ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THANH
BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG TƯ PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ : 60 38 40
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Trần Quang Tiệp
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ
quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp
hình sự việt nam
1.1.
1.1.1
1.1.2.
1.1.3.
Khái niệm bảo vệ quyền của người chưa thành niên
trong Tư pháp hình sự
Khái niệm người chưa thành niên trong Tư pháp
hình sự
Khái niệm bảo vệ quyền của người chưa thành niên
trong Tư pháp hình sự
Cơ sở để nhà làm luật quy định quyền của người
chưa thành niên trong Tư pháp hình sự
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.2.4.
Lược sử hình thành và phát triển những quy định pháp
luật về bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong
Tư pháp hình sự Việt Nam
Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa
thành niên trong Tư pháp hình sự thời kỳ phong kiến
(X-XIX)
Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa
thành niên trong Tư pháp hình sự thời kỳ Pháp thuộc
Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa
thành niên trong Tư pháp hình sự từ năm 1945 đến
1985
Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa
thành niên trong Tư pháp hình sự từ năm 1985 đến nay
Chương 2: Những quy định của Tư pháp hình sự
Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành
niên và thực tiễn áp dụng
2.1.
2.1.1.
2.1.1.1
2.1.1.2.
2.1.1.3.
2.1.1.4.
2.1.1.5.
2.1.1.6.
2.1.1.7.
2.1.1.8.
2.1.2.
Những quy định của Tư pháp hình sự Việt Nam hiện
hành về bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
Bảo vệ quyền của người chưa thành niên với tư cách
là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án
Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội
thông qua chế định hình phạt
Bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội
thông qua các biện pháp tư pháp
Đối tượng chứng minh trong vụ án có người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
trong những vụ án có người chưa thành niên phạm
tội
Người tham gia tố tụng trong những vụ án có người
chưa thành niên phạm tội
áp dụng biện pháp ngăn chặn và giám sát đối với
người chưa thành niên phạm tội
Thủ tục tố tụng trong vụ án có người chưa thành
niên tham gia
Bảo vệ quyền của người chưa thành niên với tư cách
người bị hại, người làm chứng
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
2.2.6
2.2.6.1.
2.2.6.2.
2.2.6.3.
Thực tiễn áp dụng những quy định của Tư pháp hình
sự Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành
niên.
Tình hình người chưa thành niên phạm tội gia tăng
Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội do người
chưa thành niên thực hiện
Thực tiễn điều tra về điều kiện sống, giáo dục và
việc xác định có hay không ngưòi thành niên xúi
giục
Thực tiễn áp dụng quy phạm về quyền bào chữa của
người chưa thành niên
áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội
Thực tiễn áp dụng các quy định về bảo vệ quyền cho
người chưa thành niên là người bị hại, người làm
chứng.
Hoạt động lấy lời khai
Hoạt động đối chất
Hoạt động nhận dạng
Chương 3: các giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ quyền của người chưa thành
niên trong Tư pháp hình sự Việt Nam
3.1.
Hoàn thiện các quy định của Pháp luật hình sự bảo
vệ quyền của người chưa thành niên.
3.2.
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
3.2.1
3.2.2
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.
3.2.6.
3.2.7.
3.2.8.
3.2.9.
Về phạm vi áp dụng của Bộ luật tố tụng hình sự
Về điều tra, truy tố, xét xử
Về bắt, tạm giữ, tạm giam
Về giám sát bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và
các tổ chức xã hội
Về xét xử
Về chấp hành hình phạt tù
Về xoá án tích
Hoàn thiện các quy định khác trong Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 và các văn bản pháp luật khác
3.3.
3.3.1.
3.3.1.1.
3.3.1.2.
3.3.2.
3.3.3
Các giải pháp đảm bảo
Thành lập Toà án cho người chưa thành niên
Lý do thành lập Toà án dnàh cho người chưa thành
niên
Về cơ cấu tổ chức
Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Tư pháp, đội
ngũ bổ trợ tư pháp
Nâng cao ý thức pháp luật cho người chưa thành
niên và cho nhân dân
3.4.
