Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Những chuyện lạ thi cử thời xưa (trích) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.4 KB, 13 trang )

Những chuyện lạ thi cử thời xưa (trích)
Thứ Ba, 14/06/2011, 11:44 SA | Lượt xem: 67
Sách xưa chép chuyện khoa thi hội năm Canh Thân,
niên hiệu Chính Hòa thứ I (1680), có hai cặp thầy trò
và bố con dự thi. Đó là Vũ Đình Phúc với người con
là Vũ Đình Thiều và học trò của ông Phúc là Phạm
Hữu Dung.

Đỗ tiến sĩ nhờ làm "chuồng" cho chữ

Hai bố con ông Vũ người làng Mỗ Trạch, huyện
Đường An, nay là xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình,
tỉnh Hải Dương. Còn quê Phạm Hữu Dung ở xã
Ngọc Cục, cùng huyện với hai người trên.

Tranh vẽ cảnh trường thi xưa
Khi vào thi, ba người dựng lều gần nhau. Đầu văn
sách có câu hỏi về nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly
(1330-?), người làng Đại Lại, huyện Tống Sơn, nay là
Hà Đông, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Hồ Quý
Ly làm quan trong giai đoạn triều đình nhà Trần đã
suy thoái. Ông bèn đoạt ngôi vua Trần, dựng lên triều
đại nhà Hồ, muốn thực hiện một số cải cách táo bạo
để cứu vãn đất nước.

Nhưng giặc Minh thừa cơ đã đem quân sang xâm
lược nước ta. Hồ Quý Ly tiến hành cuộc kháng chiến,
song thất bại và bị bắt giải về Trung Quốc. Cơ nghiệp
nhà Hồ xây dựng nên chỉ tồn tại được có 7 năm thì
đổ. Dư luận xã hội nhiều thế kỷ qua cho rằng việc Hồ
Quý Ly cướp ngôi vua nhà Trần, chịu thua quân xâm


lược Minh, để cho chúng bắt cầm tù, là một tội lớn.
Nhiều nhà nho các triều đại phong kiến sau đó đã lên
án họ Hồ, cho Hồ Quý Ly là “ Quỷ đỏ”, “ gian thần”,
“ nghịch tặc”…

Bởi thế, trong khoa thi Hội nói trên, thí sinh phải tuân
theo quan niệm chính thống của tầng lớp nho sĩ và xã
hội đương thời, khi viết tên Hồ Quý Ly, phải biết
chọn chữ như thế nào, để biểu thị sự khinh bỉ, chê bai
nhân vật lịch sử này, theo đúng quan điểm của người
ra đề.

Ông Thiều và ông Dung dùng chữ “ Ngưu” là “
Trâu” và khung cả bốn phía ngoài, tượng trưng cho
cái chuồng để tạo thành chữ “Ly”. Còn ông Phúc thì
vẫn viết đúng chữ Ly và cũng khung lại bên ngoài.

Thấy con và học trò không viết theo cách của mình,
ông Phúc bực lắm, bèn lấy hòn đá ném sang hai lều
bên để nhắc nhở, răn đe. Tuy vậy cả ông Thiều lẫn
ông Dung không ai chịu viết chữ “ Ly” theo cách ông
Phúc!

Kết quả thật bất ngờ, đến kỳ xướng danh hai ông Vũ
Đình Thiều (1658-1727) và Phạm Hữu Dung (1652-
?) đều đỗ tiến sĩ. Còn thầy học Vũ Đình Phúc thị bị
đánh hỏng, chỉ vì chữ “Ly” tên của nhân vật lịch sử
Hồ Quý Ly không viết là “Ngưu”, có nghĩa là “con
trâu”!


Khi thấy con và học trò không nghe lời mình, viết
khác đi, mà được trúng cách, ông Phúc mới hỏi xem
hai người học được cách viết chữ “Ly” đó ở đâu?.
Bấy giờ, ông Dung mới thuật lại chuyện: một lần đến
nhà thầy để học, khi ra về ông thấy trẻ em thả diều
trên đường, đánh rơi một mảnh giấy, ông nhặt xem
thì thấy có đoạn chép về Hồ Quý Ly, mà chứ “Ly”
viết là chữ “Ngưu” đóng khung phía ngoài. Ông đưa
ông Thiều xem. Đến khi vào thi, đề văn sách lại hỏi
đúng ý trên mảnh giấy phết diều nhặt được trước đó,
nên hai ông viết theo, nhờ thế được trúng cách.

