Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Việt Nam môi trường và cuộc sống - Phần 11 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.54 KB, 16 trang )

Việt Nam môi trường và cuộc sống
Rừng Việt Nam trước và nay
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất
nước ta
Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế -
xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ
quan trọng: rừng tham gia vào quá trình điều
hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển ôxy và các
nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì
tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ
lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các
thiên tai, bảo tồn nguồn nước mặt và nước ngầm và làm giảm mức ô nhiễm không
khí và nước.
Đất nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và đai cao, với địa hình rất đa
dạng, hơn 2/3 lãnh thổ là đồi núi, lại có khí hậu thay đổi từ nhiệt đới ẩm phía Nam,
đến á nhiệt đới ở vùng cao phía Bắc, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên
và sự phong phú về các loài sinh vật. Những hệ sinh thái đó bao gồm nhiều loại
rừng như rừng cây lá rộng thường xanh, rừng nửa rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên
núi đá vôi, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim, rừng lá kim, rừng tre nứa, rừng ngập
mặn, rừng tràm, rừng ngập nước ngọt,
Qua quá trình quản lý chưa bền vững, độ che
phủ của rừng ở Việt Nam đã giảm sút đến
mức báo động. Chất lượng của rừng tự nhiên
còn lại đã bị hạ thấp quá mức.
Việt Nam môi trường và cuộc sống

Sự giảm sút độ che phủ và chất lượng rừng là một vấn đề đáng lo ngại
Trước đây phần lớn đất nước Việt Nam có rừng che phủ, nhưng chỉ khoảng một
thế kỷ qua, rừng bị suy thoái nặng nề. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nhiều vùng đất
rộng lớn ở phía Nam đã bị khai phá để trồng cà phê, cao su, chè và một số cây
công nghiệp khác. Vào khoảng giữa thế kỷ XX, hầu như các khu rừng thuộc châu


thổ sông Hồng, một phần lớn châu thổ sông Cửu Long cùng với các khu rừng trên
đất thấp ven biển đã bị khai phá để trồng trọt và xây dựng xóm làng. Vào lúc này
độ che phủ của rừng còn lại 43% diện tích đất tự nhiên.
Ba mươi năm chiến tranh tiếp theo là giai đoạn mà rừng Việt Nam bị thu hẹp lại
khá nhanh. Hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ cùng 13 triệu tấn bom đạn với hơn 25 triệu
hố bom đạn, bom cháy cùng với đội xe ủi đất khổng lồ đã tiêu hủy hơn 2 triệu ha
rừng nhiệt đới các loại.
Sau chiến tranh, diện tích rừng chỉ còn lại khoảng 9,5 triệu ha, chiếm 29% diện
tích cả nước. Trong những năm vừa qua, để đáp ứng nhu cầu của số dân ngày càng
tăng, để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng nền kinh tế còn yếu của mình,
nhân dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục khai thác một cách mạnh mẽ diện tích rừng
còn lại. Số liệu thu được nhờ phân tích ảnh Landsat chụp năm 1979 - 1981 và
KATE 140 trong cùng thời gian, cho thấy trong giai đoạn này rừng chỉ còn lại 7,8
triệu ha, chiếm khoảng 24% diện tích cả nước (Viện Điều tra và Quy hoạch rừng),
trong đó 10% là rừng nguyên sinh. Ở nhiều tỉnh, rừng tự nhiên giàu còn lại rất
thấp, như Lai Châu còn 7,88%, Sơn La 11,95%, và Lào Cai 5,38%. Sự suy giảm
về độ che phủ rừng ở các vùng này là do mức tăng dân số đã tạo nhu cầu lớn về
lâm sản và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới việc biến nhiều vùng rừng thành đất
hoang cằn cỗi. Những khu rừng còn lại ở vùng núi phía Bắc đã xuống cấp, trữ
lượng gỗ thấp và bị chia cắt thành những đám rừng nhỏ phân tán.
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Trong mấy năm qua, diện tích rừng có chiều hướng tăng lên, 28,2% năm 1995 và
cuối năm 1999 theo số liệu thống kê mới nhất thì độ che phủ rừng toàn quốc lên
đến là 33,2%, trong đó:
1- Kon Tum 63,7%
2- Lâm Đồng 63,3%
3- Đắk Lắk 52,0%
4- Tuyên Quang 50,6%
5- Bắc Kạn 48,4%
6- Gia Lai 48,0%

7- Thái Nguyên 39,4%
8- Yên Bái 37,6%
9- Quảng Ninh 37,6%
10- Hà Giang 36,0%
11- Hoà Bình 35,8%
12- Phú Thọ 32,7%
13- Cao Bằng 31,2%
14- Lào Cai 29,8%
15- Lạng Sơn 29,3%
Việt Nam môi trường và cuộc sống
16- Lai Châu 28,7%
17- Bắc Giang 25,6%
18- Bình Phước 24,0%
19- Sơn La 22,0%.

