Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Việt Nam môi trường và cuộc sống - Phần 13 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.12 KB, 8 trang )

Việt Nam môi trường và cuộc sống
Hậu quả của chiến tranh hóa học
đối với rừng








Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, quân đội Mỹ đã tiến hành một
cuộc chiến tranh hoá học từ năm 1961 đến năm 1972 với quy mô lớn nhất trong
mọi thời đại của lịch sử chiến tranh. Trong cuộc chiến tranh này, quân đội Mỹ đã
rải khoảng hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang xuống một diện tích khoảng
24,67% tổng diện tích lãnh thổ Nam Việt Nam, trong đó phần lớn là chất độc da
cam, là chất có chứa tạp chất độc điôxin.
Theo A.H. Westing (1983) thì nồng độ các chất được rải trong các phi vụ thường
cao hơn gấp từ 20 - 40 lần nồng độ dùng trong nông nghiệp. Các chất diệt cỏ và
phát quang thông thường được phân huỷ sau một tháng đến dưới một năm, riêng
Việt Nam môi trường và cuộc sống
hợp chất điôxin có trong chất da cam rất bền vững, với thời gian bán phân huỷ
được ước tính khoảng 15 đến 20 năm hoặc lâu hơn nữa.
Với số lượng rất lớn chất độc hoá học đã rải, lặp đi lặp lại nhiều lần trong quãng
thời gian dài với nồng độ cao, không những đã làm chết cây cối, động vật mà còn
gây ô nhiễm môi trường trong một thời gian dài và làm đảo lộn các hệ sinh thái tự
nhiên. Sự tàn phá của nó đã được Toà án Bertrand Roussel cũng như Hội nghị
Paris năm 1970 lần đầu tiên nêu lên trước dư luận thế giới về sự tàn khốc của cuộc
chiến tranh hoá học của Mỹ tại Việt Nam; gọi đó là "cuộc chiến tranh huỷ diệt môi
trường, huỷ diệt hệ sinh thái và con người" ở Việt Nam.
Những tác hại đối với thiên nhiên và môi trường của chiến tranh hoá học này đã


được nhiều nhà khoa học Việt Nam và thế giới tiến hành nghiên cứu và các kết
quả nghiên cứu đã được trình bày tại nhiều hội nghị quốc tế.
Qua nhiều thập kỷ, diện tích rừng có nhiều biến đổi theo chiều hướng suy giảm do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Riêng trong khoảng năm 1950 đến năm 1972, chiến
tranh, nhất là chiến tranh hoá học của Mỹ, đã để lại một hậu quả tàn khốc lên tài
nguyên rừng.
Theo tài liệu của Rollet (1956), độ che phủ chung của rừng ở Việt Nam chiếm
43%, trong đó diện tích rừng miền Nam Việt Nam bao gồm: (Bảng IV.4)

Bảng IV.4. Diện tích rừng miền Nam Việt Nam
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Nguồn: Rollet, 1956

Như vậy, tới năm 1956 đất rừng miền Nam Việt Nam có khoảng 10.300.000ha,
chiếm 60% tổng diện tích tự nhiên. Rừng phân bố rộng khắp trên vùng Trung
Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, và vùng ngập mặn ven biển
Nam Bộ.
Trong chiến dịch Ranch - Hand, rừng nội địa là đối tượng phải gánh chịu nặng nề
nhất chiếm 86% tổng số phi vụ rải chất độc. Các phi vụ tập trung vào các khu rừng
từ vùng núi cao tới vùng thấp ven biển, từ vùng ẩm ướt tới vùng khô hạn, trải dài
từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau.
Diện tích bị rải được phân bố trên các độ cao khác nhau (Bảng IV.5).

Bảng IV.5. Phân bố diện tích bị rải theo độ cao tuyệt đối
Việt Nam môi trường và cuộc sống

Nguồn: Phùng Tửu Bôi, 2001

Vùng cao nhất bị rải chất độc hoá học đó là khu rừng thuộc Vườn quốc gia Bạch
Mã (Thừa Thiên - Huế) ở độ cao trên 1.000m.