Tăng cường hợp tác quốc tế
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Vấn đề tội phạm và những chính sách, pháp luật tương ứng với nó là
hết sức quan trọng đối với mỗi xã hội hướng tới mục tiêu xây dựng một cộng
đồng mà ở đó cơ hội và các quyền tự do là tối đa đối với mỗi cá nhân. Tầm
quan trọng được nhấn mạnh hơn đối với nhóm tội phạm là người chưa thành
niên - nhóm được xem như nền tảng tương lai của mỗi xã hội nhưng lại mang
trong mình những đặc trưng hết sức non nớt và cần sự quan tâm giáo dưỡng
nhiều hơn cả. Thực tiễn cho thấy điều đó khi Liên hợp quốc tổ chức hội nghị
toàn thế giới để bàn cách đấu tranh phòng chống tội phạm là người chưa
thành niên cùng với nhiều chương trình, nội dung quan tâm tới nhóm xã hội
đặc thù này.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế nói chung và với vấn đề phạm tội ở
người chưa thành niên nói riêng - vấn đề đang ngày càng được xã hội quan
tâm, Việt Nam chúng ta cũng đã có những bước đi hết sức kịp thời và phù
hợp với các thông lệ cũng như chuẩn mực pháp lý quốc tế.
Có thể nhận thấy những năm gần đây ở nước ta, số lượng người chưa
thành niên phạm tội đang có chiều hướng gia tăng cả về số lượng lẫn mức độ
nghiêm trọng, tính chất liều lĩnh của hành vi phạm tội. Do người chưa thành
niên có những đặc điểm khác so với người thành niên nên trong quy định của
Tư pháp hình sự Việt Nam có những quy định đặc thù áp dụng đối với họ. Bộ
luật hình sự năm 1999 dành chương thứ X và Bộ luật tố tụng hình sự trong
Phần thứ bảy chương XXXII cũng quy định thủ tục tố tụng đặc biệt dành cho
người chưa thành niên nhằm bảo đảm những quyền lợi của họ.
Tuy vậy, thực tiễn áp dụng các quy định của tư pháp hình sự Việt Nam
bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong thời gian qua đã bộc lộ những
hạn chế cần có những điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp. Bên cạnh đó đội ngũ
2
cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và sự hiểu biết về
khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên còn yếu cũng đã cộng thêm
những khó khăn nhất định trong quá trình thực thi tính ưu việt của các quy
phạm tư pháp hình sự bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
Bởi vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận các quy
định của pháp luật tư pháp hình sự Việt Nam đối với người chưa thành niên,
tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, trên cơ sở đó đưa
ra được những căn cứ khoa học nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
tư pháp hình sự là việc làm hết sức cần thiết. Đề tài “Bảo vệ quyền của người
chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam” được xây dựng như một nỗ
lực nghiên cứu nghiêm túc, khách quan khoa học nhằm đáp ứng phần nào
yêu cầu của thực tiễn đó.
2. Tình hình nghiên cứu.
Các quy định về người chưa thành niên được quy định trong Chương X
Bộ luật hình sự 1999 và trong chương XXXII Bộ luật tố tụng hình sự. Trong
khoa học pháp lý hình sự, chế định về người chưa thành niên đã được một số
tác giả nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau, trong đó phải kể đến cuốn: Bảo vệ
quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý
Bộ Tư pháp năm 1999; hay cuốn Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người
chưa thành niên tại Việt Nam, Thông tin khoa học pháp lý của Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý Bộ tư pháp năm 2000; "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị
can, bị cáo là người chưa thành niên và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà
Nội", Luận văn cử nhân Luật của tác giả Nguyễn Trần Bích Phượng, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2001; Đỗ Thị Phượng: "Thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo
là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam", Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003 , và một số bài viết được
đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân của đồng tác giả Lê Cảm và Đỗ Thị Phượng
3
“Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh pháp lý hình
sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học” các số 20,21,22 năm
2004. Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về
các quy định của pháp luật áp dụng đối với người chưa thành niên, thủ tục tố
tụng đối với những vụ án có người chưa thành niên tham gia nhưng chưa có
công trình nào đi sâu, nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về bảo vệ
quyền của người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam. Điều này cho
thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn nữa để từng
bước hoàn thiện quy định tư pháp hình sự Việt Nam để bảo vệ quyền cho người
chưa thành niên là việc làm cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện
nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các
quy phạm tư pháp hình sự Việt Nam bảo vệ quyền của người chưa thành niên,
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng những quy phạm đó
trong thực tiễn.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý lụân chung về bảo vệ quyền của người
chưa thành niên trong Tư pháp hình sự, như: khái niệm người chưa
thành niên, bảo vệ quyền cho người chưa thành niên trong Tư pháp
hình sự Việt Nam.
- Phân tích lược sử hình thành và phát triển các quy phạm tư pháp hình
sự Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
4
- Nghiên cứu và làm rõ các quy định pháp luật tư pháp hình sự Việt Nam
bảo vệ quyền cho người chưa thành niên và thực tiễn áp dụng các quy
định đó.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy
phạm tư pháp hình sự Việt Nam bảo vệ quyền của người chưa thành
niên.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý lụân và thực tiễn
bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Trong Tư pháp hình sự Việt Nam, người chưa thành niên có thể là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan đến vụ án
Nhưng do phạm vi của luận văn thạc sĩ luật học, tác giả giới hạn nghiên cứu
việc bảo vệ quyền của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, người bị kết án, người bị hại, người làm chứng dưới góc độ luật hình sự
và luật tố tụng hình sự.
4. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân,
về chính sách hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của
Đảng và Nhà nước ta.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quán triệt các chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về người chưa thành niên. Cơ
sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo tổng kết, số liệu điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án có người chưa thành niên tham gia.
5
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, các phương pháp hệ
thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgic, thống kê, so sánh pháp luật, xã hội
học, đã được sử dụng để hoàn thành các nhiệm vụ mà tác giả luận văn đã
đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận văn.
Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ
thống về bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt
Nam. Có thể xem những nội dung sau là đóng góp mới của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền của người
chưa thành niên.
- Phân tích làm rõ thực trạng áp dụng các quy định tư pháp hình sự Việt
Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
- Đề xuất những phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định tư pháp hình sự về bảo vệ quyền cho người chưa thành niên.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu và những giải pháp được đề xuất trong luận văn có
ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc bảo vệ quyền trẻ em nói chung, của
người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự nói riêng. Thông qua hệ thống
các giải pháp, tác giả mong muốn đóng góp một phần ý kiến vào sự phát triển
của kho tàng lý luận tư pháp hình sự về bảo vệ quyền cho người chưa thành
niên trong tư pháp hình sự Việt Nam.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học tư pháp hình
sự nói riêng cũng như trong thực tiễn xét xử.
7. Kết cấu của luận văn.
6
Luận văn có kết cấu chặt chẽ, khoa học, đúng quy chuẩn: Ngoài phần
mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương,
08 mục.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TƯ PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN TRONG TƯ PHÁP HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự
Để có thể làm sáng tỏ khái niệm người chưa thành niên trong Tư pháp
hình sự, trước hết, cần làm sáng tỏ khái niệm người chưa thành niên trong Tư
pháp hình sự quốc tế.
Trẻ em - Người chưa thành niên và bảo vệ quyền của trẻ em - người
chưa thành niên trong pháp luật nói chung và trong lĩnh vực Tư pháp hình sự
nói riêng là một vấn đề được cả thế giới quan tâm, bởi lẽ: Trong những năm
gần đây, tình trạng người chưa thành niên phạm tội đang ngày một gia tăng cả
về số lượng lẫn mức độ vi phạm nghiêm trọng nhưng tư pháp hình sự vẫn
chưa có những cơ chế đầy đủ bảo vệ quyền cho họ bởi họ là những người
“non nớt” về độ tuổi và khả năng nhận thức, xử sự chưa hoàn hảo, bồng bột
và thiếu đúng đắn. Bên cạnh đó, người chưa thành niên là người bị hại và
người làm chứng quyền của họ cũng chưa đảm bảo một cách thoả đáng.
Bảo vệ quyền của người chưa thành niên, đảm bảo cho họ phát triển
toàn diện, hài hoà cả về thể chất và tinh thần là mối quan tâm chung của các
bậc làm cha, làm mẹ, của nhà trường và của toàn xã hội. Vì thế hệ trẻ là tương
lai của đất nước, quyết định đến sự phát triển hay suy thoái của một quốc gia.
Trong những năm qua, đứng trước thực trạng này, các tổ chức quốc tế cũng
như các quốc gia có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu để đưa ra cơ chế
bảo vệ quyền của người chưa thành niên sao cho vừa tương thích với pháp
luật hình sự quốc tế, vừa phù hợp với phong tục, truyền thống của pháp luật
quốc gia.
8
Người chưa thành niên - Trẻ em là một khái niệm được sử dụng khá
phổ biến ở nhiều ngành khoa học, dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong pháp
luật cũng vậy, mặc dù đã được đề cập tới trong nhiều văn bản pháp luật quốc
tế song ở mỗi văn kiện, khái niệm người chưa thành niên lại tồn tại nhiều
điểm khác biệt.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em ghi nhận: “Trong phạm vi
của công ước này, Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [28 – tr1].
Theo cách hiểu thông thường, từ “Trẻ em” có nghĩa là người chưa
thành niên. Theo điều này Công ước đã ghi nhận, khái niệm người chưa thành
niên được hiểu là mọi trẻ em dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật quốc gia
có quy định khác.