Bảng IV.1. Thống kê về hiện trạng rừng của Việt Nam vào thời điểm cuối
năm 1999

Nguồn: Chương trình Kiểm kê rừng Nhà nước - 03/2001 TTg, công bố tháng 12
năm 2002

Việt Nam môi trường và cuộc sống
Theo thống kê mới năm 2003 (Bảng IV. 2), diện tích rừng đến năm cuối 2002 đã
đạt 35,8% diện tích tự nhiên, một kết quả hết sức khả quan. Chúng ta vui mừng là
độ che phủ rừng nước ta đã tăng lên khá nhanh trong những năm gần đây, tuy
nhiên chất lượng rừng lại giảm sút đáng lo ngại (Hình IV.1)

Bảng IV.2. Diễn biến diện tích rừng qua các thời kỳ
Đơn vị tính: 1.000.000ha


Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tính đến tháng 12 năm 2003

Những con số thống kê về tăng diện tích rừng tự nhiên trong bảng IV.2 đã phần
nào nói lên điều đó. Diện tích rừng tự nhiên nước ta giảm dần từ 14,3 triệu ha năm
1945 đến 8,2525 triệu ha năm 1995, bỗng nhiên tăng lên 9,470737 triệu ha năm
1999 và đến năm 2002 là 9,865020 triệu ha, như vậy là trong 7 năm mỗi năm
trung bình tăng hơn 230.000ha. Diện tích rừng tự nhiên tăng chủ yếu do sự phát
triển của rừng tái sinh và rừng tre nứa. Tất nhiên với thời gian ngắn, các loại rừng
đó chưa có thể thành rừng tự nhiên tốt được.
Cũng cần chú ý là công tác thống kê rừng của
chúng ta tới nay còn nhiều hạn chế, các số liệu
Việt Nam môi trường và cuộc sống
về diện tích rừng được công bố rất khác nhau, tuỳ nguồn tài liệu, và tuỳ thời gian
do thiếu thống nhất về phương pháp và các tiêu chí định lượng về rừng.
Theo đề tài KHCN 07-05 "Nghiên cứu biến động môi trường do thực hiện quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên Tây Nguyên giai đoạn 1996 - 2010", thì từ năm 1996 đến năm 2000, ở các
tỉnh Tây Nguyên, trung bình mỗi năm mất 10.000ha rừng tự nhiên (hơn cả diện
tích rừng mất đi trung bình hàng năm trong thời kỳ kế hoạch 5 năm trước đó). Số
liệu này có lẽ còn thấp hơn thực tế nhiều vì có nhiều nơi rừng bị phá mà không
được thống kê. Các lâm trường thường khai thác gỗ vượt quá chỉ tiêu cho phép và
không theo đúng thiết kế được duyệt. Những năm 1996 - 1999 các tỉnh Tây
Nguyên đã khai thác vượt kế hoạch 31%. Trong lúc đó chỉ tiêu trồng rừng vốn đã
thấp nhưng triển khai thực tế vẫn không đạt diện tích và chất lượng yêu cầu. Cho
đến hết năm 1999, việc trồng rừng sau 4 năm chỉ mới đạt được 36% diện tích của
kế hoạch 5 năm. Sự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này cũng một phần
do dân số tăng nhanh, nhất là dân di cư tự do đã tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất
trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới việc biến nhiều vùng rừng thành vùng đất hoang cằn
cỗi.
Theo kết quả của Viện Điều tra và Quy

