Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thơ chữ Hán Nguyễn Du Nhật ký tâm trạng pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.3 KB, 10 trang )

Thơ chữ Hán Nguyễn Du -
Nhật ký tâm trạng


Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã thể hiện gần như trọn vẹn tâm tình, suy
nghĩ của nhà thơ trong suốt cả một chặng đường dài, trải qua bao biến cố
của bản thân cũng như thời cuộc. Đó là cuốn nhật ký tâm trạng mà thế
hệ hậu sinh qua đó có thể hiểu cụ thể hơn, sâu sắc hơn về Nguyễn Du, về
những gì đã làm nên một nhà thơ lớn, một người nghệ sỹ vĩ đại của mọi
thời đại.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập (sáng tác
trong khoảng thời gian từ 1786- 1804, tức là trong chặng đường “mười
năm gió bụi”, về quê dưới chân núi Hồng và một vài năm đầu ra làm
quan); Nam trung tạp ngâm (sáng tác trong khoảng thời gian từ 1805-
1812, thời gian làm quan ở kinh đô Huế và làm cai bạ ở Quảng Bình) và
Bắc hành tạp lục ( sáng tác trong thời gian đi sứ Trung Quốc năm 1813-
1814). Xét về mặt thời gian sáng tác cũng như nội dung,
“10 năm gió bụi” Nguyễn Du sống ra sao, những năm về dưới chân núi
Hồng làm một “Nam Hải điếu đồ” ( Người câu cá ở biển Nam), “Hồng
Sơn liệp hộ” ( Phường săn ở núi Hồng) tâm trạng như thế nào, rồi chặng
đường ra làm quan và trên đường đi sứ phương Bắc nhà thơ có những
cảm nghĩ gì ? Thơ chữ Hán đã soi tỏ con người Nguyễn Du, tâm sự
Nguyễn Du. Từng bài thơ, cả tập thơ nặng trĩu một nỗi buồn đau, bi
thiết, một mối quan hoài dằng dặc. Bước đường quan san, gió bụi, tha
hương, chân trời góc biển, ốm đau bệnh tật, trăng thu, đêm thu, gió thu
lạnh, mùa xuân lạnh, mái tóc bạc, nỗi nhớ quê hương ngoài nghìn dặm,
nỗi sầu thế cuộc tất cả trở đi trở lại, thành nỗi niềm man mác trong suốt
cả tập thơ. Đọc Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Xuân Diệu có cảm giác về “
một buổi chiều thu rất dài và tê tái”. Quả thực khó tìm thấy một sắc màu
tươi sáng, một tâm trạng tươi vui, một ý nghĩ nhẹ nhỏm. Bóng hình, nét


mặt, mái tóc, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du dường như đều ẩn chứa
nỗi buồn đau. Buồn đau cho bản thân, cho thời cuộc, không chỉ thế
Nguyễn Du còn là người tự chuốc lấy cho mình nỗi đau của bao kiếp
người trong xã hội với cảm quan thường trực “Bách niên đa thiểu
thương tâm sự” (Cuộc đời trăn năm có biết bao chuyện thương tâm).
Nếu như Truyện Kiều gián tiếp gửi gắm nỗi đau của mình, của muôn
người và của cuộc đời qua một kiếp người, một số phận thì thơ chữ Hán
là tiếng nói trực diện.


1. Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy


“Sống chưa nên danh vọng gì người đã suy yếu. Tóc bạc bơ phờ trước
gió chiều”. Đấy là những lời Tự thán của Nguyễn Du trong thời gian “10
năm gió bụi”, xiêu bạt ở quê người. Hình ảnh mái đầu bạc xuất hiện với
mật độ khá lớn trong thơ chữ Hán của Nguễn Du. Đào Duy Anh chỉ
thống kê riêng ở Thanh Hiên thi tập đã có 17 bài nói về mái đầu bạc.
Người viết bài này thử làm thao tác thống kê trong Thơ chữ Hán thấy có
khoảng 30 bài nhắc đến hình ảnh này, trong đó nhiều nhất là ở Thanh
Hiên thi tập. Nguyễn Du tóc bạc sớm, mới ngoài ba mươi tuổi mái tóc
đã bạc trắng, ông thường than ngày tháng trôi mau, “hết xuân lại thu đầu
bạc thêm”. Rõ ràng bạch phát, bạch đầu là hình ảnh thực nhưng cũng là
hình ảnh mang đầy tâm sự, nỗi niềm. Ẩn đằng sau mái đầu sớm bạc “đi
giữa gió thu” là những mối u sầu, những biến động lớn lao trong thế giới
nội tâm của một nhà nho sớm bước vào đời, với cuộc đời và cõi lòng
chứa biết bao chuyện thương tâm. Luân lạc, buồn đau trong cuộc đời
riêng, biến cố thời cuộc dồn dập diễn ra trước mắt làm cho tóc nhà thơ
sớm bạc: “Tấm thân sáu thước sống lênh đênh trong vòng trời đất. Đầu
tóc bạc phơ, gió tây thổi tung” (Mạn hứng), “Bùi ngùi nỗi thời giờ thấm

thoắt làm cho tóc chóng bạc. Suốt đời mối u sầu chưa hề gỡ ra” ( ).
Trước những lời lẽ tiêu tao ấy, Xuân Diệu đã từng băn khoăn đi tìm lời
lý giải “ những vất vả, luân lạc gì trong cuộc đời thật của Nguyễn Du,
những gió mưa gì đã làm cho đầu thi sĩ sớm bạc đến như vậy!”.

Thời cuộc thì đã rõ, còn bản thân? Câu trả lời có thể đọc thấy trong toàn
bộ Thơ chữ Hán. “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán. Bạch đầu đa hận tuế
thời thiên” (ở Hồng Lĩnh không có nhà, anh em tan tác. Đầu bạc thường
bực mình vì ngày thàng trôi mau- Quỳnh Hải nguyên tiêu). “Mười năm
gió bụi, bỏ quê hương đi xa. Đầu bạc bơ phờ ở nhờ nhà người Một nhà
xuân lạnh bệnh cũ lại nhiều”( U cư I). “Ba tháng xuân ốm liên miên,
nghèo không có thuốc. Hết ăn nhờ ở miền sông lại đến miền biển. Hư
danh chưa buông tha người đầu bạc”( U cư II). “Mấy đoá hoa vàng đã
nở nơi lối cũ. Vài sợi tóc bạc nhắc nhở người suy yếu”(Phụ lục nguyên
tác). Ngèo đói, ốm đau, sống nương nhờ nay đây mai đó Bấy nhiêu
chìm nỗi khốn khó trong đời làm cho đầu thi nhân chóng bạc. “Đa bệnh
đa sầu khí bất hư”” ( Lắm bệnh, hay buồn, tâm thần không được thư
thái- Ngoạ bệnh), “Nỗi u sầu suốt đời không gỡ ra được” Làm khách
không nhà, ốm đau bệnh tật lại còn tự mang lấy những chuyện thương
tâm của cuộc đời, “đem cái bệnh thời đại làm cái bệnh của chính mình”
(Xuân Diệu), cho nên “ Tóc bạc rồi, dù có hùng tâm, cũng ngồi than thở
suông mà thôi” Trước Nguyễn Du các nhà thơ cổ điển Việt Nam như
Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát hay các thi nhân đời Đường như Đỗ Phủ, Lý
Bạch, Vương Duy cũng đã từng nói đến mái tóc bạc để bày tỏ nỗi
buồn đau bất đắc chí trong cuộc đời “ Tóc trắng ba nghìn thước vì buồn
dài lạ sao”, song chưa ai nói nhiều, gợi nỗi buồn thẳm sâu và tiêu tao
như Nguyễn Du.

