1
Phần 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, là một trong
những giá trị quý báu nhất của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày nay.
Những giá trị nền tảng tạo nên QCN là: Nhân phẩm - Tự do - Bình đẳng - Nhân đạo -
Khoan dung và Trách nhiệm. Đây là những giá trị vốn có ở tất cả các nền văn hóa,
được quố
c tế hóa nhằm bảo vệ nó trong đời sống xã hội. Trong các quyền cơ bản đó,
QCN trong tố tụng hình sự (TTHS), trong đó có quyền trẻ em và việc bảo đảm quyền
trẻ em là rất quan trọng.
Việt Nam đang trong tiến trình cải cách tư pháp (CCTP) nhằm xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tuy nhiên, công tác tư pháp vẫn còn bộc
lộ nhiều hạn chế, vấn đề bảo đảm QCN nhấ
t là quyền bào chữa (QBC) của bị can, bị
cáo nói chung và của bị can, bị cáo là người chưa thành niên (CTN) nói riêng còn có
hạn chế, sai sót.
Xét từ góc độ quy định pháp luật, Bộ luật TTHS năm 2003 đã dành một chương
riêng (chương XXXII) quy định về thủ tục đối với người CTN. Thực tiễn áp dụng
pháp luật cho thấy những quy định của Bộ luật TTHS 2003 đối với người CTN phạm
tội tuy đã tương
đối hoàn chỉnh, nhưng không khó để nhận thấy tính chưa chặt chẽ,
chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của các quy định này. Những bất
cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và người THTT
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN. Với những vấn đề nêu trên,
quy định của pháp luậ
t TTHS đối với người CTN phạm tội đặt ra những vấn đề cần
phải hoàn thiện theo hướng cần thiết phải có những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống
nhất hơn nữa trong Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là người
CTN.
Về mặt thực tiễn, việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét x
ử đối với những vụ án mà
bị can, bị cáo là người CTN trong những năm qua cho thấy khi áp dụng những quy
định về thủ tục đặc biệt này còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Từ các góc độ quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật đã nói trên,
việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề bảo đảm QCN nói chung và QBC của bị can, bị
cáo là người CTN trong TTHS nói riêng theo tinh thần CCTP ở Việ
t Nam hiện nay là
hoàn toàn cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền bào
2
chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam”
làm luận án Tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào cũng đều
trả lời cho câu hỏi: việc thực hiện công trình nghiên cứu nhằm vào cái gì? Đây cũng
chính là ý nghĩa thực tiễn c
ủa kết quả nghiên cứu. Không nằm ngoài cách tiếp cận
trên, chúng tôi xác định mục tiêu của luận án nhằm nâng cao hiệu quả thực thi cơ chế
đảm bảo QBC của bị can bị cao là người CTN.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nếu như mục tiêu nghiên cứu đặt ra câu hỏi: nghiên cứu nhằm đạt được cái gì
thì nhiệm vụ nghiên cứu lại trả lời cho câu hỏi – cần phải làm như thế nào để
đạt được
mục tiêu.
Trên cơ sở mục tiêu nêu trên, chúng tôi xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, phải phân tích, đánh giá được sự tác động của lý thuyết về QBC của bị
can, bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến chất lượng của quy
định pháp luật về quyền này.
Thứ hai, xác định, phân tích được các yếu tố tạo nên tính chất đặc thù của bị can,
bị cáo là người CTN nh
ư chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng.
Thứ ba, phân tích và đánh giá được thực trạng quy định pháp luật về QBC của bị
can, bị cáo là người CTN cũng như quy định pháp luật về cơ chế đảm bảo thực thi
quyền này.
Thứ tư, phân tích và đánh giá quy định pháp luật của một số quốc gia điển hình
về QBC của bị can, bị cáo là người CTN.
Thứ nă
m, trên cơ sở so sánh quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị can, bị
cáo là người CTN với kinh nghiệm của một số nước, đưa ra được các kiến nghị nâng
cao hiệu quả nhằm đảm bảo thực thi quyền này.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu có thể hiểu là đối tượng nghiên cứu được khảo sát, nghiên
cứu trong phạm vi nhất
định về mặt thời gian, không gian và lĩnh vực nghiên cứu.
Về mặt thời gian:
- Về văn bản pháp luật, luận án chủ yếu được viết trên cơ sở phân tích, đánh giá
quy định pháp luật TTHS từ năm 1998 đến nay. Bên cạnh đó để làm rõ quá trình hình
thành và phát triển của chế định QBC nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người
3
CTN nói riêng luận án có để cập tới những nội dung chủ yếu của quy định pháp luật
về vấn đề này từ giai đoạn năm 1945.
- Về số liệu khảo sát thủ tục TTHS, luận án sẽ phân tích trên các số liệu từ trước
năm 2009 đến năm 2012.
Về mặt không gian, đối tượng nghiên cứu sẽ được phân tích và đánh giá qua quy
định pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước Cộng hòa
Pháp, Hoa Kỳ, Liên Bang
Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Về số liệu khảo sát, luận án sẽ thu thập số liệu về thực tiễn tiến hành hoạt động
tố tụng từ các Đoàn luật sư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Tiền
Giang, Lâm Đồng; Tòa án nhân dân (TAND) tối cao và đặc biệt là TAND Thành phố
Hồ Chí Minh. Việc chọn lựa các địa bàn khảo sát nói trên được giải thích bởi các lý
do như sau:
Thứ nhất, ngườ
i thực hiện luận án là cán bộ tư pháp của phía Nam với trên 10
năm kinh nghiệm thực tế thì việc tích góp và thu thập số liệu trên địa bàn phía Nam sẽ
là thuận lợi đầu tiên. Nhưng chính điều này cũng là một hạn chế cho việc thu thập số
liệu ở các địa bàn khác, đặc biệt là khu vực phía Bắc. Trên địa bàn khu vực phía Nam,
nếu xét về số lượng vụ án thì các tỉnh Kiên Giang, Tiền Giang, Lầm Đồng và
đặc biệt
là Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng vụ án hình sự (VAHS) liên quan tới người
CTN phạm tội cao hơn so với các địa bàn khác (có thể tham khảo Phụ lục 3, 4, 5, 6).
Xét về góc độ áp dụng pháp luật, mục đích của việc lựa chọn các địa bàn và đối chiếu
giữa thực tiễn tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ Chí Minh với các địa bàn trên nhằm
cho thấy mức độ ảnh h
ưởng của các yếu tố chủ quan của người THTT đến hiệu quả
thực thi pháp luật nói chung và QBC của người CTN nói riêng.
Thứ hai, việc không tiến hành lấy số liệu khảo sát từ khu vực phía Bắc hoàn toàn
không xuất phát từ việc phủ nhận giá trị thực tiễn của số liệu. Vấn đề ở chỗ, thực tiễn
THTT tại khu vực phía Bắc đã được nghiên cứu, xém xét qua các diễn đ
àn, Hội thảo,
tập huấn, các tài liệu báo cáo chuyên ngành. Cùng với những khó khăn mang tính chất
chủ quan và khách quan của việc thu thập số liệu, thay vì tiến hành lấy khảo từ các cơ
quan THTT ở phía Bắc, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích các số liệu có được từ các bài
viết trên Hội thảo, diễn đàn khoa học và Báo cáo chuyên ngành.
Về lĩnh vực nghiên cứu: trọng tâm nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý luận
và thực tiễn v
ề QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam. Bên
cạnh đó, để có thêm tính thuyết phục cho cơ sở thực tiễn và lý luận của việc đưa ra
các kiến nghị, luận án thực hiện việc phân tích, so sánh với pháp luật tố tụng của một
4
số nước trên thế giới trong lĩnh vực liên quan. Việc lựa chọn hệ thống pháp luật nước
ngoài để so sánh được dựa trên các tiêu chí như tính tương đồng về các điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tính chất điển hình về cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn
của hoạt động TTHS liên quan tới đối tượng nghiên cứu của luận án.