hoạch rừng (1995), thì trong thời gian 20
năm từ năm 1975 đến năm 1995, diện tích
rừng tự nhiên giảm 2,8 triệu ha. Đặc biệt
nghiêm trọng ở một số vùng, như Tây
Nguyên mất 440.000ha, vùng Đông Nam Bộ
mất 308.000ha, vùng Bắc Khu IV cũ mất
243.000ha, vùng Bắc Bộ mất 242.500ha. Nguyên nhân là do sau thời kỳ chiến
tranh, dân địa phương tranh thủ chặt gỗ làm nhà và lấy đất trồng trọt. Tình trạng
đó vẫn còn đang tiếp diễn cho đến ngày nay. Vụ phá rừng Tánh Linh, Bình Thuận
Việt Nam môi trường và cuộc sống
vừa bị xét xử là một bằng chứng về sự yếu kém trong quản lý tài nguyên rừng, nạn
tham nhũng và thoái hoá của một số cán bộ địa phương đã cấu kết với bọn lâm tặc
phá hoại một diện tích rừng rất lớn, mà phải sau một thời gian dài mới bị trừng trị.
Đó là chưa nói đến nhiều vụ phá rừng nghiêm trọng trong mấy năm gần đây chưa
bị pháp luật trừng trị một cách nghiêm khắc, như ở Kon Tum, Gia Lai, Bình
Thuận, Nghệ An, Bắc Giang, Vườn quốc gia Phú Quốc mà báo chí đã đưa tin
(2003). Gần đây nhất mới phát hiện vụ phá rừng lớn trái phép tại Vườn quốc gia
Kon Ka Kinh. Tại hiện trường, cơ quan điều tra đã phát hiện một số lượng lớn gỗ,
hơn 2.400m
3
do giám đốc Lâm trường Mang Đen, giám đốc Lâm trường Tân Lập
cầm đầu, cùng với một số người khác, như trưởng trạm cửa rừng Lâm trường
Mang Đen, giám đốc một số công ty trách nhiệm hữu hạn ở Kon Tum và thành
phố Hồ Chí Minh khai thác bất hợp pháp. Một số lượng gỗ lớn bị khai thác trong
thời gian dài mà không bị phát hiện đã minh chứng sự buông lỏng quản lý của các
cơ quan có trách nhiệm, đặc biệt là các cơ quan cấp phép và quản lý khai thác (Đài
Truyền hình Việt Nam, VTV1, ngày 15-12-2003).
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, sáu tháng đầu năm 2003, cả nước đã xảy ra
khoảng 15.000 vụ vi phạm lâm luật, hàng chục vụ kiểm lâm bị lâm tặc tấn công.
Do giá trị mang lại từ lâm sản lớn, cho nên bọn lâm tặc không từ một thủ đoạn nào

để đối phó, hành hung người thi hành công vụ (Báo Nhân dân, ngày 14-12-2003).
Trong 10 năm qua, đất nông nghiệp tại Tây Nguyên tăng lên rất nhanh, từ 8,0%
năm 1991 lên đến 22,6% năm 2000 (454.300ha so với 1.233.600ha, gấp 2,7 lần),
trong lúc đó đất lâm nghiệp giảm từ 59,2% xuống còn 54,9% đất tự nhiên (3,329
triệu ha so với 2,993 triệu ha). So sánh trong cả nước thì trong vòng 10 năm qua,
Tây Nguyên là vùng mà rừng bị giảm sút với mức độ đáng lo ngại nhất, đặc biệt là
ở Đắk Lắk. Kết quả đã dẫn đến việc biến nhiều vùng có hệ sinh thái rừng tốt tươi,
ổn định thành vùng mà hệ sinh thái bị đảo lộn, mất cân bằng, dẫn đến lũ lụt, sụt lở
Việt Nam môi trường và cuộc sống
đất, hạn hán và có nhiều khả năng thiếu nước trầm trọng trong mùa khô, kể cả
nguồn nước ngầm.
Thật khó mà ước tính được tổn thất về rừng
và lâm sản hàng năm ở Việt Nam. Theo
thống kê, năm 1991 có 20.257ha rừng bị phá,
năm 1995 giảm xuống còn 18.914ha và năm
2000 là 3.542ha. Tuy nhiên, theo Báo cáo
Hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000
thì có thể ước định rằng tỷ lệ mất rừng hiện
nay là khoảng 120.000 đến 150.000ha/năm và rừng trồng hàng năm khoảng
200.000ha và mục tiêu là trồng càng nhanh càng tốt để đạt 300.000ha/năm.
Trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay, chiều hướng biến động rừng cơ bản vẫn ở
tình trạng suy thoái, còn xa mức ổn định và mức cần thiết để bảo vệ môi trường.
Tuy một số diện tích rừng thứ sinh tự nhiên được phục hồi, nhưng nhiều diện tích
rừng già và rừng trồng chưa đến tuổi thành thục đã bị xâm hại, đốn chặt, "khai
hoang". Từ năm 1999 đến nay, cháy rừng đã được hạn chế mạnh mẽ và việc khai
thác gỗ trái phép đã kiểm soát được một phần, nhưng tình trạng mất rừng vẫn ở
mức độ nghiêm trọng. Rừng phòng hộ đầu nguồn trên lưu vực những con sông lớn
ở nước ta vẫn đang bị phá hoại. Tuy diện tích rừng trồng có tăng lên hàng năm,
nhưng với số lượng rất khiêm tốn và phần lớn rừng được trồng lại với mục đích
kinh tế, sản xuất cây lấy gỗ ngắn ngày, cây mọc nhanh mà chưa ưu tiên trồng rừng

