức hấp dẫn vì một số
đặc tính ưu việt: nó có thể sinh trưởng trên đất xấu và chịu được hạn hán; sống được từ 35
– 40 năm; và chỉ cần 2 – 3 năm có thể phát triển thành cây thương phẩm.
Khi ép hạt jatropha thu được khối lượng dầu lớn, dầu có thể dễ dàng được chuyển
hóa thành dầu diezel sinh học, quy mô sản xuất gần giống với sản xuất dầu diezel
truyền thống. Theo dữ liệu thu thập của Câu lạc bộ Dầu khí Toàn cầu, một ha jatropha
tạo ra 1892 lít nhiên liệu, cao hơn rất nhiều so với hạt cải và hơn đỗ tương hoặc ngô.
Quá trình chuyển hóa dầu của cây jatropha có thể được đốt cháy thành nhiên liệu
chỉ cần qua một công đoạn đốt nóng và trộn lẫn methanol. Nhiên liệu thu được là một
loại diezel chất lượng rất cao có thể được sử dụng cho tất cả các động cơ xe.

Trung Quốc
Theo dự tính của các chuyên gia, đến năm 2010, Trung Quốc sẽ sản xuất khoảng 6
triệu tấn dầu NLSH, trong đó có 5 triệu tấn Ethyl alcohol và 1 triệu tấn dầu diesel sinh
học; đến năm 2020, sản lượng dầu NLSH sẽ đạt tới 19 triệu tấn, trong đó 10 triệu tấn
Ethyl alcohol và 9 triệu tấn dầu điesel sinh học.
Phát triển ngành năng lượng nông, lâm trên quy mô lớn có thể thực hiện một cách

hiệu quả việc phủ xanh đất trống đồi trọc, giảm thiểu sự xâm lấn và mất đất. Sử dụng
một lượng lớn NLSH có ý nghĩa đột phá trong việc thay đổi và bảo vệ môi trường của
Trung Quốc.
So với nhiên liệu hoá dầu, NLSH sinh ra rất ít tạp chất gây ô nhiễm môi trường như
ô-xít nitơ và ô-xít lưu huỳnh. Do sự hấp thu và thải cácboníc của loại dầu này hình
thành nên tuần hoàn cácbon trong tự nhiên, nên mức thải cácbon luôn thấp hơn mức
bình thường của các loại năng lượng khác.
Hiện trạng và xu thế phát triển
Từ đầu những năm 90, Trung Quốc đã bắt đầu nghiên cứu phát triển nguồn nhiên
liệu và công nghệ chuyển đổi NLSH, dùng kỹ thuật truyền thống để sản xuất các sản
phẩm dạng dầu và cồn từ cây lương thực và cây có dầu, nhưng các sản phẩm này lúc
đó chỉ phục vụ trong ngành thực phẩm và công nghiệp nhẹ.
Năm 2001, Trung Quốc thực hiện quyết định pha thêm cồn (ethyl ancohol) vào
trong xăng, đồng thời Cục giám định chất lượng kỹ thuật nhà nước đã ban hành tiêu
chuẩn quốc gia đối với "Sự thay đổi nhiên liệu cồn" và "Xăng xe có pha cồn". Nhà

20
nước Trung Quốc đã đầu tư hơn 5 tỷ nhân dân tệ (NDT) để xây dựng 4 doanh nghiệp
chuyên sử dụng nhiên liệu cồn trên toàn quốc, tổng năng suất trên 1 triệu tấn.
Từ tháng 10/2004, các tỉnh thành Hắc Long Giang, Hà Nam, An Huy, Cát Lâm,
Liêu Ninh và một số khu vực thuộc các tỉnh Hồ Bắc, Sơn Đông, Hà Bắc và Giang Tô
đã bắt buộc sử dụng xăng cồn; đến năm 2005, ở những nơi trên ngoài quân đội và dự
trữ quốc gia ra, các loại xe đều phải dùng nhiên liệu này thay thế các loại xăng dầu
khác.
Giá của mỗi tấn lương thực để sản xuất nhiên liệu là 3.000 NDT, sau khi gia công,
giá của mỗi tấn nhiên liệu cồn là trên 4.000 NDT.
Kỹ thuật trồng và công nghệ sản xuất nhiên liệu cồn của Trung Quốc hiện đã rất
thành thạo, hiện tại sản lượng năm đã đạt tới 5.000 tấn. Các tỉnh Hắc Long Giang, khu
tự trị Nội Mông, khu tự trị Dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, tỉnh Sơn Đông, tỉnh
Liêu Ninh đã xây dựng được các khu công nghiệp trồng trọt và gia công nhiên liệu