3.2. Đối t
ượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu khoa học là bản chất của sự vật hay hiện tượng cần xem
xét và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu. Đối với luận án, đối tượng nghiên cứu được
xác định là QBC của bị can, bị cáo là người CTN theo quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật một số quốc gia.
4. Những điểm mới của luận án
Luận án đã làm rõ được một s
ố những vấn đề lý luận về QBC của bị can, bị cáo
là người CTN trong TTHS Việt Nam; đánh giá được vai trò của QBC và xác định rõ
những đặc điểm về nội dung và hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người
CTN trong TTHS Việt Nam;
Luận án đã khái quát được pháp luật TTHS Việt Nam về QBC nói chung và của
bị can, bị cáo là người CTN nói riêng và làm rõ được sự hình thành, phát triển của chế
định này trong pháp luật TTHS Việt Nam, rút ra những k
ế thừa cần thiết cho việc tiếp
tục hoàn thiện chế định này;
Luận án đưa ra được những thông tin khoa học về chế định QBC của người bị
buộc tội là người CTN trong pháp luật của Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên
bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đó là những quốc gia đại diện cho các
truyền thống pháp luật khác nhau, đồng thời cũng là những nước mà pháp luật Việt
Nam có những ảnh hưở
ng nhất định. Từ những nghiên cứu đó luận án có những so
sánh và tiếp thu có chọn lọc, từ đó kiến nghị những giải pháp về mặt pháp luật nhằm
hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam;
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận án đã đề xuất được
một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hi
ệu quả việc thực hiện QBC của bị can, bị
cáo là người CTN, đồng thời bảo đảm xác định sự thật của vụ án khách quan, toàn
diện và đầy đủ, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chuyên
sâu về vấn đề QBC của bị can, bị cáo là ngườ
i CTN trong TTHS và các biện pháp bảo
đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN.
Luận án với những phân tích sâu sắc các vấn đề lý luận về thủ tục TTHS đối với
người CTN phạm tội và những khảo sát, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy
5
định pháp luật TTHS về QBC của bị can, bị cáo là người CTN sẽ đóng góp không
nhỏ trước hết cho các nhà lập pháp. Định hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003 và
những kiến nghị cụ thể hoàn thiện các quy định cụ thể của Bộ luật TTHS 2003 liên
quan đến QBC của bị can, bị cáo là người CTN hoàn toàn có thể là các vấn đề mà các
nhà lập pháp có thể nghiên cứu, cân nhắc, xem xét trong quá trình sửa đổi, bổ sung
Bộ luật TTHS 2003.
K
ết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên
cứu chuyên sâu, tài liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động lập pháp TTHS, trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu, giảng dạy về TTHS.
Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu ngoài nước, có những điể
m tương
đồng với pháp luật Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực TTHS. Những quy trình TTHS
đặc biệt đối với người CTN khi tham gia vào VAHS. Những quy định đối với người
THTT là cần phải có kiến thức, sự am hiểu về tâm sinh lý đối với người CTN khi tiến
hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người CTN phạm tội. Tuy nhiên, so với
những quy định về thủ tục TTHS đặc biệt đối vớ
i người CTN, pháp luật nước ngoài
cũng có những điểm ưu việt, nổi trội hơn. Đặc biệt, đa số các quốc gia đều có Tòa án
chuyên trách để xét xử người CTN và xây dựng riêng luật cho người CTN (Law for
parents Counselors). Để có thể đảm bảo cho người CTN thực hiện được đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, pháp luật nước ngoài cũng quy định rất chặt chẽ
các hoạt động củ
a các cơ quan THTT như cơ quan điều tra, viện công tố, tòa án và kể
cả người THTT bằng việc xây dựng các đạo luật riêng cho từng đối tượng cụ thể, như
Đạo luật Thẩm phán Tòa án và Đạo luật Cảnh sát hình sự và Chứng cứ 1984.v.v
Tuy vậy, một cách tổng quan có thể thấy các tài liệu nước ngoài chủ yếu đề cập
đến QCN nói chung và QCN trong TTHS và các quyền này đều có nền tảng từ các
quy định củ
a Công ước châu Âu về QCN. Nhiều vấn đề lý luận quan trọng như làm
thế nào để bảo đảm quyền cơ bản của công dân khi tham gia TTHS, đó là QBC; cơ
chế bảo đảm thực thi QBC theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS ra sao…còn bị bỏ ngỏ
hoặc đã được đề cập ở mức độ nhất định nhưng còn thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất,
chưa đầy đủ. Do vậy,
đa số các công trình chủ yếu phân tích các quy định của pháp
luật thực định, có so sánh với thực tiễn để tìm ra những bất cập, hạn chế về QBC nói
chung và của người CTN riêng trong TTHS.
6
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong nước đã khái quát được các qui
định của pháp luật về thủ tục tố tụng đối với người CTN. Tuy nhiên các công trình
này mới chỉ dừng lại ở mức độ phân tích, so sánh, đánh giá những mặt hạn chế và đạt
được ở từng khía cạnh trong việc áp dụng các qui định của pháp luật đối với người
CTN mà chưa đi sâu phân tích một cách toàn diện các khía cạnh pháp lý. Một trong
những nội dung chưa được đề cập đến nhiều như thủ tục điều tra thân thiện đối với
người CTN chưa được các tác giả tập trung nghiên cứu. Theo đánh giá của các
chuyên gia pháp lý, mặc dù Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực nhưng hệ thống tư pháp
hiện hành đối với người CTN, đặc biệt là trong việc bảo đảm sự bảo vệ và hỗ trợ
đầy
đủ cho người CTN hiện vẫn còn một số khiếm khuyết cả về pháp luật lẫn thực tiễn.
Các nghiên cứu cho biết hệ thống xử lý người CTN vi phạm pháp luật của Việt Nam
còn nặng tính trừng phạt, nếu so sánh với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, thủ
tục điều tra, truy tố, xét xử chưa thực sự phù hợp với nhu cầu bảo vệ đặ
c biệt của
người CTN có liên quan đến hệ thống tư pháp. Việc bảo vệ sự riêng tư của bị can, bị
cáo CTN là một số vấn đề cần quan tâm. Hiện chưa có đội ngũ điều tra viên, kiểm sát
viên, thẩm phán, luật sư, cán bộ TGPL được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp
với người CTN. Kỹ năng điều tra, truy tố, xét xử thân thiện với ng
ười CTN của các
cán bộ THTT còn rất hạn chế. Một nội dung khác cũng chưa được đề cập một cách
chuyên sâu, đó là trong bối cảnh hiện nay, nhất là để thực hiện chủ trương CCTP theo
Nghị quyết 49-NQ/TW, việc xúc tiến thành lập tòa án chuyên trách về người CTN
như trên đã được xác định là rất cần thiết và đây là thời điểm thích hợp. Các TAND
như hiện nay xét xử người CTN vi phạm pháp lu
ật hoặc xét xử các vụ việc nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người CTN khi bị xâm phạm không còn phù hợp đòi
hỏi cần phải có tòa án chuyên trách để xét xử những vụ án liên quan tới người CTN.
Hơn nữa, Nhà nước ta đã sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và đang nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung Luật Tổ chức TAND và các văn bản pháp luật khác có liên quan, đồng
thời triển khai thự
c hiện Nghị quyết 49 về CCTP thì việc tổ chức, thành lập tòa án cho
người CTN là phù hợp với thực tiễn.
Điều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn
nữa để từng bước hoàn thiện quy định pháp luật TTHS trong giải quyết vụ án do
người CTN thực hiện là việc làm cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiệ
n
nay.
2. Mục tiêu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
7
Mục tiêu nghiên cứu có thể hiểu là câu trả lời cho câu hỏi việc thực hiện luận án
để làm cái gì? Với cách tiếp cận này, chúng tôi xác định mục tiêu của luận án là đề
xuất các giải pháp pháp lý hoàn thiện quy định pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là
người CTN, đặc biệt là các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế thực thi
quyền này.
2.2. Cơ sở lý thuyết
2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Nh
ằm làm rõ mục tiêu nghiên cứu của luận án, chúng tôi đặt ra các câu hỏi
nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, có hay không sử ảnh hưởng của lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo
nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến hiệu quả cơ chế đảm bảo thực
thi quyền này?