tại các khu vực đầu nguồn. Rừng phòng hộ ở vùng hồ Hoà Bình đang ở mức báo
động và đang suy giảm nghiêm trọng. Rừng phòng hộ các hồ chứa quy mô lớn
như Trị An, Thác Mơ, Đa Nhim, Đa Mi và Yaly cũng trong tình trạng tương tự
như rừng phòng hộ lưu vực hồ Hoà Bình trước kia mà vẫn chưa có giải pháp hữu
hiệu để ngăn chặn kịp thời. Rừng trên các vùng núi đá vôi, rừng ngập mặn ven
biển vẫn tiếp tục bị xâm hại chưa kiểm soát được.
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Sự mất mát và suy giảm rừng là không thể bù
đắp được và đã gây ra nhiều tổn thất lớn về kinh
tế, về công ăn việc làm và cả về phát triển xã
hội một cách lâu dài. Những trận lụt rất lớn
trong mấy năm qua ở hầu khắp các vùng của đất
nước, từ Bắc chí Nam, từ miền núi đến miền
đồng bằng, nhất là các trận lụt ở sáu tỉnh miền
Trung, ở Đồng bằng sông Cửu Long, các trận lũ quét ở một số tỉnh miền Bắc, và
trận lũ tháng 9-2002, tại các tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An, đặc biệt ở các huyện
Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Nam Đàn và Hưng Nguyên, và tiếp theo là lũ
lụt ở Bình Định tháng 11-2002 đã gây ra nhiều tổn thất nặng nề về nhân mạng,
mùa màng, nhà cửa, ruộng vườn, đường sá một phần quan trọng cũng do sự suy
thoái rừng, nhất là rừng đầu nguồn bị tàn phá quá nhiều. Trong những năm qua,
hạn hán xảy ra ở nhiều nơi mà chúng ta cho là ảnh hưởng của hiện tượng El Nino.
Nhưng cũng cần nói thêm rằng là các hoạt động phát triển kinh tế thiếu cân nhắc
đã phá huỷ nhiều hệ sinh thái rừng, nhất là rừng đầu nguồn và góp phần làm cho
hậu quả thiên tai càng nặng nề hơn. Trận lũ lớn xảy ra vào cuối tháng 10-2003 tại
các tỉnh miền Trung: Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên đã cướp đi sinh mạng của 52 người, hàng nghìn gia đình
không còn nhà cửa, hàng chục nghìn ha lúa và hoa màu bị thiệt hại, ước tính hơn
260 tỷ đồng (Báo Lao động, Vietnam News, 10-2003, UNDP ngày 13-11-2003).
Trận lũ vừa xảy ra tại các tỉnh miền Trung từ Bình Định đến Ninh Thuận vào giữa
tháng 11-2003 gây thiệt hại còn nặng nề hơn trận lũ trước (Đài Truyền hình Việt

Nam, VTV1, ngày 13-11-2003).

Trồng rừng và bảo vệ rừng còn chưa được như mong muốn
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Nhận thức được việc mất rừng là tổn thất nghiêm trọng đang đe dọa sức sinh sản
lâu dài của nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo, nhân dân Việt Nam đang thực
hiện một chương trình rộng lớn nhằm xanh hóa những vùng đất bị tổn thất do
chiến tranh và sửa chữa những sai lầm trong công cuộc phát triển thiếu quy hoạch
của mình trong những năm qua. Mục tiêu là đến năm 2010 sẽ phủ xanh được 43%
diện tích cả nước, với hy vọng phục hồi lại sự cân bằng sinh thái ở Việt Nam, bảo
tồn đa dạng sinh học và góp phần vào việc làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu.