Trong quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về Tư
pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) [30 - tr1] không nói rõ người
chưa thành niên là người dưới 18 tuổi mà chỉ đưa ra khái niệm chung chung là
“trẻ em” hoặc “người ít tuổi”. Theo quy tắc này “Người chưa thành niên
phạm tội là trẻ em hay người ít tuổi bị cho là hay bị phát hiện là đã phạm
tội ”. Quy tắc Bắc Kinh (2.2) định nghĩa: “Người chưa thành niên” và “phạm
tội” là những thành tố của người chưa thành niên phạm tội. Cần lưu ý rằng
giới hạn độ tuổi phụ thuộc vào pháp luật của các quốc gia thành viên. Sự khác
nhau về giới hạn độ tuổi này là điều không tránh khỏi khi xem xét hệ thống
pháp luật của các quốc gia và không làm giảm hiệu lực của những Quy tắc
phổ biến này về mặt pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng.
Người chưa thành niên phạm tội là khái niệm không những mang tính
pháp lý mà còn có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Trong Hướng dẫn của
Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (Hướng
dẫn Riat) mặc dù không đưa ra một cách cụ thể về khái niệm người chưa
9
thành niên, song thông qua các quy định cũng giúp chúng ta hình thành tư
duy: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Sở dĩ có thể khẳng định
như thế bởi: “Hướng dẫn này cần được giải thích và thực hiện trong phạm vi
khuôn khổ của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị, tuyên ngôn về quyền trẻ em, Công ước về
quyền trẻ em và trong phạm vi của Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp
Quốc về tư pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) cũng như những
văn kiện và tiêu chuẩn khác có liên quan tới các quyền, lợi ích và phúc lợi
của tất cả những người trẻ tuổi” [30 - tr2]. Công ước Quyền trẻ em lại quy
định trẻ em là tất cả những người dưới 18 tuổi. Do đó, ta lại bắt gặp quan
điểm chung về độ tuổi của người chưa thành niên trong các Công ước quốc tế.
Quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
quyền tự do một lần nữa đề cập đến khái niệm người chưa thành niên. Bên
cạnh mục đích xác định các quyền của người chưa thành niên bị tước quyền
tự do thì Quy tắc còn quy định cách đối xử với trẻ em khi chúng phạm pháp.
Xuất phát từ mục đích đó, khái niệm người chưa thành niên cũng được ghi
nhận một cách tương đối rõ ràng và cụ thể, như một sự kế thừa của Công ước
quốc tế về Quyền trẻ em. Theo đó, “Người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi. Giới hạn độ tuổi này cần phải được pháp luật xác định và không được
tước quyền tự do của người chưa thành niên” [28 – tr5].
Như vậy, mặc dù phạm vi nghiên cứu có thể khác nhau song hầu hết
các văn kiện quốc tế đều đưa ra quan điểm thống nhất là: Người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi. Công ước Quyền trẻ em còn những điều khoản để
ngỏ cho các nước quy định về độ tuổi cho người chưa thành niên để các quốc
gia căn cứ vào sự phát triển về thể chất và tinh thần của công dân nước mình
mà có những quy định khác nhau về độ tuổi của người chưa thành niên nhằm
đảm bảo sự phù hợp giữa pháp luật và thực tiễn.
10
Trong các Công ước quốc tế không đưa ra khái niệm thế nào là quyền
của người chưa thành niên hay bảo vệ quyền của người chưa thành niên mà
chỉ liệt kê quyền của người chưa thành niên như sau:
Công ước về quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc năm 1989 ghi nhận
“Ghi nhớ rằng do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và
chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như
sau khi ra đời như đã chỉ ra trong Tuyên ngôn về quyền trẻ em”.
“Không trẻ em nào bị tra tấn hay bị đối xử hoặc trừng phạt tàn tệ, vô
nhân đạo hay làm mất phẩm giá. Không được xử tử hình hoặc tù chung thân
mà không có khả năng phóng thích vì những tội do những người dưới 18 tuổi
gây ra.
Không một trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách hợp pháp hoặc tuỳ
tiện. Việc bắt, giam, giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo luật pháp
và chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng trong thời hạn thích hợp
ngắn nhất ” (Điều 37 Công ước).
Như vậy, chỉ thông qua một số văn kiện pháp lý quốc tế: Công ước về
quyền trẻ em, Hướng dẫn Riát, Quy tắc tối thiểu giúp chúng ta có được một
tư duy khái quát về người chưa thành niên. Qua đó, có những khuyến nghị về
việc thiết lập hệ thống tư pháp người chưa thành niên theo khuôn khổ pháp
luật quốc gia nhằm mục đích vừa tôn trọng pháp luật quốc tế vừa duy trì trật
tự xã hội và bảo vệ quyền cho người chưa thành niên.