cồn từ cây cao lương.
Giá thành sản xuất loại nhiên liệu này từ cây cao lương chỉ có 3.500 NTD/tấn. Cứ
16 tấn cây cao lương có thể sản xuất được 1 tấn cồn, phần bã còn lại có thể chiết xuất
thêm được 500kg dầu diesel sinh học. Người ta chỉ chế biến nhiên liệu từ thân cây,
phần hạt cao lương vẫn để dùng làm thực phẩm. Đây là loại cây có tính thích ứng cao,
có thể chịu hạn, chịu muối, kiềm và ít sâu bệnh hơn các giống cây khác.
Mía - loại cây nguyên liệu đường quan trọng của Trung Quốc, thường được trồng ở
các tỉnh phía Nam. Mía đã từng là loại cây xoá đói giảm nghèo cho người dân vùng
này, nhưng ngày nay, nhu cầu sử dụng đường mía đã bị giảm sút do sự xâm nhập của
các loại đường tổng hợp, do đó khu vực trồng mía ở phía Nam chủ yếu dùng để sản
xuất cồn, sản lượng mía của khoảng 2600 m
2
có thể chế biến được 1 tấn cồn. Cũng
giống như cây cao lương, bã mía cũng có thể sản xuất ra dầu diesel sinh học.
Lợi ích kinh tế
Kinh nghiệm thí điểm của tỉnh Nội Mông, trồng cây cao lương so với trồng ngô,
mỗi mẫu (1 mẫu của Trung Quốc = 666,66m
2
) cao lương có thể tăng thu nhập 140
NDT. Cây đay cũng là loại cây tăng thu cao, tính theo mức sản lượng thấp nhất mỗi
mẫu 450kg cũng thu được 630 NDT.
Hiện tại giá thành của NLSH vẫn còn cao hơn của dầu lửa một chút, nhưng với sự
phát triển của công nghệ, việc giảm giá thành sẽ là điều tất yếu. Năm 2005, tỉnh An
Huy là tỉnh tiếp theo đẩy mạnh sử dụng xăng cồn, sản lượng cồn của Trung Quốc sẽ
đạt tới hơn 1 triệu tấn/năm.
Tiềm năng phát triển và tương lai
Nguồn nguyên liệu NLSH của Trung Quốc chủ yếu phụ thuộc vào diện tích trồng
trọt. Theo thống kê, tài nguyên đất có thể dùng cho ngành năng lượng nông nghiệp

21

khoảng 7,6 triệu ha, nếu tính theo cây cao lương thì có thể sản xuất được 28,5 triệu tấn
cồn và 14,25 triệu tấn dầu diesel sinh học, diện tích này không hề ảnh hưởng đến quy
hoạch đất dùng trong nông nghiệp.
Diện tích đất dùng cho ngành năng lượng nông nghiệp khoảng 67,5 triệu ha, nếu
tính theo cây hoàng liên và cây đay thì có thể sản xuất được 200 triệu tấn dầu diesel
sinh học, diện tích này chỉ ảnh hưởng rất ít đến diện tích quy hoạch dùng trong ngành
lâm nghiệp.
Ngoài ra, Trung Quốc còn nghiên cứu phát triển khai thác một loại nguyên liệu mới
- Tảo. Khi nghiên cứu loại dầu sinh học từ tảo thành công sẽ được đưa vào sản xuất,
quy mô sản xuất loại dầu này có thể đạt tới hàng chục triệu tấn.
Đại học hải dương Thanh Đảo - Trung Quốc cũng đã nhận trách nhiệm nghiên cứu
công nghệ nhân giống và trồng tảo biển, họ cũng đã có kinh nghiệm phát triển nguồn
nguyên liệu tảo nước ngọt và tảo nước mặn. Nếu có thể kết hợp công nghệ sinh học
hiện đại và kỹ thuật nuôi trồng truyền thống thì sẽ có thể nuôi trồng giống tảo lấy dầu
sản lượng cao trên quy mô lớn.