Thứ hai, những yếu tố nào tạo nên tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người
CTN như chủ thể
đặc biệt tham gia hoạt động tố tụng? Những yếu tố này là bất biến
hay có thể thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống (kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội…)?
Thứ ba, tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt
tham gia tố tụng đã được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong quy định pháp luật về QBC
của các chủ này hay chư
a?
Thứ tư, nếu như quy định pháp luật hiện hành về QBC của bị can, bị cáo là
người CTN đã thể hiện đầy đủ yếu tố đặc thù của các chủ thể này thì việc áp dụng các
quy định này trên thực tiễn diễn ra như thế nào? Có hay không sự sai lệch giữa quy
định pháp luật (tạm gọi - pháp luật trên giấy) và thực tiễn áp dụng? Nếu có sự sai lệch
thì nguyên nhân xuất phát từ
đâu? Việc thiếu quy định pháp luật hay có quy định pháp
luật nhưng tính chất chung chung, khái quát của kỹ thuật lập pháp cho phép người áp
dụng hiểu và vận dụng pháp luật theo cảm quan cá nhân hay không? Sự ảnh hưởng từ
nhận thức, ý thức của người áp dụng pháp luật đến hiệu quả áp dụng pháp luật ở mức
độ nào? Cần có những giải pháp nào để hạn chế sự vi phạm QBC của bị
can, bị cáo là
người CTN?
2.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền với tinh thần
“thượng tôn pháp luật” và đề cao QCN. Các quan điểm của Đảng về CCTP cũng là
cơ sở cho phương pháp luận của luận án.
2.2.3. Các giả thuyết nghiên cứu
8
Trong khả năng nhận định của chúng tôi giả thuyết nghiên cứu có thể xem là
nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu hoặc là câu trả lời sơ bộ, cần
chứng minh, vào câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Theo quan điểm của chúng tôi đặt ra
một giả thuyết sai vẫn còn hơn không đặt ra một giả thuyết nào vì giả thuyết nghiên
cứu sẽ giúp chúng tôi có định hướng rõ hơn trong nghiên cứu. Dựa theo các câu hỏi
nghiên cứu đã được đưa ra, chúng tôi có các giả thuyết nghiên cứu như sau:
Giả thuyết thứ nhất, lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo nói chung và bị can, bị
cáo là người CTN nói riêng có ảnh hưởng đến hiệu quả cơ chế đảm bảo thực thi
quyền này.
Giả thuyết thứ hai, yếu tố tâm, sinh lý là những yếu tố nào tạo nên tính chất đặc
thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia hoạt động tố tụng.
Những yếu tố này có thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống (kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội…).
Giả thuyết thứ ba, tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể
đặc biệt tham gia tố tụng đã chưa được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong quy định pháp
luật về QBC của các chủ này.
Giả thuyết thứ tư, với các nguyên nhân khách quan, chủ quan, việc áp dụng quy
định pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN chưa có tính hiệu quả và cần
phải có những giải pháp để hạn chế sự vi phạm QBC của bị can, bị cáo là người CTN.
2.2.4. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu
Luận án kế thừa (có chọn lọc, phân tích, đánh giá) các kết quả nghiên cứu đã
đượ
c công bố trước đó với mục đích bổ sung, hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan tới đối tượng nghiên cứu của luận án.
Luận án sẽ được thực hiện theo hướng gắn kết chặt chẽ pháp luật với các học
thuyết khoa học cũng như thực tế cuộc sống, thực tiễn áp dụng pháp luật. Cách tiếp
cận này sẽ cho phép đánh giá tính phù h
ợp, tính tương thích của quy định pháp luật
với lý luận và thực tiễn. Kết cấu các chương của luận án phản ánh hướng tiếp cận này.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, việc đánh giá tính phù hợp, tính tương thích
của quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị can, bị cáo là người CTN được tiếp
cận theo hướng không chỉ gói gọn việc nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam.
Như
ng việc tiếp nhận kinh nghiệm nước ngoài nhằm hoàn thiện lý luận cũng như
pháp luật Việt Nam liên quan tới đề tài sẽ theo hướng lấy các yếu tố kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của Việt Nam là căn cứ đánh giá mức độ tiếp thu kinh nghiệm nước
ngoài.
9
Các giải pháp như một trong những kết quả không thể thiếu của đề tài cũng sẽ
được đưa ra theo hướng – có sự phân biệt giải pháp trọng tâm và các giải pháp mang
tính hỗ trợ và có sự đánh giá tính khả thi của việc đưa các giải pháp vào áp dụng.
2.2.5. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Thứ nhất, bổ sung, phát triển lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo là người CTN
phạm tội.
Th
ứ hai, làm rõ mối liên hệ giữa yếu tố tạo nên tính đặc thù của bị can, bị cáo là
người CTN với việc cần thiết hình thành, phát triển chế định QBC cho đối tượng này
cũng như cơ chế đảm bảo thực thi quyền.
Thứ ba, có được những giải pháp pháp lý cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực
thi cơ chế đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người CTN.
2.2.6. Nội dung, k
ết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục và danh
mục tài liệu tham khảo, luận án cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên
Chương 2: Thực trạng quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự
Chương 3: T
ăng cường bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để
làm rõ đối tượng nghiên cứu. Quá trình thực hiện luận án không thể tách rời các
nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp phân tích, so sánh đã được sử dụng khi phân tích nh
ững quy định
của Bộ luật TTHS 2003, kết quả nghiên cứu so sánh còn chỉ ra được những ưu điểm
và hạn chế, bất cập của chúng và so sánh với yêu cầu của CCTP để xác định những
định hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003. Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi
đưa ra những đánh giá về thực trạng của Bộ luật TTHS 2003 liên quan đến QBC của
người CTN phạm t
ội khi tham gia hoạt động TTHS, những kiến nghị hoàn thiện Bộ
luật TTHS 2003. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử của các cơ quan THTT tại một số tỉnh, thành, nghiên cứu hồ sơ, tài
liệu các vụ án làm cơ sở cho việc nghiên cứu. Bên cạnh đó, phương pháp đàm thoại
cũng được tiến hành để trao đổi với các chuyên gia làm công tác thực tiễ
n như thẩm
phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư và những người làm công tác nghiên cứu về
pháp luật TTHS. Phương pháp tiếp cận được thực hiện nhằm làm rõ ý kiến của các
10
đối tượng được hỏi ý kiến về những nội dung cụ thể làm cơ sở cho việc đánh giá, đề
xuất những kiến nghị cụ thể. Như vậy có thể nói luận án được thực hiện trên sự kết
hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.
Phần 3
NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤ
N ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự Việt Nam
Quyền con người, một trong những giá trị quý báu nhất của nhân loại, được ghi
nhận hầu hết ở các văn kiện pháp lý quốc tế, điển hình và nền tảng nhất là Tuyên
ngôn thế giớ
i về QCN như CƯQT về các quyền dân sự và chính trị (1966) và CƯQT
về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966). Bên cạnh việc khẳng định giá trị
QCN, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) cũng nhấn mạnh việc thực hiện các
quyền cơ bản và quyền tự do của con người có thể bị những giới hạn nhất định, do
luật quy định, với mục đích nhằm bảo v
ệ sự thừa nhận các quyền và tự do của người
khác và nhằm đáp ứng các yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng cũng như nhằm đảm
bảo lợi ích chung trong xã hội dân chủ.
Trên cơ sở tiếp thu những điểm tích cực của các quan điểm nêu trên về khái
niệm QBC, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm QBC của bị can, bị cáo là người
CTN trong TTHS Việt Nam như sau:
“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam là tổng thể những hành vi tố tụng mà
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cho phép người đã bị khởi tố về hình sự và người
đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử là người dưới 18 tuổi có thể sử dụng nhằm bác
bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tộ
i, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc làm
sáng tỏ tình tiết về sự vô tội của mình”.