Khung IV.1. hạn hán Ở TÂY NGUYÊN
"Theo Vietnam Express ngày 19-4-2003: mực nước trên các ao hồ, sông suối ở
Tây Nguyên tiếp tục giảm. Dòng chảy trên các sông, suối đều nhỏ hơn trung bình
cùng kỳ 20 - 30%. Một số hồ nước đã thấp hơn mực nước chết như là Rung (Gia
Lai), Krông Buk Hạ, Ea Súp Hạ, Núi lửa (Đắk Lắk), Đắk Sa Nen, Đắc Brông, Hồ
Che, La Bang Thượng (Kon Tum).
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (4-2003), Đắk Lắk bị thiệt hại
nhiều nhất, 250.000 hộ dân ở đây đang lâm vào cảnh đói và rất cần sự hỗ trợ.
62.000 hộ khác đang ngóng trời cầu mưa và hơn hai tháng nay họ phải đi vài cây
số mới lấy được một hai bình nước. Về nông nghiệp, 5.790ha lúa đông Xuân,
40.440ha cà phê, 1.420ha rau màu tập trung ở các huyện Krông Pắk, Krông Buk,
Krông Năng, Ea Kar đang bị cạn kiệt nguồn nước tưới tiêu. Tỉnh đã chi khoảng
40 tỷ đồng và nhân dân đầu tư 35 tỷ đồng cho công tác chống hạn, tuy nhiên vẫn
đành chấp nhận để nhiều diện tích lúa và cà phê bị mất trắng.
Tỉnh Gia Lai dù đã trích ngân sách 800 triệu đồng cho công tác chống hạn, nhưng
hiện vẫn có 37.000 người thiếu lương thực, hơn 4.000 hộ dân với 21.420 nhân
Việt Nam môi trường và cuộc sống
khẩu tập trung ở các huyện phía đông Trường Sơn bị khan hiếm nguồn nước sinh

hoạt. 998ha lúa đông Xuân, 1.170ha cà phê, 740ha ngô cũng đang bị nứt nẻ, héo
rũ.
Tại Kon Tum hiện có 32.500 người thiếu ăn, 2.800 hộ dân với 11.520 người tập
trung ở huyện Ngọc Hồi, Kon Rẫy, Đắk Tô, Sa Thầy, thị xã Kon Tum bị thiếu
nước sinh hoạt. 360ha lúa đông Xuân, 59ha cà phê, 50ha mía cũng trong cảnh khát
nước. Kon Tum đã trích 100 triệu đồng từ ngân sách của tỉnh để mua 5 máy bơm
và nhiên liệu phục vụ cho việc bơm nước tưới tiêu.
Nam Trung Bộ cũng trong tình trạng khô hạn nặng. Diện tích lúa đông Xuân bị
thiếu nước là 4.650ha, trong đó Bình Thuận là 3.530ha, Ninh Thuận 610ha, Phú
Yên 510ha. Đặc biệt có khoảng 11.000 người ở Bình Thuận và 18 xã ở Phú Yên
đang thiếu nước sinh hoạt."
Nguồn: Vietnam Express, ngày 19-4-2003


Một chương trình nữa về khoanh nuôi rừng và trồng rừng đang được thực hiện
bằng cách xây dựng những vùng rừng đệm và rừng trồng kinh tế để cung cấp gỗ
củi và gỗ xây dựng cho nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, việc trồng rừng hiện nay
còn chú ý nhiều đến việc trồng thuần loại hay là trồng các loài cây nhập nội mà ít
chú ý tạo ra những loại rừng hỗn giao với các loài cây bản địa, có giá trị kinh tế
cao, phù hợp với điều kiện và khí hậu địa phương.
Trong những năm qua Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và
chính quyền địa phương đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo vệ rừng và trồng
rừng, nên diện tích rừng bị phá huỷ có giảm so với những năm trước, việc trồng
rừng tăng nhanh hơn. Các chính sách hỗ trợ công tác bảo vệ và phát triển rừng như
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Quy định về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn
định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp (Nghị định số 02/CP), Quy định về việc
khoán bảo vệ rừng và phát triển rừng (Quyết định 202/TTg), Chỉ thị của Chính
phủ về việc tăng cường quản lý bảo vệ rừng (Chỉ thị 286/TTg) đã được quần
chúng hoan nghênh và thực hiện.