Thái Lan:
Thái Lan cũng đang đẩy mạnh chương trình sản xuất NLSH thay thế xăng và diesel.
Chương trình này do Nhà vua khởi xướng với triết lý xây dựng một "Nền kinh tế đầy
đủ", giúp người Thái tự chủ về mọi mặt, hạn chế phụ thuộc vào nhập khẩu, cũng như
giảm ô nhiễm.
Mấy năm qua, Bộ Năng lượng đã khuyến khích người sử dụng xăng A-95 chuyển
sang sử dụng gasohol, hỗn hợp xăng pha 10% cồn ethanol sản xuất trong nước từ các
sản phẩm nông nghiệp như gạo, rỉ đường, khoai mì Với chính sách giảm giá mỗi lít
gasohol thấp hơn xăng 3 Baht (1.300 đồng), hiện nay mức tiêu thụ gasohol đạt 4,3
triệu lít/ngày. Năm 2007, chính phủ đã chuẩn chi 40 triệu Baht (gần 1,2 triệu USD) để
hỗ trợ thêm cho chương trình này.
Diesel chiếm đến 46,6% tổng sản phẩm dầu khí tiêu thụ trong nước, nên chiến lược
dài hạn của chính phủ là thay thế dần bằng biodiesel, hỗn hợp diesel với 2% (B2) hoặc
5% (B5) dầu cọ. Theo kế hoạch, đến năm 2012, Thái Lan sẽ sản xuất được 8,5 triệu lít

biodiesel mỗi ngày, từ khoảng 16.000 km
2
diện tích trồng cọ trên toàn quốc.
Chính phủ Thái Lan đã tiến hành đồng bộ nhiều chương trình khác để tiết kiệm tiêu
thụ điện, sử dụng các nguồn năng lượng thay thế khác như sức nóng mặt trời, phế
phẩm nông nghiệp, dầu ăn thải bỏ Đặc biệt là xúc tiến nhanh việc hợp tác khai thác
dầu mỏ ở những nơi vừa tìm thấy trong vịnh Thái Lan.
Năm 2008, Thái lan đã đưa vào sử dụng 10.000 trạm tiếp NLSH cho các phương
tiện trên khắp đất nước. Đây là loại nhiên liệu gồm 2% dầu thực vật và 98% diesel (

22
loại B2), được chính phủ Thái Lan kỳ vọng là sẽ giúp nước này giảm sự phụ thuộc vào
nhiên liệu nhập khẩu, giảm việc dùng nhiên liệu hoá thạch và góp phần ngăn chặn việc
trái đất nóng lên. Người Thái cũng sẽ tiến hành chuyển đổi 20% lượng phương tiện
hiện có sang sử dụng loại nhiên liệu này và sẽ đưa nhiên liệu cồn và dầu thực vật vào
sử dụng đại trà sau 5 năm nữa.
Sau khi đưa loại nhiên liệu B2 vào sử dụng trong năm tới, Thái Lan sẽ tiếp tục xây
dựng các trạm tiếp liệu loại B5 (gồm 5% dầu thực vật và 95% diesel) để cung cấp cho
các phương tiện giao thông.