1.2. Vai trò và đặc điểm của quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên
1.2.1. Vai trò quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên
Quyền bào chữa là một quyền lợi đặc thù, cơ bản của công dân, là nguyên tắc
hiến định được tất cả các bản Hiến pháp nước Việt Nam ghi nh
ận. Hiến pháp năm
1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định quyền
tự bào chữa tại Điều 67 “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mướn luật sư”.
11
Sau đó, những bản Hiến pháp tiếp theo đều quy định nội dung này. Cụ thể, tại Hiến
pháp năm 1959 quy định tại Điều 101 như sau: “Quyền bào chữa của người bị cáo
được bảo đảm”. Tiếp đến, Hiến pháp năm 1980 (Điều 133) – Hiến pháp năm 1992
tiếp tục khẳng định QBC được bảo đảm. Tại Điều 132 – Hiến pháp năm 1992 quy
định: “Quy
ền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các
đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa”. Kế thừa các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ hơn về QBC của công dân. T
ại khoản 4, Điều 31 Hiến pháp 2013 đã quy định
rất cụ thể: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền
tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Như vậy, có thể
thấy Hiến pháp mới đã mở rộng phạm vi các đối tượng được đảm bảo QBC, không
chỉ bị cáo mới có QBC như các Hiến pháp cũ quy định, mà ngay từ khi một người bị
bắt đã phát sinh quyền tự bào chữa, hoặc nhờ luật sư bào chữa đối với họ, được đảm
bảo bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Điều này cũng hoàn toàn
phù hợp, thể chế hóa ở một mức độ cao hơn đối với các quy định về đả
m bảo QBC
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Bộ luật TTHS 2003. Cụ thể tại các Điều 48, 49,
50 Bộ luật TTHS đều quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền: “tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Đồng thời được cụ thể hóa tại Thông tư 70/TT-
BCA ngày 10-10-2011 về đảm bảo QBC trong giai đoạn điều tra VAHS.
Điều 4 của
Thông tư quy định: “Khi giao quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ, quyết định
khởi tố cho bị can, Điều tra viên phải đọc và giải thích cho họ biết rõ về quyền, nghĩa
vụ của người bị tạm giữ, bị can theo quy định tại Điều 48, 49 Bộ luật tố tụng hình sự
và lập biên bản giao nhận quyết
định. Trong biên bản phải ghi rõ ý kiến của người bị
tạm giữ, bị can về việc có nhờ người bào chữa hay không”. Trong trường hợp họ có
yêu cầu nhờ NBC thì điều tra viên có trách nhiệm hướng dẫn họ viết giấy yêu cầu và
gửi tới cơ quan, tổ chức, người được yêu cầu bào chữa theo hướng dẫn tại Điều này.
Trong trường hợp họ chưa nhờ NBC, thì trong l
ần đầu lấy lời khai người bị tạm giữ,
hỏi cung bị can, điều tra viên tiếp tục phải hỏi rõ họ về việc có nhờ NBC không và
phải ghi ý kiến của họ vào biên bản, nếu họ nhờ NBC thì thực hiện như trên.
1.2.2 . Đặc điểm về nội dung, hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị
can, bị cáo chưa thành niên
1.2.2.1 Đặc đ
iểm về nội dung
Mở rộng QCN tức là quyền tố tụng của người CTN so với người thành niên. Bị
can, bị cáo là người CTN có đầy đủ các quyền tố tụng như bị can, bị cáo là người
12
thành niên. Bên cạnh đó, họ còn được thừa nhận những quyền tố tụng đặc thù để có
thể bảo vệ một cách tốt nhất, thuận lợi nhất lợi ích chính đáng của mình.
Mở rộng những bảo đảm QCN của họ trong hoạt động TTHS. Một trong những
bảo đảm quan trọng QCN của đối tượng này là những quy định, trình tự, điều kiện
riêng hoặ
c có tính chất bổ sung khi thực hiện những hành vi tố tụng đối với họ. Kết
quả là hình thành thủ tục tố tụng đặc biệt dành cho đối tượng này, được xây dựng trên
cơ sở những đặc thù về tâm sinh lý của họ, trên cơ sở yêu cầu đảm bảo QCN của họ
cao hơn so với đối tượng là người thành niên. Những thủ tục đặc biệt này đặt ra
những yêu c
ầu cao hơn, chặt chẽ hơn về nghĩa vụ tố tụng của các cơ quan THTT
trong quan hệ với bị can, bị cáo là người CTN, và thuận lợi hơn, hỗ trợ nhiều hơn cho
họ trong việc sử dụng các quyền tố tụng của mình, hạn chế nhiều hơn những tác động
tiêu cực có thể có đối với quá trình giải quyết vụ án.
1.2.2.1 .Các hình thức thực hiệ
n quyền bào chữa
Về quyền tự bào chữa
Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù được pháp luật ghi nhận và bảo đảm
cho phép bị can, bị cáo tự thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm minh
oan, bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ TNHS của mình. Tự bào chữa là một trong
những hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo và là nộ
i dung quan trọng của QBC
trong TTHS. Pháp luật cho phép họ được tự mình thực hiện các hành vi tố tụng, như
dùng lý lẽ đưa ra chứng cứ và những yêu cầu có lợi cho mình khi tham gia tố tụng mà
không nhất thiết phải có sự tham gia của NBC.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi có thể đưa ra khái niệm tự bào chữa cho
bị can, bị cáo là người CTN như sau:“ Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù
được pháp luật ghi nhận và b
ảo đảm cho phép bị can, bị cáo là người chưa thành
niên tự mình có thể thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm bác bỏ sự
buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình”.
Về quyền nhờ người khác bào chữa
Quyền nhờ người khác bào chữa là hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sư hay
những người khác theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ
cho bị can, bị cáo thực
hiện QBC của mình khi họ không đủ khả năng tự mình thực hiện hoặc trong những
trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có NBC nhằm bảo đảm tính khách quan
và tính hợp pháp của các hoạt động TTHS. Quyền nhờ người khác bào chữa là một
phần QBC và là một đảm bảo quan trọng để bị can, bị cáo thực hiện các quyền tố tụng
khác mà pháp luật quy đị
nh để bào chữa trước sự buộc tội của cơ quan THTT.
13
1.2.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo CTN trong
TTHS
1.2.3.1. Bảo đảm về mặt pháp lý
Xuất phát từ yêu cầu về tương đồng của pháp luật Việt Nam với các điều ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia. Việt Nam là nước châu Á đầu tiên và là nước thứ hai
trên thế giới tham gia ký và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em
(20/02/1990) ngay sau khi ký Công ước được mở
cho các nước ký kết. Công ước về
quyền trẻ em của Liên hợp quốc đã thể hiện sự quan tâm của cả nhân loại đối với trẻ
em nói chung và người CTN nói riêng. Để đảm bảo các quyền của trẻ em, Việt Nam
đã ban hành các văn bản pháp luật, luật liên quan tới quyền trẻ em. Các quy định của
pháp luật Việt Nam về thủ tục TTHS đối với người CTN mặc dù chưa được đầ
y đủ
nhưng cũng đã thể hiện rõ chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối với người
CTN. Ngay từ khi xây dựng Bộ luật TTHS đầu tiên (1989), chúng ta đã dành một
chương riêng quy định về thủ tục đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người
CTN. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, các quy định này càng ngày càng hoàn thiện
hơn.
1.2.3.2.Bảo đảm về tổ chức
Trách nhiệm củ
a Cơ quan điều tra
Với nhiệm vụ điều tra vụ án, CQĐT đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình
giải quyết vụ án. Có thể nói, phân nửa kết quả của việc giải quyết vụ án nằm ở giai
đoạn điều tra. Chính vì vậy, bất cứ một sai phạm nào từ hoạt động của CQĐT cũng
làm ảnh hưởng trực tiếp đến số phậ
n pháp lý của bị can, bị cáo. Thêm vào đó, kết quả
từ hoạt động của CQĐT sẽ là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định truy tố hay không bị
can ra trước Tòa án và là cơ sở để Tòa án xem xét làm căn cứ khi xét xử đối với bị
cáo. Do đó, hơn lúc nào hết quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo phải được
bảo đảm ngay từ giai đoạn đi
ều tra. Trách nhiệm bảo đảm QBC trong giai đoạn điều
tra chủ yếu thuộc về CQĐT. Để bảo đảm QBC, CQĐT phải tạo những điều kiện cho
bị can tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác thực hiện QBC, đặc biệt là đối với
người CTN.
Trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát
Trách nhiệm của cơ quan THTT trong đó có Viện kiểm sát đảm b
ảo cho bị can,
bị cáo nói chung thực hiện QBC là một bộ phận hợp thành nội dung của nguyên tắc
bảo đảm QBC của bị can, bị cáo. Viện kiểm sát phải tạo những khả năng thực tế,
những điều kiện cần thiết và những biện pháp do pháp luật quy định để bị can, bị cáo
14
là người CTN có thể hưởng những quyền mà pháp luật quy định cho họ; đồng thời tạo
điều kiện cho NBC có thể tham gia tích cực vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể đặc biệt này. Thêm vào đó, bằng chức năng, hoạt động của
mình, Viện kiểm sát phải ngăn ngừa, hạn chế và xử lý kịp thời các hành vi gây cản trở
hoặc xâm hại
đến QBC của bị can, bị cáo là người CTN. Trách nhiệm của Viện kiểm
sát thể hiện qua các hoạt động của kiểm sát viên. Kiểm sát viên trong VAHS vừa thực
hiện chức năng buộc tội, vừa thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động TTHS. Chính vì lẽ đó, kiểm sát viên phải rất khách quan và thận
trọng trong hoạt động của mình. Trong các giai đoạn TTHS từ khởi tố, đ
iều tra, xét xử
có nhiều chủ thể tham gia vào mỗi giai đoạn cụ thể, trong đó Viện kiểm sát là cơ quan
duy nhất tham gia trong tất cả các giai đoạn của TTHS. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát
trong việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN được thể hiện ở những hoạt
động sau: kiểm sát việc khởi tố, điều tra và áp dụng các biện pháp ngăn chặ
n của các
cơ quan THTT; đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong giai đoạn hồ sơ
chuyển sang Viện kiểm sát và giai đoạn xét xử.
Trách nhiệm của cơ quan Tòa án
Tòa án có nghĩa vụ phải bảo đảm QBC cho bị cáo là người CTN theo những nội
dung sau: Tòa án có nghĩa vụ giải thích cho bị cáo các quyền và nghĩa vụ của họ; Tòa
án bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa và nh
ờ người khác bào chữa.
Theo khoản 2 Điều 217 Bộ luật TTHS quy định: “Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu
bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ
sung ý kiến bào chữa”. Hoạt động tranh tụng trong TTHS là một quy định mang tính
dân chủ; Tòa án đảm bảo cho bị cáo đưa ra chứng cứ và những yêu cầu; Tòa án bảo
đảm cho bị cáo nói lời sau cùng.
Vì vậy, khi thực hiện chức năng, nhi
ệm vụ của mình, cơ quan THTT phải chú
trọng thực hiện hai nhiệm vụ: bảo vệ sự thật, bảo vệ pháp luật; bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN. Chính các biện pháp bảo đảm QBC
của bị can, bị cáo là người CTN sẽ tạo điều kiện cho cơ quan THTT, người THTT,
người tham gia tố tụng phát huy được năng lực trí tuệ của mình, làm cho hoạ
t động tố
tụng thực sự khách quan, công bằng trên cơ sở tôn trọng các quyền cơ bản của người
CTN.
1.2.3.3. Bảo đảm về mặt nhận thức
Với nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; những tình tiết tăng
nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệ
m của bị can, bị cáo CTN, bảo vệ kỷ cương pháp
15
luật song song với việc phát huy tính dân chủ, thì trách nhiệm của cơ quan THTT một
mặt phải nghiêm chỉnh tuân thủ, tránh tình trạng vi phạm pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án, một mặt phải bảo đảm đúng pháp luật, tránh mọi sai lầm có thể ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo CTN. Do vậy, việc góp phần
cùng cơ quan THTT xác định sự thật khách quan trong vụ án của NBC là cần thiế
t.
Đó không phải là gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử như một số người
THTT thường nghĩ. Khi giải quyết VAHS, cơ quan THTT phải nhận thức rằng:
-Là người trực tiếp giải quyết VAHS, hơn ai hết người THTT phải am hiểu thấu
đáo những quy định của pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN. Họ có
nghĩa vụ phải giải thích cho bị can, bị
cáo là người CTN hiểu rõ QBC, đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi để những chủ thể này và NBC thực hiện QBC. Muốn vậy, ngoài
việc nâng cao năng lực chuyên môn những người THTT phải có ý thức tuân thủ và
nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn về vấn đề này;
-Sự tham gia của NBC là yếu tố khách quan để vụ án giải quyết được đúng đắn.
NBC có vai trò quan trọng trong việc đưa ra nh
ững chứng cứ và đánh giá chúng giúp
cơ quan THTT tránh được thiếu sót đáng tiếc có thể xảy ra khi giải quyết vụ án. Về
phía NBC, họ là những người am hiểu pháp luật cùng với việc tham gia tố tụng để
bảo vệ bị can, bị cáo là người CTN họ còn có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật vì thế, hơn ai
hết, NBC nhận thức rất đầy đủ về vấn đề này. Bảo vệ
bị can, bị cáo là người CTN
không có nghĩa là giúp họ lẩn tránh hoặc thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật đối
với hành vi phạm tội mà bị can, bị cáo là người CTN đã gây ra, mà phải trên cơ sở
của pháp luật bảo đảm nguyên tắc không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Cùng với trình độ chuyên môn và kiến thức pháp luật, kỹ năng bào chữa thành thạo
với tinh thần trách nhiệm đạ
o đức nghề nghiệp, khi đã nhận thức đúng đắn bản chất
của việc bào chữa thì chắc chắn NBC sẽ thành công trong việc bào chữa và giúp bị
can, bị cáo là người CTN thực hiện tốt hơn QBC của họ.
Việc tham gia tố tụng của NBC không chỉ bảo vệ bị can, bị cáo mà còn là một
hình thức giám sát việc thực thi pháp luật của cơ quan THTT. Sự có mặt của NBC
trong một số
trường hợp góp phần vào việc phòng chống các hiện tượng bức cung,
nhục hình đối với bị can. Khi tham gia tố tụng, bị can, bị cáo thường cho rằng đối với
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán thì họ chỉ là người phạm tội do vậy, cho dù họ
có thanh minh hay giải thích gì thì cũng chỉ là vô ích mà thôi. NBC tham gia giúp bị
can, bị cáo nhận thức đúng đắn hơn nữa QBC của mình.
Việc nhận thức đúng QBC của b
ị can, bị cáo CTN còn giúp nhân dân có khả
năng giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan và người THTT. Khi phát hiện
16
việc làm trái pháp luật của những cơ quan và những người nói trên, họ có quyền khiếu
nại hoặc tố cáo với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
1.3. Quyền bào chữa của người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự
nước ngoài
1.3.1 .Trong tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp
- Vấn đề tuổi chịu TNHS: tuổi chịu TNHS là một nội dung gây tranh cãi rất
nhiều trong giới luậ
t gia. Theo các Điều 2, Điều 15-1, Điều 20-2 và 20-9 sắc lệnh số
45 – 174 ngày 02 tháng 2 năm 1945 và Điều 128 mục 8 BLHS Cộng hòa Pháp: luật
hình sự không xác định cụ thể tuổi chịu TNHS, mà căn cứ vào năng lực nhận thức của
chủ thể (la capacite du discernement) khi thực hiện hành vi để xác định người đó có
phạm tội hay không. Chính vì vậy mà trẻ vị thành niên 10 tuổi, thậm chí dưới 10 tuổi
có thể bị coi là tộ
i phạm nếu bản thân họ được đánh giá là có thể nhận thức được
đúng, sai, về hành vi mà họ đã thực hiện. Tuy nhiên, chỉ những người từ đủ 13 tuổi
trở lên mới có thể bị áp dụng những biện pháp có tính chất trấn áp: như bị tạm giữ, bị
tạm giam, hoặc bị tuyên một hình phạt.