Nguyễn Du cách nay hơn 200 năm, thi nhân đã là người thiên cổ, vậy
mà đọc Thơ chữ Hán như vẫn còn thấy đó hình ảnh một người cô đơn từ

biệt núi Hồng bước qua sông Long vĩ, giữa bãi cát trông rõ mái đầu bạc,
ngoài biển tiếng chim hồng lìa đàn kêu thương.


2. Dao ức gia hương thiên lý ngoại

“ Vọng cố hương “ là nỗi niềm canh cánh của Nguyễn Du, gần như
trong suốt cả cuộc đời, trừ mấy năm “đắc ý” được về dưới chân núi
Hồng. Không dưới 50/ 248 bài trong Thơ chữ Hán nói đến nỗi nhớ nhà,
nhớ quê hương. Tình cảm của Nguyễn Du với quê hương vô cùng sâu
nặng, trở thành nỗi buồn vui của cả một đời người. “ Gia tại Hồng Sơn
đệ nhất thôn” (Nhà tôi ở ngay xóm đầu dãy núi Hồng). Với quê hương,
nhà thơ tự hào giới thiệu “ Lam thuỷ Hồng sơn vô hạn thắng. Bằng quân
thu thập trợ thanh ngâm” (Sông Lam núi Hồng đẹp vô cùng. Tha hồ anh
nhặt nhạnh để làm đề tài ngâm vịnh). Quê hương đối với Nguyễn Du
như là chỗ dựa tinh thần, là nơi đẹp đẽ trong lành, yên tĩnh, về với quê
hương là tránh được vòng trần tục, tìm được sự thanh thản. Vì thế quê
hương trong nỗi niềm của Tố Như còn đồng nghĩa với một ước vọng.
Cảm nghe trong mấy lời Nguyễn Du tiễn bạn Nguyễn Sĩ Hữu về quê “
Bạn về quê hương sẵn cảnh trăng trong gió mát. Trưa nằm ngủ dưới của
sổ, không mơ màng gì đến phương trời xa xôi nữa”, một mong ước cháy
bỏng của thi nhân, nói cho bạn mà như nói tâm sự của chính mình.
Mong ước giản dị thế thôi nhưng cũng khó lòng thực hiện. Nỗi nhớ quê
hương vì thế càng trở nên đau đáu. Trong Thơ chữ Hán ta thấy hình ảnh
dưới trăng thu lạnh, gió thu lạnh, có một người thơ thẩn nhớ quê hương
xa nghìn dặm; ngoảnh nhìn cố hương chỉ thấy một trời mây trắng lặp
đi, lặp lại hiều lần. “Ức gia hương” - tâm sự ấy man mác, dằng dặc trong
Thơ chữ Hán. 10 năm gió bụi “ Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới đèn
những rơi lệ. Quê nhà xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng” (Xuân dạ).
“Cố hương” là nỗi niềm man mác trong thơ Đường, nhưng cảm hứng đó