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm người chưa thành niên
trong Tư pháp hình sự Việt Nam.
Theo Từ điển Tiếng Việt - Trung tâm ngôn ngữ học Việt Nam định
nghĩa: “Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về
thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công
dân”.
11
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, xuất phát từ khách thể cần bảo vệ
các quan hệ xã hội của từng ngành luật khác nhau nên mỗi ngành luật quy
định thế nào là người chưa thành niên khác nhau:
Điều 18 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 ghi nhận: “…Người chưa
đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên.”
Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khẳng định: “Trẻ em
là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”.
Điều 12 Bộ luật hình sự 1999 quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.”
Điều 68 Bộ luật hình sự cũng quy định:
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự ”
Với quy định trong các điều khoản trên có thể hiểu độ tuổi người chưa
thành niên phải chịu trách nhiệm hình sự là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa
đủ 18 tuổi. Và như thế, có thể hiểu: “Người chưa thành niên phạm tội là
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa
đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về tâm, sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc
vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm”.[34 - 20]
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm: Người chưa thành
niên trong tư pháp hình sự Việt Nam là người dưới mười tám tuổi.
Bô luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1999 đề cập đến khái niệm người chưa thành niên dưới hai phương diện: một
12
mặt, họ là chủ thể của tội phạm, mặt khác họ là những người đặc biệt cần
được các quy phạm pháp luật bảo vệ. Với tư cách là chủ thể của tội phạm, độ
tuổi người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm hình sự là khi họ từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị
Luật hình sự cấm. Điều đó có nghĩa là ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
họ có năng lực trách nhiệm hình sự để có thể gánh chịu những hậu quả pháp
lý hình sự do hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình gây ra. Với tư cách là
đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật hình sự, Bộ
luật hình sự đã dành hẳn một chương riêng quy định đối với người chưa thành
niên phạm tội (Chương X) và Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng dành phần
thứ bảy - thủ tục đặc biệt chương XXXII quy định thủ tục tố tụng đối với
người chưa thành niên cho thấy quyền của người chưa thành niên được các
quy phạm pháp luật tư pháp hình sự bảo vệ đặc biệt.
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong
Tư pháp hình sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quyền là cái mà luật pháp, xã hội, phong
tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành và khi thiếu được yêu
cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại”. Ngay trong khái niệm
này, ta có thể thấy, để được coi là quyền và để bảo vệ quyền cần có sự thể
hiện “thái độ” của xã hội và luật pháp. Hay nói cách khác, những quyền tự
nhiên, vốn có của con người, như: Quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc và các lợi ích, nhu cầu khác trở thành quyền khi được xã hội, pháp
luật pháp ghi nhận và bảo bảo đảm thực hiện.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: Người bị tạm giữ là người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định
truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định
tạm giữ. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người đã bị Toà
13
án quyết định đưa ra xét xử. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do tội phạm gây ra. Người làm chứng là người biết được những
tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. Người
bị kết án là người đã có quyết định thi hành bản án có hiệu lực pháp luật của
Toà án. Do đó, có thể hiểu:
Người bị tạm giữ là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị cơ quan có thẩm quyền áp
dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giữ khi có các căn cứ theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự.
Bị can là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị cơ quan tố tụng có thẩm quyền khởi tố về
hình sự vì có căn cứ xác định là họ thực hiện hành vi phạm tội theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự.
Bị cáo là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị Toà án quyết định đưa ra xét xử căn cứ
vào quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Người bị kết án là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ đã bị Toà án xét xử và tuyên bản án
có hiệu lực pháp luật căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Người bị hại là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản
do tội phạm gây ra và được cơ quan tiến hành tố tụng xác định là người bị hại
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Người làm chứng là người chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi biết được những tình tiết liên quan đến vụ án và
được các cơ quan có thẩm quyền xác định là người làm chứng theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự.
14
Tư pháp hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, người bị kết án, người bị hại, người làm chứng được nghiên cứu
trong luận văn là toàn bộ các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 và
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003 quy định về người chưa thành niên.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm bảo vệ quyền của người
chưa thành niên trong Tư pháp hình sự như sau:
Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự là bảo
bảo thực hiện các quyền của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, người bị kết án, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được ghi
nhận trong pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.
1.1.3. Cơ sở để nhà làm luật quy định quyền của người chưa thành
niên trong tư pháp hình sự.
Để được coi là người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam,
các nhà lập pháp đã dựa trên hai tiêu chí, đó là: Độ tuổi và trình độ phát triển
tâm sinh lý.
Điều 12 Bộ luật hình sự 1999 quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.”