Như vậy, thi cử thời xưa, hễ ghét ai thì khi viết tên kẻ
đó phải thay đổi cả chữ viết, thật là một điều kỳ quặc!

Bị đánh đòn, đi tù vì phạm húy

Ngoài ra, quy chế thi cử của nước ta bắt đầu từ triều
Trần trở về sau, còn định ra một số luật lệ nghiêm
ngặt, trong đó có điều là phải kiêng húy trong bài thi.
Nghĩa là cấm không được viết những chữ chỉ tên vua,
hoàng hậu, hoặc một số người trong hoàng tộc! Nếu
gặp những từ húy thì bắt buộc thí sinh phải viết khác
đi như thêm nét, bớt nét, đảo ngược, đảo xuôi, thậm
chí phải để trống!

Thí sinh nào phạm luật này, chỉ cần quên viết một
chữ húy, là bài thi bị hủy bỏ ngay, không cần chấm.
Ngoài ra, tùy trường hợp, còn bị phạt tội nặng nhẹ
khác. Nặng thì có thể bị tù đày, nhẹ thì không được

dự các khoa thi sau…

Sách chép danh nhân lịch sử Đào Duy Từ (1572-
1634), quê xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hóa bây giờ, là người có công giúp chúa
Nguyễn khai phá phần đất miền Trong của nước ta.
Ông Từ có bố là Đào Tá Hán, làm lính cấm vệ trong
triều, thời Lê Trịnh. Một lần, ông Hán sáng tác bài
thơ, nhằm ca ngợi chiến công của chúa Trịnh, có câu
sau:

“ Trang quốc sử ai bằng Trịnh Kiểm

Tỏ thần uy đánh chiếm hai Châu

( Châu Ái, Châu Hoan)

Thẳng đường rong ruổi vó câu

Phù Lê diệt Mạc trước sau một lòng…”

Lập tức tác giả Đào Tá Hán bị quy ngay vào tội phạm
thượng, dám viết tên húy của chúa là Trịnh Kiểm,
phải đánh đòn 20 roi và trả về nhà.

Sau đó ông Hán làm nghề xướng ca kiếm sống. Bởi
vậy, Đào Duy Từ học giỏi, nhưng vì bố mẹ làm nghề
trên, nên triều đình Lê Trịnh cấm không được thi cử,
cho nên ông phải bỏ về quê vào đàng Trong theo
chúa Nguyễn.


Đến thời Nguyễn, vua Tự Đức có văn bản quy định
rất rõ tội phạm húy trong bài thi cử: Đối với thí sinh
không tuân theo quy định đổi những chữ húy chính
thành chữ khác khi làm bài thi thì cử nhân bị đánh
đòn 100 trượng, tú tài thì phải tước danh tịch. Đối với
chữ phải gia dạng, chữ đồng âm, chữ có thiên bằng
giống với chữ húy…mà không tuân theo lệ định
(thêm, bớt nét hoặc thay chữ khác) thì cử nhân phải
đòn 90 trượng…

Cũng vì quy định phi lý trên, một số học sinh giỏi,
làm bài thi xuất sắc trong nhiều khoa thi hương, thi
hội nước ta, chì vì đẵng trí quên viết kiêng một tên
húy, mà bị đánh hỏng. Có người không được thi cử,
hoặc thậm chí còn bị tù đày!