Những hậu quả tức thời và lâu dài của chất độc hoá học đối với tài nguyên và môi
trường rừng nội địa rất rõ ràng. Trong quá trình bị tác động, hàng trăm loài cây đã
bị trút lá, đáng quan tâm nhất là những cây gỗ lớn thuộc tầng nhô và tầng ưu thế
sinh thái thuộc họ dầu (Dipterocarpaceae), họ đậu (Fabaceae). Nhiều loài cây gỗ
quý hiếm như giáng hương (Pterocarpus macrocarpus), gụ (Sindora siamensis), gõ
(Afzelia xylocarpa), sao đen (Hopea odorata), và một số cây họ dầu thuộc tầng
cao trong rừng đã bị chết, dẫn đến khan hiếm nguồn hạt giống của một số loài cây
quý. Chỉ có một số ít loài có khả năng chống chịu với chất độc như cây kơ nia
(Irvingia malayana), cây cám (Parinari annamensis), cây cọ (Livistona). Tán rừng
bị phá vỡ, môi trường rừng bị thay đổi nhanh chóng, những loài cây của rừng thứ
sinh như tre, nứa, các loài cây gỗ ưa sáng mọc nhanh, kém giá trị kinh tế, chúng
xuất hiện và lấn át cây gỗ bản địa.
Nhiều khu rừng đã bị phá hủy nặng nề do quy mô phá hoại rộng lớn và lặp đi lặp
lại nhiều lần, kéo dài trong nhiều năm, kèm theo với các tác động khác của bom
đạn, máy ủi (cả lớp cây tái sinh tự nhiên bị thiêu cháy dưới tán rừng do bom
napan). Hậu quả là cây rừng bị chết đi, các loài cây cỏ dại như cỏ Mỹ (Pennisetum
Việt Nam môi trường và cuộc sống
polystachyon), cỏ tranh (Imperata cylindrica), lau lách xâm lấn. Đến nay rừng vẫn
chưa được phục hồi, nhiều băng rải chất độc vẫn chỉ là những trảng cỏ được thể
hiện rõ trên ảnh chụp từ vệ tinh và máy bay qua các thời kỳ khác nhau.
Tính toán thiệt hại do chiến tranh gây ra đối với tài nguyên rừng nội địa khá phức
tạp, hoàn toàn không giống như rừng ngập mặn. Rừng nội địa chịu ảnh hưởng của
chất độc hóa học ở nhiều mức độ khác nhau và do tính mẫn cảm của mỗi loài cây
mà tác hại đối với từng loài cũng khác nhau. Trong nhiều năm qua đã có một số
nhà khoa học chú ý nghiên cứu về tác động của chất diệt cỏ và làm rụng lá cây ở
rừng miền Nam Việt Nam. Một số tác giả như Galston, Paul W. Richards, Arthur
H. Westing, Peter S. Ashton, đã có những công trình viết về ảnh hưởng của
chiến tranh hoá học đối với thảm thực vật rừng.



Tài liệu "The effects of herbicide in South Vietnam" của Viện Hàn lâm khoa học
Mỹ (National Academy of Sciences, Washington D.C., 1974) tiến hành phân tích
sự thay đổi của tán cây rừng và rút ra những số liệu về độ che phủ rừng, về cây
chết trên các băng rải chất độc. Phần lớn kết quả được dựa trên tài liệu ảnh chụp từ
máy bay có tỷ lệ 1/30.000, 1/25.000,
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Những kết quả của các tác giả khác nhau có nhiều điểm khác nhau do phương
pháp và các tư liệu tiếp cận khác nhau, đặc biệt đa số các tác giả nước ngoài còn
do thiếu cơ sở thực tế tại hiện trường. Sau nhiều thập kỷ, hiện trường đã có nhiều
biến đổi, công tác nghiên cứu đánh giá tổn thất càng thêm phức tạp.
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam trong những năm qua đã bổ
sung những thiếu sót của các nhà khoa học nước ngoài và đã nêu lên được một
cách khá rõ ràng về hậu quả của chiến tranh hoá học của Mỹ lên rừng ở miền Nam
Việt Nam. Những tư liệu chính được sử dụng trong các nghiên cứu là:
 Kết quả phân tích ảnh vệ tinh Landsat 73, Landsat TM.90, Landsat
TM.96. Ảnh máy bay AMS. 58, AF.68,
 Các loại bản đồ địa hình UTM, và các tư liệu nghiên cứu khoa học
khác đã công bố.
 Điều tra trên thực địa những khu rừng bị tác động của chiến tranh
hoá học.
Kết quả bước đầu cho biết, trên 3,3 triệu ha đất
đai tự nhiên bị rải chất độc (với chiều rộng
băng rải là khoảng 1.000m), trong đó rừng nội
địa bị tác động nặng nề với nhiều mức độ khác
nhau, làm tổn thất trên 100 triệu m
3
gỗ, trong
đó vùng Đông Nam Bộ là một vùng có trên
50% diện tích tự nhiên bị tác động. Chiến khu
D, Chiến khu C, rừng Bời Lời, rừng Củ Chi, là những vùng đã bị rải hàng triệu