Inđônêxia
Tính đến năm 2008, năng lượng sinh học của Inđônêxia đã đáp ứng 1% tổng nhu
cầu năng lượng trong dân dụng, 5% trong công nghiệp và đang có xu hướng tăng dần
vào các năm sau. Chính phủ Inđônêxia dự kiến đến 2010 sẽ tạo ra 3,5 triệu việc làm,
5,5 triệu ha trồng jatropha, mía đường và sắn để sản xuất NLSH và sẽ giảm 10% sử
dụng năng lượng hóa thạch.
Bộ Năng lượng nước này cho biết đã có kế hoạch đầu tư khoảng 22 tỷ USD trong 5
năm tới để thúc đẩy sử dụng nhiên liệu thay thế từ các loại cây trồng, như cọ dầu, sắn,
hương hải ly và bã đường. Các loại cọ dầu mới này có thể hòa với xăng, dầu hỏa và
diesel để giảm nhập khẩu dầu và giá nhiên liệu. Hiện Inđônêxia là nước sản xuất dầu

cọ lớn thứ hai thế giới. Bộ Năng lượng dự báo, NLSH sẽ chiếm khoảng 10% tổng sản
phẩm nhiên liệu ở Inđônêxia vào năm 2012.
Thiên nhiên ưu đãi cho quốc gia này nguồn nhiên liệu hóa thạch dồi dào nhưng lại
có hạn. Hiện nay trữ lượng dầu mỏ của Inđônêxia chỉ đủ dùng tối đa trong 25 năm, khí
đốt trong 60 năm và than đá trong 150 năm - theo Al Hilal Hamdi, người đứng đầu Ủy
ban quốc gia về nghiên cứu phát triển NLSH, NLSH sẽ bảo đảm an ninh năng lượng
cho đất nước Inđônêxia.
Inđônêxia đặt mục tiêu đến năm 2010, NLSH sẽ đáp ứng 10% nhu cầu năng lượng
trong ngành điện và giao thông vận tải. Hiện nay phần lớn xe buýt và xe tải ở nước
này chạy bằng dầu diesel sinh học - hỗn hợp dầu cọ (một loại NLSH) với nhiên liệu
hóa thạch do Công ty Dầu khí quốc doanh Pertamina cung ứng. Tại tỉnh Lampung ở
đảo Sumatra, Tổng Công ty điện lực nhà nước PLN đang sử dụng dầu cọ trong một dự
án thí điểm hướng tới việc chuyển tất cả nhà máy điện khắp cả nước sang dùng toàn
diesel sinh học vào năm 2010.
Ngoài cây cọ dầu, Inđônêxia còn chú ý đến cây có dầu khác là jatropha. Do phải
trồng trên đất màu mỡ nên các đồn điền trồng cọ đang chiếm dụng một phần không
nhỏ trong quỹ đất canh tác cây nông nghiệp, trong khi cây jatropha có thể mọc trên
những vùng đất khô cằn. Đó là chưa nói chi phí lập một đồn điền jatropha chỉ bằng
1/10 đồn điền cọ.

23
Trước tình trạng dầu cọ tăng giá do nhu cầu tăng mạnh, nhiều công ty kinh doanh
NLSH ở châu Âu đang tỏ ra chuộng dầu jatropha. Nhà khoa học Robert Manurung-
Giám đốc Trung tâm nghiên cứu công nghệ sinh học thuộc Viện công nghệ Bandung -
cho biết, một số công ty nước ngoài đang xúc tiến dự án bao tiêu 1 triệu ha cây
jatropha với nông dân 3 tỉnh Papua, Kalimantan và Nusa Tenggara. Mới đây, một công
ty Hà Lan đã đặt mua 1 triệu tấn dầu jatropha nguyên chất.
Theo David Chang, chuyên gia nghiên cứu của UOBKay Hian Securities, mặc dù
nhu cầu có thể tăng vọt trong thời gian tới nhưng NLSH khó có thể đánh đổ vị trí năng
lượng chủ đạo của xăng dầu ở Inđônêxia nói riêng và trên thế giới nói chung . Sản

lượng dầu cọ của Malaixia và Inđônêxia đáp ứng khoảng 90% nhu cầu của thế giới
nhưng chỉ tương đương khoảng 3% nhu cầu nhiên liệu hóa thạch hiện nay trên toàn
cầu. Và do phải dành diện tích đất trồng cho cây lương thực trong khi các đồn điền dầu
cọ mất đến 4 năm mới có thể thu hoạch nên trước mắt Inđônêxia khó có thể gia tăng
sản lượng dầu cọ. Các nhà nghiên cứu Inđônêxia tin rằng trước thực tế này, jatropha sẽ
sớm thay thế cây cọ, trở thành nguồn năng lượng thay thế nhiên liệu hóa thạch và dầu
cọ, đồng thời có thể giúp nông dân nghèo ở các tỉnh miền Đông đất đai quanh năm khô
hạn làm giàu.