1.3.2. Trong tố tụng hình sự Hoa Kỳ
Trong pháp luật Hoa Kỳ, định ngh
ĩa về người CTN là rất khác nhau giữa các
tiểu bang. Nhưng trong hầu hết các tiểu bang, District of Columbia, và trong tất cả các
huyện liên bang, thì bất kỳ người nào dưới 18 tuổi được coi là người CTN. Trong một
số tiểu bang khác như New York, Connecticut và North Carolina, một người CTN là
độ tuổi từ 16 tuổi hoặc ít hơn, và trong Georgia, Illinois, Louisiana, Massachusetts,
Michigan, Missouri, New Hampshire, South Carolina, Texas và Wisconsin thì người
đủ 17 tuổi hoặc ít hơn thì được coi là người CTN.
- QBC của bị can là người CTN trong giai đoạn điều tra: pháp luật TTHS củ
a
Hoa Kỳ quy định rất rõ ràng các trình tự khi bắt giữ, tạm giam một người CTN. Trong
quá trình tiếp nhận điều tra, người CTN phạm tội có các quyền như sau: quyền được
đọc lời cảnh báo Miranda; quyền từ chối trả lời cảnh sát khi chưa có cha mẹ hoặc luật
sư (quyền im lặng); quyền được tham khảo với một luật sư và có một luật sư trước khi
bắt
đầu cuộc thẩm vấn chính thức; quyền được gọi cho cha mẹ khi bị tạm giữ; quyền
được cử luật sư để đại diện (đây là một quyền Hiến định).
- QBC của bị cáo là người CTN trong hoạt động xét xử. Cũng giống như Cộng
hòa Pháp, khi bị cáo là người CTN bị đưa ra xét xử trước Tòa án vị thành niên thì sự
tham gia của luật sư để bào chữa cho bị cáo là b
ắt buộc.
17
1.3.3. Trong tố tụng hình sự Liên Bang Nga
Khi nghiên cứu Bộ luật TTHS Liên Bang Nga, chúng tôi nhận thấy có nhiều nét
tương đồng giữa Bộ luật TTHS Liên Bang Nga và Bộ luật TTHS Việt Nam. Bộ luật
TTHS Liên Bang Nga đã dành hẳn một chương riêng là Chương XVI (phần thứ 4)
quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt đối với vụ án do người CTN thực hiện. Tuy
nhiên, Điều 391 Bộ luật TTHS Liên Bang Nga quy định thủ tục c
ủa Chương XVI
được áp dụng đối với các vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi tại thời điểm
thực hiện tội phạm mà không quy định độ tuổi tối thiểu phải chịu TNHS.
Để có cơ sở thực hiện chức năng gỡ tội và tham gia tranh tụng giữa các bên
trong hoạt động TTHS, Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên Bang Nga (Đuma Cộng hòa
Liên Bang Nga thông qua ngày 22-11-2001) có các quy định nhằm bảo đả
m quyền tố
tụng của bên bào chữa như: quyền được biết những cáo buộc; quyền được biết những
hoạt động tố tụng có liên quan đang diễn ra; quyền được đưa ra yêu cầu; quyền được
bào chữa và quyền được khiếu nại đối với các quyết định tố tụng.
1.3.4 .Trong tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
- Vấn đề tuổi chịu TNHS: theo pháp luật Trung Hoa thì độ
tuổi chịu TNHS từ 14
tuổi trở lên. Pháp luật Trung Hoa cũng đề cập đến vấn đề người CTN nhưng đề cập
rất ít và không quy định thành một chương riêng như của Việt Nam và một số nước
trên thế giới. Về chế định hình phạt đối với người CTN, pháp luật hình sự của Trung
Hoa cũng có quy định giống như pháp luật hình sự Việt Nam là “không được áp dụng
hình ph
ạt tử hình đối với người chưa thành niên dưới 18 tuổi”.
- Về QBC, cũng như các nước trên thế giới, pháp luật TTHS Trung Hoa quy
định về QBC như sau: “Ngoài quyền tự bào chữa, bị can, bị cáo có thể chọn một hoặc
hai người làm người bào chữa. Những người sau đây có thể được chọn là người bào
chữa: luật sư, người do tổ chức hoặc đơn vị công tác của bị cáo đề
nghị, người giám
hộ hoặc họ hàng và bạn bè của bị can, bị cáo. Người đang chấp hành hình phạt hoặc
người mà quyền tự do cá nhân bị tước đoạt hoặc hạn chế theo luật không được làm
người bào chữa” (Điều 32 Bộ luật TTHS Trung Hoa). Về NBC, pháp luật TTHS
Trung Hoa đưa ra một khái niệm rộng hơn khái niệm NBC của pháp luật TTHS Việt
Nam, họ có thể là luật sư, ng
ười do tổ chức hoặc đơn vị công tác của chính bị cáo đề
nghị, người giám hộ hoặc họ hàng, bạn bè của bị cáo…Trong khi đó, NBC trong
TTHS của Việt Nam là luật sư, BCVND, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo.
18
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là người chưa thành niên
2.1.1. Quy định của pháp luật TTHS về quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là người chưa thành niên trước khi pháp điển hóa luật TTHS (năm 1988)
Trong pháp luật TTHS Việt Nam, nh
ững bảo đảm pháp lý về QBC của người
CTN luôn gắn liền với những quy định pháp luật liên quan đến chế định về QBC của
bị can, bị cáo nói chung. Chính vì vậy, việc tìm hiểu những quy định của pháp luật
TTHS về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam không thể tách
rời quá trình hình thành và phát triển chế định về QBC nói chung. Trong phần này,
việc nghiên cứu được bắt đầu với thời điểm l
ịch sử của việc ra đời nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa vào năm 1946. Đây là thời điểm chấm dứt sự tồn tại của chế độ
quân chủ chuyên chế qua nhiều thế kỷ, đồng thời đánh dấu sự khởi đầu của quá trình
hình thành và phát triển của toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam trong một thể chế
mới.
2.1.2. Quy định của pháp lu
ật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị
can, bị cáo là người chưa thành niên theo Bộ luật tố tụng hình sự 1988
2.1.3 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị
can, bị cáo là người chưa thành niên theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
2.2 Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên trong t
ố tụng hình sự
Để đánh giá việc thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS có
căn cứ và cơ sở khoa học nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế bảo đảm QBC của bị can,
bị cáo là người CTN trong TTHS, công việc quan trọng là chúng ta phải dựa trên cơ
sở tổng kết, xem xét, nghiên cứu những vấn đề thực tiễn đặt ra để điều chỉnh, bổ sung,
hoàn thiệ
n lý luận. Bởi lẽ, thực tiễn là công cụ kiểm nghiệm chính xác nhất, là sự
phản hồi hiệu quả của lý luận. Trong phạm vi đề tài chỉ đặt ra nghiên cứu về QBC của
bị can, bị cáo là người CTN dưới góc độ TTHS. Vì vậy, đề tài phân tích kết quả của
thực tiễn bảo đảm QBC của các chủ thể nêu trên thời gian qua trên cơ sở thực tế tình
hình thực hiện QBC và áp dụng pháp lu
ật. Từ thực tế tình hình người CTN phạm tội,
năng lực của cơ quan, người THTT, NBC, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với
19
bị can, bị cáo là người CTN, đối chiếu với những quy định của pháp luật TTHS hiện
hành để chỉ ra những vướng mắc, bất cập cần được giải quyết.
Mặc dù những quy định trong Bộ luật TTHS hiện hành đã phản ánh được tinh
thần bảo vệ quyền trẻ em đối với trường hợp người CTN phạm tội. Tuy nhiên, qua
những phân tích trên cho thấy được những hạ
n chế trong các quy định của Bộ luật
TTHS phần nào ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật, gây cản trở và khó khăn cho
việc bào chữa, đồng thời không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo
là người CTN trong TTHS. Việc nhận biết những thiếu sót này có ý nghĩa quan trọng
trong việc đánh giá hiệu quả áp dụng của các quy phạm pháp luật, để từ đó đề xuất
những hướng sửa đổi, bổ sung phù hợp.
