Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Ấn chương Việt Nam - Ký Triện hay Triện của tổng lý cấp tổng xã pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.05 KB, 7 trang )

Ấn chương Việt Nam - Ký Triện hay Triện của
tổng lý cấp tổng xã

Loại hình ấn triện cuối cùng của cấp chính quyền địa
phương được giới thiệu trong chương này là Ký Triện
記篆 hay còn gọi là Triện 篆. Ký Triện hay Triện là
ấn dấu của Cai tổng (tức Chánh tổng) và Lý trưởng -
những người đại diện cho chính quyền cấp tổng, xã là
đơn vị hành chính thấp nhất ở Việt Nam.

Lệ nhà Nguyễn quy định mỗi tổng đặt một Cai tổng,
tổng nào ruộng đất nhiều hoặc đường đi xa đến hai ba
ngày thì đặt một Cai tổng và một Phó tổng. Khi có
khuyết thì viên Tri phủ, Tri huyện tuyển chọn nhân
viên trong hạt, đề bạt lên. Bộ Lại duyệt, tâu cho cấp
văn bằng làm Cai tổng thí sai đủ 3 năm sát hạch,
đúng là người mẫn cán, thanh liêm mới cho thực thụ.
Cai tổng thực thụ làm việc tốt thì được thăng Chánh
bát phẩm, thâm niên có thành tích được thăng hơn
nữa. Tổng có nhiều xã, mỗi xã đặt một viên Lý
trưởng, làm đủ 9 năm mẫn cán được thưởng hàm Cửu
phẩm.

Tìm hiểu tổ chức chính quyền trung ương và địa
phương thời Nguyễn chúng tôi thấy đơn vị hành
chính căn bản của Việt Nam là tổng, xã được hưởng
một chế độ tự trị khá rộng rãi. Cai Tổng, Lý trưởng
đại diện cho hội đồng tổng xã hương đảng, được
quyền định đoạt tài sản của mỗi gia đình nông dân,
quyết định số phận của mỗi người dân lao động. Một
trong những biểu tượng chính cho quyền lực của


Tổng, Lý là dấu Triện.

Tuy là cấp thấp nhất, nhưng Triện của Cai tổng Lý
trưởng vẫn được làm theo nguyên tắc nhất định. Sử
cũ ghi: “Lệ Minh Mệnh 13 định… Triện của Cai tổng
dài 1 tấc ngang 5 phân. Triện của Lý trưởng dài 8
phân, ngang 4 phân, đều dùng hộp mực, ở nửa trang
dưới dòng chữ niên hiệu, ký tên rồi đóng dưới tên
ký…”[269].

Triện thời Nguyễn sơ làm nhỏ, viền ngoài dấu để nét
mảnh, 6 chữ Triện chia hai hàng. Thường là tên địa
phương (Tổng, xã) + chức (Cai tổng, Lý trưởng) +
ký.

Triện nhà Nguyễn sau này (khi Pháp đã vào nước ta)
có cỡ to hơn, viền khung để rộng hơn ghi chữ Pháp
hoặc chữ Quốc ngữ, bên trong vòng khung mới có
chữ Triện hoặc chữ Hán Chân thư. Điều này thể hiện
2 hoặc 3 dạng văn tự trong cùng một con dấu.

Giới thiệu hai con dấu của Cai tổng và Lý trưởng
cùng một địa phương đóng trong cùng một tập địa bạ
tổng Đồng Xuân[270]. Triện Cai tổng hình chữ nhật
cỡ 1,9x4cm, 6 chữ Triện xếp theo hai hàng, là 6 chữ
Đồng Xuân tổng cai tổng ký 同春總該總記 (Ký
Triện của Cai tổng tổng Đồng Xuân). (H. 196)

Triện Lý trưởng hình chữ nhật, cỡ 1,6x3,5cm, sáu
chữ Triện xếp theo hai hàng là 6 chữ Đồng Xuân

phường lý trưởng ký 同春坊里長記 (Ký Triện của
Lý trưởng phường Đồng Xuân). Dấu này đóng dưới
dòng chữ Hán ghi tên họ, chức vụ viên lý trưởng
phường Đồng Xuân (H. 197)




Đời Đồng Khánh thứ 1 (1886) vì kiêng tên húy cha
đẻ của mình là Kiên Thái vương Hồng Cai, nên Đồng
Khánh thay chữ “Cai” 該 tổng bằng “Chánh” 正
tổng. Lệ này được duy trì cho đến hết vương triều
Nguyễn năm 1945, và dấu Triện của Cai tổng từ năm
1886 trở đi cũng được thay chữ “Chánh tổng” vào vị
trí chữ “Cai tổng” cũ.

Sau đời Đồng Khánh, làng xã Việt Nam còn đẻ ra
những loại Triện nữa. Những dấu Triện này không
thấy ghi thành quy định như Triện hay các loại hình
ấn khác, nhưng trên thực tế chúng tôi đã thấy dấu
Triện của Chưởng bạ, Hộ tịch làng xã. Dấu có hình
thức khá đặc biệt và khắc hai loại văn tự: chữ Quốc
ngữ và chữ Hán trong dấu. Thường là viền ngoài dấu
là chữ Quốc ngữ và khung trong là chữ Hán lối Chân
thư, như dấu Hộ tịch Vĩnh Chân xã Vĩnh Chân tổng
Hạ Hòa huyện Phú Thọ tỉnh
永眞社永眞總戶籍夏和縣富壽省 (Hộ tịch xã Vĩnh
Chân, tổng Vĩnh Chân, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ),
hai chữ “Hộ tịch” lớn hơn và nằm ở giữa dấu có hai
đường kẻ ngang[271]. (H. 198)




×