Điều 68 Bộ luật hình sự cũng quy định:
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự ”
Khi xây dựng điều này của Bộ luật có ý kiến đề xuất là nên cân nhắc độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự lên 16 tuổi cho phù hợp với Luật bảo vệ, chăm
15
sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, ở đây cần phân biệt rõ khách thể bảo vệ
trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trách nhiệm phải chịu hậu
quả pháp lý về hành vi nguy hiểm cho xã hội là hai phạm trù khác nhau.
Trong khi luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trả lời cho chúng ta câu
hỏi: Độ tuổi nào thì trẻ em cần thiết phải được hưởng sự bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục đặc biệt của cộng đồng xã hội? Thì pháp luật hình sự lại khẳng định
cho chúng ta là bắt đầu từ độ tuổi nào thì một con người có nhận thức khá đầy
đủ và phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của
mình.
Ở một khía cạnh nào đó, độ tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự
cũng chịu ảnh hưởng của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong
từng giai đoạn của quá trình phát triển xã hội. Tuy nhiên, việc tăng hay giảm
độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự không thể do một quyết định duy ý
chí mà phải dựa trên những cơ sở sau:
- Trình độ phát triển dân trí, bào gồm cả trình độ văn hoá và trình độ
hiểu biết pháp luật.
- Điều kiện kinh tế - xã hội.
- Tình hình diễn biến tội phạm.
- Tập quán pháp lý truyền thống.
- Tương quan với sự phát triển của các ngành pháp luật khác.
Pháp luật của các nước quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ít khi
có sự thay đổi về độ tuổi. Điều này lý giải tại sao ở Úc độ tuổi này vẫn giữ
nguyên là mười tuổi mặc dù trình độ dân trí, điều kiện kinh tế - xã hội rất phát
triển. Ngược lại, cũng không thể giải thích rằng sở dĩ Nhật Bản vẫn giữ
nguyên độ tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự là mười lăm vì ở nước
Nhật trẻ em dưới 15 tuổi không có những hành vi nguy hiểm cho xã hội cần
phải có sự can thiệp của pháp luật. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là
16
độ tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự là bất biến (không thay đổi mỗi
khi đã quy định vào luật) mà là việc thay đổi đó phải được xem là giải pháp
tình thế cần thiết cuối cùng và là một quyết định có ý nghĩa chính trị - pháp lý
cần được cân nhắc kỹ càng.
Về tâm - sinh lý
Dựa trên cơ sở của pháp luật hình sự, lứa tuổi này có thể phân thành hai
nhóm, mỗi nhóm có những đặc điểm riêng. Nhóm thứ nhất từ 14 tuổi tròn đến
dưới 16 tuổi, với đặc điểm là vừa vượt qua giai đoạn trẻ con, gần gia đình và
sống phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào gia đình. Nhóm thứ hai, từ 16 tuổi tròn
đến dưới 18 tuổi - với đặc điểm đang ở giai đoạn sắp bước vào tuổi người lớn,
nhận thức xã hội khá hơn nhóm thứ nhất nhưng vẫn chưa tách khỏi gia đình,
kinh tế vẫn còn phụ thuộc vào gia đình.
Ở lứa tuổi này, người chưa thành niên đang trong giai đoạn phát triển
mạnh mẽ về thể lực và tâm sinh lý. Khả năng phát triển cụ thể của từng người
có thể khác nhau, song nhìn chung đây là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi trẻ con
sang tuổi người lớn, không còn thụ động với vai trò của người được dạy dỗ
nhưng lại chưa hẳn là người lớn. Sự vươn lên vị trí độc lập của người chưa
thành niên theo xu hướng chung diễn ra rất tự phát. Đối với họ, những áp đặt
của người lớn, sự chỉ bảo cặn kẽ, việc kiểm tra, giám sát đã trở thành “xiềng
xích” và cần phá bỏ. Họ muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc với người lớn bằng
nhiều cách khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của từng người. Họ rất dễ
xúc động, khi thì trầm tư, khi sôi nổi. ở lứa tuổi này, tâm trạng của người chưa
thành niên rất thất thường, dễ bị kích động, lòng kiên trì và năng lực tự kiềm
chế thấp. Thích tìm hiểu mọi vấn đề, muốn tò mò mọi chuyện để “làm người
lớn”. Tính hiếu thắng đã trở thành phổ biến trong mỗi hành động của họ và
nhiều khi là động cơ trực tiếp thúc đẩy người chưa thành niên đi đến quyết
định bột phát, thiếu suy nghĩ, thiếu cân nhắc kỹ lưỡng và nhiều khi trở thành
17
liều lĩnh. ở lứa tuổi dưới 18, người chưa thành niên đều rất linh hoạt, nhạy
cảm và hiếu động, có trí tưởng tượng phong phú, vì vậy ranh giới giữa cái
đúng - sai thường dễ lẫn lộn. Về mặt động cơ hành vi của người chưa thành
niên là loại hành vi dễ chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh, nhạy bén
về tinh thần, có tính hay học đòi, bắt chước nhưng chưa có khả năng tự kiềm
chế và đánh giá vấn đề xảy ra một cách toàn diện.