Khung IV.2. MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG RỪNG TỐT
Tại nhiều tỉnh miền núi đã có những thành công trong việc trồng rừng, nhiều mô
hình trồng rừng phối hợp với phát triển nông nghiệp đạt kết quả rất đáng khích lệ
và gần đây thành công của ông Ngô Văn Lý - nông dân xóm Cồn Chay, huyện Bố
Trạch, Quảng Bình trong việc đưa cây huỷnh (Tarretia javanica) một loại cây rừng
có gỗ vừa đẹp lại vừa dai và chịu được nước về trồng tại vườn nhà và trên các đồi
trọc trong huyện theo phương thức nông lâm kết hợp (dùng cây huỷnh làm choái
trồng tiêu) là một ví dụ về trồng rừng có hiệu quả kinh tế cao. Mô hình này đã
được người dân nhiều nơi học tập và mở rộng. Mô hình trồng cây báng nước làm
choái tiêu ở Phú Quốc cũng đã giảm được việc phá rừng.
Nguồn: Vũ Đăng Dũng, 2003


Các văn bản pháp luật, các chính sách thích hợp của Chính phủ và Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đã tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh và mạnh
hơn về công tác bảo vệ thiên nhiên ở miền núi trong 10 năm qua. Kết quả cụ thể là
trong số 11.784.589ha đất lâm nghiệp hiện có của cả nước tính đến tháng 12-2003,
Việt Nam môi trường và cuộc sống
đã có 7.956.592ha được Nhà nước giao và công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp
cho các "chủ rừng" phân theo các đối tượng như sau:
 Doanh nghiệp Nhà nước quản lý: 3.394.052ha;
 Các ban quản lý rừng phòng hộ quản lý: 1.068.571ha;
 Các ban quản lý rừng đặc dụng quản lý: 1.337.963ha;
 Hộ gia đình và tập thể quản lý: 2.738.917ha;
 Xí nghiệp liên doanh quản lý: 25.647ha;
 Lực lượng vũ trang quản lý: 95.605ha;
 Uỷ ban nhân dân quản lý: 229.201ha;
 Đối tượng khác quản lý: 2.447.772ha.
Ngoài các hình thức giao đất, khoán rừng,

trong 10 năm qua, một hình thức bảo vệ rừng
khác cũng đã được thực hiện ở một số nơi, đó
là việc "nhận khoán bảo vệ rừng". Đây là hình
thức hợp đồng dài hay ngắn hạn giữa "chủ
rừng" với cá nhân, hộ gia đình, tập thể hay các
cơ quan, đơn vị của Nhà nước để tăng cường
công tác bảo vệ rừng. Tới nay đã có 918.326ha rừng được nhận khoán quản lý bảo
vệ và 214.000ha rừng được các cộng đồng địa phương quản lý theo hình thức
truyền thống (Hà Công Tuấn, 2001).

Việt Nam môi trường và cuộc sống
Khung IV.3. CỘNG ĐỒNG XÃ PHÚC SEN PHỤC HỒI RỪNG
Bia ký đặt trong miếu thờ của làng, dưới một gốc cây nghiến (Parapentace
tonkinense) cổ thụ được gọi là Cây Tổ, ghi rõ: "Hai anh em có tên Kỳ Lộc và Kỳ
Thái từ phương xa dắt díu cộng đồng dòng tộc di cư về chốn này nương thân (lánh
xa các biến cố lịch sử ở quê hương). Chốn này là một vùng núi đá vôi hiểm trở,
rừng già bạt ngàn, có mó nước ngầm từ khe đá tuôn chảy ngày đêm. Cộng đồng họ
Kỳ vốn thuộc tộc người Nùng An, thuở cắm đất chốn tái định cư này chưa có
ruộng, cộng đồng phát huy nghề truyền thống rèn nông cụ và các đồ gia dụng kim
loại, bán đi khắp các vùng c
ủa xứ Cao Bằng". Tính theo bia ký, đến nay cộng đồng
họ Kỳ đã lập làng nơi quê mới này hơn 200 năm (12 đời người). Nghề rèn ưa than
gỗ nghiến, nhiệt lượng cao, ít khói, ít tàn, đồ làm ra vừa bền vừa đẹp. Cây nghiến
chỉ mọc trên núi đá, gỗ cứng và rất quý. Thế rồi từ thuở ban đầu người anh Kỳ Lộc
lập làng Chang Trên, người em lập làng Chang Dưới. Từ đời thứ tư trở đi lập thêm
tới 10 làng nữa và trở thành một xã người Nùng An với tên là xã Phúc Sen, thuộc
huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng. Ngày đêm rộn ràng tiếng búa đe xen với tiếng
bễ rèn, và cây nghiến trên núi đá được chặt lấy gỗ hầm than Đến đời thứ 10, cả
12 làng của xã Phúc Sen lâm vào nạn khô kiệt nguồn nước mó, đất hoang hóa và
rừng trên núi đá xác xơ tàn lụi.