lít chất độc cùng với hàng triệu tấn bom đạn, trong đó có nhiều khu rừng đã bị triệt
phá hoàn toàn như khu Mã Đà, thuộc tỉnh Đồng Nai, khu Phú Bình, Bù Gia Mập
thuộc tỉnh Bình Phước.
Việt Nam môi trường và cuộc sống

Bảng IV.6. Diện tích bị rải chất độc hóa học
Đơn vị: ha

Nguồn: Phùng Tửu Bôi

Chất độc hoá học còn được rải ở một số vùng trọng điểm khác như: khu vực hàng
rào điện tử Mắc Namara thuộc tỉnh Quảng Trị, khu A Lưới, thuộc tỉnh Thừa Thiên
- Huế, khu Sa Thầy, thuộc tỉnh Kon Tum, khu Cần Giờ (Duyên Hải), thành phố
Hồ Chí Minh và khu Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải.
Theo tính toán sơ bộ bước đầu, tổng số gỗ thiệt hại là 119.536.000m3, bao gồm
lượng gỗ bị mất tức thời 90.284.000m
3
và 29.252.000m
3
gỗ tăng trưởng lâu dài do
rừng bị phá huỷ. Lượng gỗ thương phẩm (60% trữ lượng gỗ cây đứng) là 70 triệu
m3 gỗ thuộc nhóm 1 đến nhóm 4, trong đó nhiều loài gỗ quý hiếm, có giá trị kinh
tế cao. Ngoài ra chất độc hoá học rải lên rừng còn gây thiệt hại nhiều cho các loại
tài nguyên khác ngoài gỗ chưa được tính đến, như dầu nhựa, cây thuốc, song mây,
và các loài động vật rừng.
Hậu quả của chiến tranh hoá học của Mỹ còn dẫn đến nhiều thiệt hại khác về môi
trường và tính đa dạng sinh học. Quá trình trút lá ồ ạt đã dẫn đến hiện tượng ứ
Việt Nam môi trường và cuộc sống
đọng dinh dưỡng và có 10 đến 15 triệu hố bom chiếm khoảng 1% diện tích rừng
Nam Việt Nam làm cho lớp đất mặt bị đảo lộn và thúc đẩy quá trình rửa trôi đất.

Hậu quả trên cản trở trực tiếp đến diễn thế phục hồi rừng, và tác động xấu đến
rừng phòng hộ đầu nguồn của 28 lưu vực sông, trong đó có:
- 16 lưu vực có 30% diện tích lưu vực bị rải chất độc.
- 10 lưu vực có 30 - 50% diện tích lưu vực bị rải chất độc.
- 2 lưu vực có trên 50% diện tích lưu vực bị rải chất độc.
Phần lớn các lưu vực trên có dòng sông ngắn, địa hình phức tạp, nhiều dốc, có
dòng chảy ảnh hưởng trực tiếp tới vùng hạ lưu. Điển hình là lưu vực sông Hương,
sông Thạch Hãn, sông Hàn, sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Côn, sông Vệ,
sông Cầu, sông Ba, trong nhiều năm qua đã bị lũ lụt lớn tàn phá (Phùng Tửu Bôi,
2001).

×