2.2. Đánh giá ngành công nghiệp NLSH và các chính sách quốc gia
2.2.1. Ngành công nghiệp NLSH
Ngành công nghiệp NLSH đã phát triển nhanh ở các nước có các vùng đất trồng
không thuận lợi trong hàng thập kỷ qua và những năm gần đây các nước này đã sản
xuất ra hàng tỷ lít NLSH. Vào giữa những năm 2001-2006, trên toàn cầu, mỗi năm sản
lượng ethanol tăng 22,7% và dầu diezel sinh học tăng 43,2% .
Theo một nghiên cứu về tiêu thụ và thương mại ethanol trên toàn thế giới, tiêu thụ
ethanol sinh học trên toàn thế giới mỗi năm đạt khoảng 51tỷ lít gồm Hoa Kỳ và một số
nước khác trên thế giới như Braxin, Trung Quốc và Liên minh châu Âu (EU).
Các dự báo dựa trên các đánh giá tiêu thụ xăng và các mục tiêu sản xuất ethanol
cùng với mức độ sử dụng ethanol thay thế xăng của các nước khác nhau. Nghiên cứu
cũng cho rằng mục tiêu của Hoa Kỳ chỉ có thể đạt được sản lượng ethanol lớn bằng
việc sản xuất từ các nguyên liệu xenluloza trong thời gian ngắn và trung hạn. Do khả
năng thương mại có sẵn của các công nghệ sản xuất NLSH, sau giai đoạn 2017-2020
tiêu thụ ethanol sẽ tăng ở cả Hoa Kỳ và các nước khác. Dự báo theo xu thế hiện nay,
thay thế xăng bằng ethanol trên toàn cầu sẽ tăng 20% vào năm 2030, đó là điều lạc
quan và sẽ là một thành tựu lớn. Tuy nhiên, xu thế cũng cho thấy khả năng và nhu cầu
to lớn trong sản xuất ethanol. Trong số mười lăm nước sản xuất lượng ethanol đứng
đầu thế giới, Hoa Kỳ và Braxin chiếm vị trí số 1 và 2 chiếm 70% trong số 51 tỷ lít,

24

sản lượng ethanol toàn cầu, Trung Quốc: 3,85 tỷ lít, và Ấn Độ 1,9 tỷ lít là 2 nước đứng
thứ 3 và thứ 4, Thái Lan, năm 2006 sản xuất 0,35 tỷ lít đứng thứ 11.
Xếp theo ethanol nhiên liệu, Trung Quốc sản xuất 1,8 tỷ lít, Thái Lan 0,3 tỷ lít, Ấn
Độ 0,2 tỷ lít và Pakistan: 0,035 tỷ lít các nước này là các nước sản xuất lượng ethanol
cao nhất châu Á.

Bảng 4: Mười lăm nước sản xuất ethanol đứng đầu thế giới
Tổng sản lượng ethanol hàng năm (tất cả
các loại) Đơn vị : triệu US gallon (1gallon =
3,78 lít) ở dạng lỏng
Sản lượng ethanol nhiên liệu hàng
năm Đơn vị: triệu US gallon
(1gallon = 3,78 lít) ở dạng lỏng
Xếp
thứ
Tên nước
2006
2005
2004
Xếp
thứ
Tên
nước/khối
2007
1
Hoa Kỳ
4885
4264
3535
1

Hoa Kỳ
6498,6
2
Braxin
4491
4227
3989
2
Braxin
5019,2
3
Trung Quốc
1017
1004
964
3
EU
570,3
4
Ấn độ
502
449
462
4
Trung Quốc
486,0
5
Pháp
251
240

219
5
Canađa
211,3
6
Đức
202
114
71
6
Thái Lan
79,2
7
Nga
171
198
198
7
Côlômbia
74,9
8
Canađa
153
61
61
8
Ấn Độ
52,8
9
Tây Ban Nha