Ngày ấy vào năm 1960, Bác Hồ kêu gọi toàn dân hưởng ứng Tết trồng cây, ông
Kỳ Vinh già làng tộc trưởng thứ 10 cùng ông Kỳ Lợi bí thư Đảng uỷ xã, đứng ra
tổ chức phong trào trồng cây gây rừng toàn xã Phúc Sen, chuyển đổi từ nghề rèn
sang thâm canh lúa và trang trại cây đặc sản, lập hương luật bảo vệ rừng và trồng
lại rừng. Suốt thời gian gần 50 năm trở lại đây, dân xã Phúc Sen phủ xanh lại 92%
núi đá trọc, những nguồn nước mó từ khe đá lại tuôn chảy. Đặc biệt là việc khôi
phục rừng hoàn toàn từ sức người sức của do cộng đồng toàn xã đóng góp. Kỳ
diệu hơn cả lại là: phần lớn cây trồng khôi phục rừng gồm hai cây bản địa, là cây
Việt Nam môi trường và cuộc sống
mắc rạc (Delavaya toxocarapa) đi trước tạo bóng, tạo nền cho đá, sau đó là nghiến
dặm vào dưới nền xanh tiên phong để rồi rừng nghiến được phục hồi trên dãy núi
đá vôi cháy bỏng đã bao nhiêu năm.
Trong ngày lễ đón nhận Giải thưởng Môi trường do Nhà nước trao tặng (vào năm
2002), ông Minh Nhật, hậu duệ thứ 12 dòng tộc họ Kỳ, thay mặt lãnh đạo xã, tay
nâng niu tấm Chứng chỉ Giải thưởng, mắt ngấn lệ nói lời tri ân: "Bác Hồ còn là
Thần Núi, Thần rừng, Thần cứu sinh của Phúc Sen".
Nguồn: Võ Trí Chung


Tuy nhiên, theo kết quả tổng kiểm kê rừng toàn quốc tháng 1-2001, thì đến năm
1990, cả nước có 745.000ha rừng trồng, và đến năm 1999, tổng diện tích rừng
trồng của cả nước là 1.524.323ha (Bảng IV.2), như thế có nghĩa là trong 9 năm
qua, từ năm 1990 đến năm 1999 chúng ta chỉ trồng được có 779.323ha thành rừng,
trung bình đạt 86.591ha/năm, chiếm khoảng 36% tổng diện tích trồng rừng hàng
năm, một kết quả hết sức thấp so với mong muốn. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến
nay, công tác trồng rừng đạt kết quả khá hơn, hàng năm trung bình đã trồng được
khoảng 130.000ha thành rừng.
Chương trình trồng 5 triệu ha rừng đang được
các địa phương tích cực thực hiện. Theo kế
hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn thì 2 triệu ha rừng sẽ được hồi phục và
trồng dặm thêm, 2 triệu ha trồng mới và 1 triệu
ha trồng các cây công nghiệp. Dù cho các
chương trình trồng rừng có đạt được sớm,
nhưng kết quả thành rừng thấp như trong 10 năm vừa qua thì cũng chưa thể bù đắp
Việt Nam môi trường và cuộc sống
ngay được mức phá rừng hiện tại và cũng khó đạt được mục tiêu đề ra là sau cuối
thập kỷ này độ che phủ rừng đạt 43% diện tích tự nhiên cả nước, tương đương
mức che phủ rừng trước chiến tranh.

×