Tựu chung lại, ở ranh giới giữa trẻ em và người lớn, con người thường
tồn tại những diễn biến tâm lý phức tạp. ở giai đoạn này, nhân cách con người
chưa ổn định, mọi hành vi cũng như động cơ dễ chịu sự tác động từ môi
trường bên ngoài. Quá trình hình thành tính cách và phẩm chất cá nhân phụ
thuộc vào thân nhân của họ. Môi trường giáo dục của gia đình, nhà trường và
xã hội cũng là yếu tố chi phối có tính quyết định. Nếu sống trong môi trường
lành mạnh, người chưa thành niên sẽ có điều kiện phát triển toàn diện để trở
thành một công dân có ích. Nhưng ngược lại, ở một môi trường sống phức
tạp, lộn xộn thì sự ảnh hưởng xấu đến tâm lý trẻ em là một điều không thể
tránh khỏi. Chính bởi sự phát triển chưa đầy đủ về phẩm chất và tinh thần mà
pháp luật dành cho người chưa thành niên một sự quan tâm, bảo vệ đặc biệt.
Các chế định đều lấy giáo dục, thuyết phục làm biện pháp chính điều chỉnh
hành vi của họ.
1.2. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG TƯ PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành
niên trong Tư pháp hình sự thời kỳ Phong kiến (Thế kỷ X đến giữa thế
kỷ XIX).
Thoát khỏi hệ tư tưởng phong kiến bảo thủ, lạc hậu và chuyên chế,
Quốc Triều hình luật thời nhà Lê và Hoàng Việt Luật lệ thời nhà Nguyễn là
18
hai bộ luật khá công phu đương thời đã có những quy định mang nội dung
tiến bộ bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong xã hội, cụ thể là: Điều
16 Quốc Triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) ghi nhận: “Những
người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người bị phế tật, phạm
từ tội lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền, phạm tội thập ác thì không theo
luật này. từ 7 tuổi trở xuống dầu có bị tội chết cũng không hành hình, nếu có
kẻ nào xui xiểm thì bắt tội kẻ xui xiểm, nếu ăn trộm có tang vật thì kẻ nào bất
chấp tang vật ấy phải bồi thường ” (Nhóm tội thập ác: Mưu phản, mưu đại
nghịch, mưu chống đối, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất
nghĩa và nội loạn) [9 - tr16]. Điều này cũng được quy định tương tự trong
Hoàng Việt Luật lệ (hay còn gọi là Bộ luật Gia Long) quyển 10 Điều 10 về
việc “không được tra tấn người già từ 70 tuổi trở lên, trẻ em từ 15 tuổi trở
xuống có phạm tội thì quan ty không được dùng hình phạt tra khảo, chỉ căn cứ
vào bằng chứng mà định tội; từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống đều không
được bắt họ làm chứng và đưa ra chế tài cho việc vi phạm những quy định
này như “trái luật này thì bị phạt 50 roi” [9 -tr1]
Luật pháp Phong kiến còn áp dụng nguyên tắc có lợi cho người chưa thành
niên phạm tội: “Khi còn bé nhỏ phạm tội, đến khi lớn mới phát giác, thì xử tội
theo luật khi còn nhỏ” [9 - tr17]. Hay những quy phạm bảo vệ cho người chưa
thành niên là người bị hại, ví như: “Gian dâm với con gái nhỏ từ 12 tuổi trở
xuống, dù người con gái thuận tình cũng xử như tội hiếp dâm” [9 - tr4]; Và
những chế định thể hiện chế định miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
“Những người đáng được nghị xét giảm tội, như 70 tuổi trở lên và 15 tuổi trở
xuống hay bị phế tật, nếu phạm tội thì không được tra tấn, chỉ căn cứ vào lời
khai của những người làm chứng mà định tội; nếu quan hình ngục làm trái
điều này thì coi như phạm tội cố ý buộc tội người. Trong luật có điều được
phép ẩn giấu cho nhau, như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người
19
bị bệnh nặng thì không được gọi ra làm chứng, nếu trái luật này thì bị biếm
một tư”. (665 - Điều 8)
Một đặc điểm về việc xét xử đối với những đối tượng là người chưa
thành niên trong luật hình thời Phong kiến đó là, mặc dù bản thân người chưa
thành niên không trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, nhưng họ vẫn có thể bị
đưa ra xét xử và phải chịu hình phạt khi một người trong gia đình, dòng tộc
thực hiện một trong những hành vi phạm tội xâm phạm nghiêm trọng đến
quan hệ Vua - Tôi, an ninh quốc gia, tính mạng và sở hữu cá nhân [55- tr410].