Vì thế mới có chuyện, khoa thi hương ở trường Thừa
Thiên Huế có một số quyển thi văn hay, chữ tốt,
nhưng vì phạm húy nên bị loại, trong đó có quyển
của thí sinh Phạm Gia Hanh. Danh nhân Cao Bá Quát
(1808-1855) lần đó được cử chấm sơ khảo. Ông quan
niệm quy định phạm húy là phi lý, làm oan uổng
nhiều sĩ tử, trong đó có không ít người thực sự có tài
năng. Bản thân Cao Bá Quát, được xã hội đương thời
ca ngợi văn chương, chữ nghĩa bậc “Thánh”, mà thi
cử lận đận hoài, cũng chỉ vì những quy định vô lý
trên. Bởi thế ông lấy làm thông cảm với số thí sinh lỡ
mắc phạm húy khoa thi này, bèn bàn với người đồng
sự là ông Phan Nhạ chữa lại chữ viết trong để bài, để

cứu Phạm Gia Hanh.

Cũng theo quy chế thi cử thời đó, thì nơi quan trường
chấm thi, chỉ có mực đỏ, cấm ngặt không được đem
mực đen vào. Vì thế ông Cao đã nghĩ ra mẹo dụng
muội đèn dầu, thấm nước miếng làm mực để chữa
bài thi. Nhưng rồi viên giám sát trường thi là Hồ
Trọng Tuấn biết chuyện, tâu về triều. Cao Bá Quát bị
tội giảo (thắt cổ chết), nhưng cho “Trảm giam hậu”
để xử lại.

Bấy giờ, Thiệu Trị là ông vua thích văn thơ, ông Cao
nổi tiếng, có lẽ nhờ thế mới được tha chết và phải đi
theo phục vụ đoàn sứ sang Indonesia với bản án gọi
là “Dương trình hiệu lực”, giống như kiểu đi lao động
cải tạo nước ngoài, thường được sử dụng dưới triều
Nguyễn.

Hết hạn trở về ông Cao bị thải hồi. Bốn năm sau, ông
được triều đình bổ dụng lại… Song đã chứng kiến
bao sự bất công, phi lý trong thi cử, sự tha hóa lục
đục của triều đình bấy giờ, cũng như tình hình rối ren
trong xã hội…khiến ông Cao dứt khoát từ bỏ hẳn cái
chốn khoa cử, quan trường và trở về quê chiêu binh
khởi mã, nổi dậy chống lại những sự áp bức, bất công
đương thời mà ông đã chứng kiến.

Suýt bị đánh hỏng vì chữ xấu

Ngoài hiện tượng làm bài thi có chữ phạm húy bị

đánh đòn nói trên, thời xưa nhiều thí sinh chữ viết
xấu, giám khảo ngại đọc, nên cũng rất dễ bị điểm liệt.
Chuyện kể, khoa thi hương năm Đinh Mão, triều đình
Cảnh Hưng (1747), Thám hoa Phan Kính (1715-
1761), người xã Song Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh bây giờ, được cử làm đề hiệu (chủ đạo) trường
thi Kinh Bắc.

Khi chấm bài, có một quyển thi chữ viết rất xấu,
giám khảo ai cũng ngại đọc và đều phê điểm liệt.
Ông Phan cố xem, thì thấy văn chương rất khá nên
lấy đỗ, nhưng một số khảo quan không đồng ý. Phan
Kính đã phải viện lý: “Theo sắc chỉ của nhà vua thì
khi chấm chỉ việc xét văn mà cho đỗ hay hỏng, chứ
không căn cứ mặt chữ”. Nhờ thế, thí sính chữ xấu
này mới không bị đánh hỏng. Khi khớp phách mới rõ
bài thi trên là của Dương Sử, người xã Lạc Đạo,
huyện Gia Lâm, nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng
Yên. Sau đó ông Sử dự thi hội và đỗ tiến sĩ, làm quan
đến chức Đại Lý tự khanh, được phong hàm Đông
các đại học sĩ.

Vậy là nhờ có chủ tâm phát hiện người học giỏi, chứ
không như một số giám khảo khác định kiến, ngại
xem những bài thi chữ viết quá xấu, nên Thám hoa
Phan Kính đã cứu người học trò Dương Sử khỏi bị
đánh hỏng và nước nhà có thêm một vị tiến sĩ tài
năng, được đề danh trên bia đá!

(Theo Những chuyện lạ trong thi cử thời xưa ở VN,

NXB Thanh Hóa, 2006)

×