CHƯƠNG 3
TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
3.1 Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa trong cải cách tư pháp và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.1.1 Yêu cầu nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo là người chư
a thành niên ở Việt Nam hiện nay
Hiến pháp 2013 đã khẳng định Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân (Điều
2). Có thể nói cùng với sự khẳng định xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta, vấn
đề QCN đã được nâng lên tầm cao mới. Về mặt nhận thức chỉ đến năm 1994 tại Hội
nghị đại biểu toàn quốc c
ủa Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII khái niệm “Nhà nước pháp
quyền” mới chính thức được nêu lên. Hiện nay trong khoa học pháp lý thế giới và ở
nước ta còn nhiều quan điểm khác nhau xung quanh các dấu hiệu đặc trưng của nhà
nước pháp quyền. Có thể thấy rằng bên cạnh một số khác biệt thì điểm giống nhau
giữa các quan điểm này vẫn là sự khẳng định một trong nhữ
ng dấu hiệu đặc trưng của
nhà nước pháp quyền là vấn đề tôn trọng và bảo đảm toàn diện QCN, quyền công dân.
Tư tưởng hòa hợp giữa lợi ích cá nhân và nhà nước là một trong những nội dung của
học thuyết về nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền hiện nay là nấc thang phát
triển cao nhất của tự do và là sự phản ánh của tự do trong các văn bản pháp lý. Nhà
nước pháp quyền là hình thức hạn chế
quyền lực bằng tự do và QCN. Tự do và quyền
của cá nhân là đối trọng quan trọng của quyền lực nhà nước. Vì vậy, tính ưu tiên của
QCN trong quan hệ với nhà nước là nền tảng để xác định những dấu hiệu tiếp theo
của nhà nước pháp quyền. Căn cứ vào những đặc trưng đó của Nhà nước pháp quyền,
có thể thấy nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay là ph
ải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
20
hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Do đó, yêu cầu “cải cách tổ
chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp” là một trong
những đòi hỏi bức xúc hiện nay, là một đòi hỏi tự thân của nền công lý và dân chủ
XHCN ở nước ta.
3.1.2 Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên đáp ứng yêu cầu hội nh
ập quốc tế
Mặc dù những quy định trong Bộ luật TTHS hiện hành đã phản ánh được tinh
thần bảo vệ quyền trẻ em đối với trường hợp người CTN phạm tội. Tuy nhiên, khi đi
vào thực tiễn hoạt động cho thấy những quy định này còn có những bất cập, vướng
mắc, hạn chế như đã phân tích ở phần thực trạng bảo đảm QBC của bị
can, bị cáo là
người CTN tại Chương II của Luận án. Bên cạnh đó, đất nước ta đã có hàng loạt thay
đổi sâu sắc về nhiều mặt. Chúng ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
hội nhập sâu vào quan hệ quốc tế như tham gia các CƯQT, đặc biệt là Công ước về
quyền trẻ em - một văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyề
n trẻ
em trong thời điểm hiện nay. Những chuẩn mực quốc tế trong các điều ước quốc tế
mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc sẽ tham gia ký kết trong tương lai là những yêu
cầu khách quan đòi hỏi tăng cường sự bảo đảm QCN trong TTHS. Điều này hoàn
toàn phù hợp với tư tưởng chủ đạo trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về CCTP
trong lĩnh vực TTHS là “cải cách m
ạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng
dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự
tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, bảo đảm chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa án làm căn cứ quan
trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạ
t
động tư pháp…”. Đặc biệt, chính sách dân chủ trong hoạt động tố tụng của Đảng
ngày càng được mở rộng từ khâu điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án cùng hàng
loạt yêu cầu khác về CCTP mà Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đã đặt ra.
3.2. Một số giải pháp
3.2.1 Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến quyền bào
chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Thứ
nhất, về điều tra, truy tố và xét xử. Chúng ta cần phải có những hoạt động
hệ thống, củng cố lại các quy phạm pháp luật và cơ chế thực hiện QBC của bị can, bị
cáo là người CTN đang tồn tại để phát hiện những cản trở, thiếu sót đang tồn tại mà
tìm ra giải pháp khắc phục kịp thời, như xác định những văn bản pháp luậ
t hiện hành
trong đó có quy định những thủ tục, quy trình tố tụng, yêu cầu về chứng cứ, hoặc
trách nhiệm báo cáo có thể gây khó khăn hoặc cản trở thái quá cho những trẻ em là
21
người CTN vi phạm pháp luật; rà soát lại công tác điều tra hiện tại, các chính sách
quản lý trường hợp và báo cáo trường hợp để đảm bảo rằng các hoạt động và chính
sách này được xây dựng, hướng dẫn rõ ràng và thiết thực về phương pháp tiến hành
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo hướng nhạy cảm đối với các chủ thể này,
và sửa đổi những chính sách đó nếu cần thiế
t;
Thứ nhì, về trình tự, thủ tục tham gia tố tụng của NBC. Để thực hiện tốt nhiệm
vụ đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như nhằm bảo đảm QBC của bị can, bị cáo
nói chung, có thể nói rằng, Bộ luật TTHS 2003 và Luật Luật sư đã tạo ra một cơ chế
pháp lý tương đối hoàn chỉnh bảo đảm việc tham gia tố tụng của NBC một cách th
ực
chất và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để cơ chế pháp lý đó thực sự đi vào cuộc sống và
phát huy tích cực hiệu quả của nó, trên cơ sở phân tích thực trạng và nguyên nhân của
sự vi phạm các bảo đảm, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau:
3.2.2 Các giải pháp về tổ chức
3.2.3 Các giải pháp khác
KẾT LUẬN
Hiện nay, QCN luôn được cộng đồng quốc tế và mỗi qu
ốc gia coi trọng và xem
đó như một thành tựu của nền văn minh và là thước đo của sự tiến bộ xã hội. Vì vậy,
nghiên cứu về QCN trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xây dựng các cơ chế đảm
bảo QCN là đòi hỏi thiết yếu của các ngành khoa học, trong đó có khoa học TTHS.
Trong bất kỳ mô hình tố tụng và ở bất kỳ quốc gia nào, việc giải quy
ết hài hòa nhiệm
vụ đấu tranh phòng chống tội phạm đồng thời phải tôn trọng và bảo vệ QCN, trong đó
có quyền của những người bị buộc tội, bảo đảm không làm oan người vô tội luôn
được xác định là nhiệm vụ của TTHS. Đặc biệt, khi người bị buộc tội lại là người
CTN, chưa phát triển đầy đủ thể chất, tinh thần để có thể, cần được TGPL thì vi
ệc quy
định và bảo đảm thực hiện QBC cho họ càng cần được quan tâm nghiên cứu.
Pháp luật TTHS Việt Nam đã có những quy định về QBC của bị can, bị cáo là
người CTN. Những quy định đó là tương đối đầy đủ và hợp lý, tuy nhiên vẫn còn có
những bất cập nhất định, không thực sự đáp ứng được yêu cầu của CCTP theo hướng
tăng cường tranh tụng, tăng cường việc bả
o đảm QCN trong TTHS.
Thực tiễn TTHS cho thấy, việc quy định và bảo đảm QBC ở Việt Nam còn
nhiều hạn chế, vướng mắc. Việc xác định rõ những hạn chế, vướng mắc nêu trên và
làm rõ nguyên nhân của những hạn chế vướng mắc đó, trên cơ sở đó đề xuất được
những giải pháp khắc phục dù đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở
phạm vi và mức độ
khác nhau nhưng vẫn rất cần được tiếp tục nghiên cứu, đặc biệt là
22
trong giai đoạn hiện nay, khi Hiến pháp năm 2013 đã xác định nguyên tắc tranh tụng
là nguyên tắc trong hoạt động xét xử của tòa án và xác định QBC là một trong các
QCN, quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, trong khuôn khổ luận án Tiến sĩ tác giả
không thể giải quyết một cách toàn diện tất cả những vấn đề liên quan đến QBC nói
chung. Dưới góc độ Luật TTHS và xuất phát từ phạm vi, mục tiêu nghiên cứu, luận
án đã gi
ải quyết được những vấn đề cụ thể như sau:
1. Luận án đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về QBC của bị can, bị
cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam; đánh giá được vai trò của QBC và xác định
rõ những đặc điểm về nội dung và hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo là
người CTN trong TTHS Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề
lý
luận và thực tiễn cũng như nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải tôn trọng và bảo
đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong quá trình giải quyết VAHS đòi hỏi
phải có sự thay đổi một cách toàn diện cả về mặt lập pháp lẫn mặt nhận thức.