122
93
79
9
Trung Mỹ
39,6
10
Nam Phi
102
103
110
10
Ôxtrâylia
26,4
11
Thái lan
93
79
74
11
Thổ Nhĩ Kỳ
15,8
12
Anh
74
92
106
12
Pakistan
9,2

13
Ucraina
71
65
66
13
Peru
7,9
14
Balan
66
58
53
14
Argentina
5,2
15
Arập Xêrút
52
32
79
15
Paraguay
4,7
Tổng cộng
13489
12150
10770
Tổng cộng
13101

Nguồn: Renewable Fuel Association, from F.O.Licht, 2007

25
2.2.2. Thị trường NLSH và thương mại
Tại châu Á, các nước như Trung Quốc, Ấn Độ có dân số đông, tốc độ phát triển
kinh tế nhanh và nhu cầu về NLSH dùng cho xe cộ trên các thị trường đang tăng lên.
Giữa những năm 1991 và 2007, Trung Quốc đã tăng lượng xe ô tô từ 5 triệu xe lên 40
triệu, với mức tăng trưởng kinh tế trung bình năm là 15%. Với xu thế này, Trung Quốc
sẽ đòi hỏi nhiều xăng hơn và phải mở ra sản xuất nhiều NLSH thay thế.
Thương mại NLSH vẫn còn trong giai đoạn khởi đầu và đặc biệt là việc thu thập
thông tin về hoạt động thương mại ở các nước châu Á gặp nhiều khó khăn, thậm chí
không thể thu thập được. Tuy nhiên, theo một đánh giá về sự thiếu hụt và dư thừa
ethanol nhiên liệu trong từng vùng, khu vực trên thế giới đến năm 2030, có thể nhận ra
rằng một số nước sản xuất nhiều ethanol hơn nhu cầu nội địa của họ, trong khi đó một
số nước thiếu nhiên liệu phải nhập khẩu từ các nước sản xuất ethanol khác. Rõ ràng là
các nước châu Á có thể tập trung vào vấn đề thương mại trong khu vực, thay vì tìm
kiếm các thị trường thương mại ở các nước phương Tây.
2.2.3. Các chính sách hiện nay và xu thế sản xuất NLSH ở các nước
Phát triển ngành công nghiệp NLSH ở một số nước châu Á đã được trợ giúp bằng
các chính sách nhất định để khuyến khích sản xuất NLSH. Các chính sách này đang
thay đổi từ các mục tiêu sản xuất theo số lượng đến mục tiêu sản xuất làm chất pha
trộn bằng các biện pháp kinh tế, các kích thích tài chính và miễn thuế. Mặc dù hầu hết
các chính sách được thúc đẩy bằng các yếu tố kinh tế như: thực hiện các chính sách về
hiệu suất và an ninh năng lượng, phát triển kinh tế , còn có các chính sách tính đến
các khía cạnh bền vững như của Trung Quốc, nhằm hạn chế sản xuất một số loại
NLSH. Bảng 5 dưới đây thể hiện tổng quát các chính sách về NLSH ở một số nước
châu Á lựa chọn.

Bảng 5: Chính sách về NLSH của một số nước châu Á
Tên nước

Mục tiêu
số lượng
Mục tiêu
pha trộn
Các biện pháp kinh
tế
Các chính sách đối
với NLSH thế hệ 2
và nguyên liệu đầu
vào
Trung
Quốc
Đến năm
2020, thị
phần
NLSH cho
năng lượng
giao thông
là 15%.
Ethanol: Giai
đoạn thử
nghiệm pha
trộn 10% ở
một số vùng.
Ethanol: Các khuyến
khích, trợ cấp, miễn
thuế đối với sản phẩm.
Diezel Miễn thuế cho
các sản phẩm diezel
sinh học sản xuất từ

mỡ động vật và dầu
thực vật.
Không có các dự án
về ethanol sản xuất
từ ngũ cốc
Thực nghiệm với
các loại NLSH thế
hệ 2

×