Từ những điều luật trên ta có thể thấy pháp luật phong kiến quy định độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ 15 tuổi trở lên, người từ 15 tuổi trở xuống
chỉ phải chịu trừng phạt khi phạm tội nghiêm trọng - Tội thập ác. Trẻ em từ 7
tuổi trở xuống được tha miễn hoàn toàn.
Như vậy, tuy rằng pháp luật phong kiến là pháp luật bảo vệ lợi ích cho
giai cấp thống trị, cho địa chủ, quan lại nhưng ta cũng không thể phủ nhận
những yếu tố tiến bộ trong những quy định đó. Tuy có rất ít các điều khoản
quy định bảo vệ quyền cho người chưa thành niên, song các quy định đó là
hết sức tiến bộ, thể hiện sự phát triển vượt bậc so với sự phát triển của các
quan hệ sản xuất phong kiến đương thời. Tuy có những hạn chế nhất định
song những quy định đó thể hiện những giá trị to lớn, là công cụ bảo vệ người
chưa thành niên và là di sản pháp luật cho hiện tại và tương lai.
1.2.2. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành
niên trong Tư pháp hình sự thời kỳ Pháp thuộc.
Do đất nước bị phân chia, cát cứ thành các miền khác nhau với các chế
độ chính trị, pháp luật ở các miền khác nhau. Pháp luật hình sự có những quy
định không thống nhất, từng miền, từng vùng có những quy phạm khác nhau
mặc dù cùng điều chỉnh một nội dung. Ví dụ, việc quy định độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự ở mỗi miền lãnh thổ khác nhau. Điều 55 Bộ luật hình sự Bắc
20
Kỳ và Điều 83 Bộ luật hình sự Trung Kỳ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự của người chưa thành niên là “ người đủ 16 tuổi trở lên”. Và người từ
10 tuổi trở xuống hoặc từ 90 tuổi trở lên (trừ người già phạm tội đại hình xâm
phạm an toàn của đất nước) không phải chịu trách nhiệm hình sự [11- tr84].
Tại khoản 1 Điều 66 Hình luật canh cải quy định người từ 13 tuổi đến 18 tuổi
và khoản 1 Điều 57 Bộ luật hình sự Bắc Kỳ là dưới 16 tuổi thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm do cố ý.
Như vậy, pháp luật hình sự không có một quy phạm chung về độ tuổi
bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự mà việc quy định này có sự khác nhau -
từ 10 tuổi ở Trung Kỳ, từ 13 tuổi ở Nam Kỳ và không quy định cụ thể ở Bắc
Kỳ.
Pháp luật hình sự thời kỳ này cũng ghi nhận chính sách xử lý đối với
người chưa thành niên phạm tội, người chưa thành niên phạm tội từ 10 đến
dưới 16 tuổi là một tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Pháp luật Tố tụng hình sự ở từng miền cũng khác nhau. ở Nam Kỳ do
Toà án Pháp xét xử và áp dụng BLTTHS Pháp đối với những vụ án mà đương
sự là người Pháp hay đồng hoá với Pháp. Thể lệ tố tụng đối với người Việt có
một vài điểm khác biệt do những sắc lệnh riêng biệt của Tổng thống Pháp quy
định nhưng nói chung cũng giống như luật của Pháp. ở Trung Kỳ, áp dụng
BLTTHS được ban hành năm 1935. Theo đó, việc xét xử phải chịu sự kiểm
soát của Chính phủ bảo hộ Pháp, các đại diện của Pháp có quyền duyệt chiếu
tất cả các bản án. ở Bắc Kỳ, thời kỳ đầu thực dân Pháp duy trì hai loại Toà án
đó là Toà án Đại Pháp để xét xử người Âu Tây và những người không có
quốc tịch An Nam theo luật Pháp và Toà Nam An để xét xử những người dân
An Nam theo Bộ luật Gia Long. Sau đó, khi quyền lực nằm trọn trong tay
Pháp, triều đình Huế không còn ảnh hưởng nữa thì Nha kinh lược Bắc Kỳ bãi
bỏ và áp dụng theo BLTTHS của Pháp.