2. Luận án đã khái quát được pháp luật TTHS Việt Nam về QBC nói chung và
của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng và làm rõ được s
ự hình thành, phát triển của
chế định này trong pháp luật TTHS Việt Nam, rút ra những kế thừa cần thiết cho việc
tiếp tục hoàn thiện chế định này.
3. Luận án đưa ra được những thông tin khoa học về chế định QBC của người
bị buộc tội là người CTN trong pháp luật Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên
bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đó là những quốc gia đại diện cho các
truyền thống pháp luật khác nhau, đồng thờ
i cũng là những nước mà pháp luật Việt
Nam có những ảnh hưởng nhất định. Từ những nghiên cứu đó luận án có những so
sánh và tiếp thu có chọn lọc, từ đó kiến nghị những giải pháp về mặt pháp luật nhằm
hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam.
4. Luận án đã phân tích được thực trạng pháp luật Việt Nam về QBC của bị
can, bị cáo là người CTN và làm rõ những bất cập trong quy định của pháp luật về
vấn đề này. Với những số liệu thống kê cụ thể, kết quả khảo sát và kết quả điều tra xã
hội học, về QBC của bị can, bị cáo là người CTN, luận án đã làm rõ thực trạng thực
hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN ở Việt Nam trong những năm gần đây, từ
đó đánh giá những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và xác định được
nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó.
5. Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc
biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Một
phần quan trọ
ng trong sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý đó là những quy định trong
trường hợp trẻ em làm trái pháp luật hoặc có liên quan đến hoạt động của các cơ quan
23
pháp luật. Nội dung chủ đạo của tư duy lập pháp này có thể tóm tắt ở yêu cầu phải mở
rộng QCN của bị can, bị cáo là người CTN như là những bổ sung cần thiết so với
người đã thành niên. Từ đó xuất hiện sự cần thiết phải thay đổi bản thân tiến trình
TTHS và những thủ tục tố tụng của nó theo hướng là những thủ tục tố t
ụng chuyên
biệt hóa để phù hợp với yêu cầu bảo đảm cao hơn QCN của đối tượng này.
6. Với quyết tâm xây dựng một môi trường an toàn, mang tính bảo vệ cho trẻ
em, phù hợp với các chuẩn mực và hướng dẫn của quốc tế cũng như hệ thống pháp
luật và truyền thống văn hóa của Việt Nam. Từ năm 1985, Liên hợp quốc đã thông
qua nhiều văn kiện c
ần được tham khảo khi cân nhắc vấn đề thành lập Tòa chuyên
trách đối với người CTN ở Việt Nam. Giá trị của những văn bản kiện này là ở chỗ nó
không chỉ bó hẹp ở những khía cạnh đặc thù trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc
gia mà còn tạo nên một tập hợp những quy phạm mang tính chuẩn mực tối thiểu mà
mỗi quốc gia đều có thể vận dụng vào hoàn cả
nh riêng của mình. Trước tình hình tội
phạm do người CTN thực hiện diễn biến rất phức tạp và gia tăng năm sau cao hơn
năm trước. Tình hình nêu trên đòi hỏi một mặt phải giải quyết nhanh các vụ án, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người CTN phạm pháp lẫn người CTN là người bị hại,
nhân chứng…Ngoài ra, hàng năm có tới 12 – 16 ngàn người CTN phạm tội, trong đó
có 4.000 – 5.000 vụ phải đư
a ra xét xử tại tòa án, mặt khác cũng có hàng ngàn vụ xâm
hại trẻ em, nhất là xâm hại tình dục, bạo lực đối với trẻ em cũng phải đưa ra xét xử tại
tòa án.
Từ thực tế nêu trên chúng tôi đề xuất việc thành lập Tòa chuyên trách cho người
CTN là một giải pháp có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Việc thành lập Tòa án chuyên
trách đối với người CTN ở Việt Nam là cụ thể hóa đường lối Đảng và Nhà nước về
chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người CTN vi phạm pháp luật
nói riêng. Việc thành lập Tòa chuyên trách đối với người CTN là phù hợp với Chiến
lược CCTP đến năm 2020, trong đó có việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án,
xây dựng thêm các tòa chuyên trách, xây dựng một đội ngũ thẩm phán chuyên trách
trong lĩnh vực xét xử.
7. Luận án đã nghiên cứu và phân tích những quy định của pháp luật TTHS đối
với việc thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN và những yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng thực thi pháp luật TTHS. Những yếu tố này cũng là nguyên nhân cơ bản
làm cho pháp luật chưa được thực thi trên thực tế sau hơn 10 năm có hiệu lực. Đó là
những hạn chế, vướng mắc của những quy định pháp luật, một số quy định về trình tự
TTHS chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất, những hạn chế
về trách nhiệm giữa các cơ quan và người THTT, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan,
24
người THTT, là năng lực thực thi và sự hạn chế về mặt nhận thức của một bộ phận
những người THTT…Những bất cập, hạn chế, vướng mắc vừa nêu trên đã ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan THTT trong việc giải quyết các VAHS, chưa
đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật do
người CTN gây ra nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp
của người CTN phạm tội trong tình hình mới.
8. Trên cơ sở vận dụng các quan điểm của phép duy vật biện chứng, sử dụng
các phương pháp so sánh luật học, nghiên cứu tổng hợp, phân tích…luận án đã cơ bản
giải quyết được các vấn đề lý luận về bản chất pháp lý của nh
ững quy định pháp luật
TTHS quy định về QBC của bị can, bị cáo là người CTN, xác định giới hạn và cách
thức điều chỉnh của pháp luật TTHS đối với những chủ thể đặc biệt này. Trên cơ sở
đó, tác giả mạnh dạn đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS quy định về
QBC của bị can, bị cáo là người CTN như việc quy định cụ thể những người THTT
cũng như xác định rõ trách nhiệm cũng như những biện pháp chế tài của những người
tham gia tố tụng trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN, xác định sự cần thiết
phải thành lập Tòa chuyên trách cho người CTN…
9. Luận án cũng nêu lên những đề xuất bước đầu về các biện pháp nâng cao
năng lực nhận thức cũng như nâng cao năng lực áp dụng pháp luật như xây dựng
chiế
n lược đào tạo cán bộ chuyên trách cho CQĐT, Viện kiểm sát, TAND và thậm chí
cả đội ngũ bổ trợ tư pháp như luật sư, trợ giúp viên pháp lý… xây dựng các chi tiết về
việc tham gia của đại diện hợp pháp của người CTN trong quá trình tham gia vào quá
trình điều tra cũng như khi xét xử người CTN phạm tội.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng các kết quả nghiên cứu của luận án vẫn có giá
trị về
mặt lý luận cũng như thực tiễn. Giá trị thực tiễn của luận án được khẳng định
qua những kết quả nghiên cứu về thực trạng pháp luật và khả năng thực thi của nó.
Những nội dung chưa được nghiên cứu được coi là định hướng nghiên cứu tiếp theo
cho tác giả. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đã nêu ở trên, tác
gi
ả đã đề xuất được hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện
QBC của bị can, bị cáo là người CTN, đồng thời bảo đảm xác định sự thật của vụ án
khách quan, toàn diện và đầy đủ, góp phần giải quyết đúng đắn VAHS. Luận án là tài
liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu khoa học luật TTHS, giảng dạy và học
tập tại các cơ
sở đào tạo luật cũng như trong công tác lập pháp và công tác điều tra,
truy tố, xét xử.