thường mang tính hoài cổ, sầu nhân thế, là “cố hương” mang tính phiếm
định. “Cố hương”, “gia hương” trong tâm sự của Nguyễn Du là quê nhà
cụ thể, là một Hồng Lĩnh mà thi nhân thường nhắc tới với bao trìu mến
nhớ nhung. Nếu cần tìm một ý thơ đẹp về nỗi nhớ quê hương của khách
tha hương xin được chọn câu thơ: “Mảnh trăng quê hương chiếu sáng vó
ngựa” (Cố quốc thiềm tuỳ mã hậu minh) của Nguyễn Du. Có lẽ mọi lời
diễn giải sẽ làm mất đi tình và cảnh trong câu thơ. “Khả giải bất khả
giải” làm nên vẻ đẹp thơ ca và làm lay động lòng người là vậy. Nỗi nhớ
quê hương thường được Nguyễn Du biểu đạt một cách giản dị mà thấm
thía: “Quê nhà trong cơn binh lửa, mình ở xa nghìn dặm, nước mắt tuôn
rơi. Bạn bè, bà con, chỉ còn lại mấy hàng thư dưới đèn” (Bát muộn).
Những năm làm quan ở Bắc Hà, bên sông La Phù “ Tựa lan can, lòng
nhớ núi Hồng Lĩnh nghìn dặm xa. Một mình bồi hồi ngắm bóng chẳng
nói gì”. Quê nhà xa nghìn dặm (gia hương thiên lý) là thực tế nhưng mặt
khác còn ẩn chứa một nỗi niềm. Quê nhà càng xa, nỗi sầu nhớ càng trĩu
nặng, khi làm quan ở kinh thành, lâu ngày không về thăm, lòng nhớ
nhung đến thảng thốt: “ Ngũ canh tàn mộng tục hương quan” (Canh năm
giấc mộng tàn rồi mà vẫn mơ về quê nhà - Thuỷ liên đạo trung tảo
hành), “Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ. Hồn hề quy lai bi cố hương” (
Chim cuốc kêu lên tiếng kêu là hết mùa xuân. Hồn ơi về đi! nhớ quê
hương - Ngẫu thư công quán bích). Nhớ quê hương trở thành tâm bệnh,
không chỉ “vọng” nữa mà là “vọng vọng gia hương”. Quê nhà “chỉ cách
một ngọn núi trong dãy Hồng Sơn thôi. Đáng buồn, đường về chỉ ba
ngày là đến. Mà ôm nỗi nhớ quê hương đã bốn năm trời” (Nễ Giang
khẩu hương vọng). Vậy là trong đêm thu lạnh, có một người “phong trần
muôn dặm, vì nước quên nhà”, đành “cầm ngang chiếc sáo thổi khúc
Lạc mai hoa” mà tưởng nhớ quê hương.Tấc lòng của Nguyễn Du với
quê hương Hồng Lĩnh là thế. Sau này trên những dặm đường đi sứ ở
phương Bắc xa xôi, nỗi nhớ ấy càng trở nên vời vợi trong không gian,
thời gian: “Mịt mờ không nhận ra đường về quê hương. Đâu đâu cũng

chỉ nhìn thấy áng mây trôi”. “ Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng”(Nhiếp
khẩu đạo trung) Vậy là “ý xưa trở về Hồng Lĩnh thành ảo mộng!”. Vì lẽ
này mà đến lầu Hoàng Hạc ở đất Hán Dương, Nguyễn Du hiểu và đồng
cảm với nỗi lòng tiền nhân: “Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu” (Hán
Dương vãn diểu).

Đến đây lại nhớ, từ độ dưới núi Hồng có một qua sông Long Vĩ mà
lòng‘ cố quốc hồi đầu lệ. Tây phong nhất lộ trần. Tài qua Long vĩ thuỷ.
Tiện thị dị hương nhân” (Ngoảnh nhìn quê hương, nước mắt rơi, gío tây
thổi bụi suốt dọc đường, vừa sang sông Long Vĩ, đã là người đất khách -
Độ Long vĩ giang).


3. Thiên tuế trường ưu vị tử tiền

“Trước khi chết vẫn còn nỗi buồn lo chuyện muôn thuở” (Mộ xuân mạn
hứng). Nguyễn Du không chỉ buồn đau cho số phận riêng của mình. Thơ
chữ Hán không phải chỉ có niềm riêng với những lời tự thán. Thời đại
Nguyễn Du sống có biết bao cuộc biến thiên sóng gió, cuộc đời mà
Nguyễn Du đã chứng kiến có biết bao chuyện đau lòng, thi nhân đã biến
đó thành những nỗi đau của chính mình. “Nguyễn Du không phải là
người chỉ biết thu mình lại trong những đau khổ cá nhân. Trên con
đường “gập ghềnh bụi bay mờ mịt” của ông, cõi lòng nhà thơ vẫn mở ra
để đón lấy mọi niềm vui nỗi buồn và tạo vật quanh mình”( Nguyễn Huệ
Chi). Yêu thương con người, đồng cảm và phát ngôn cho những khổ đau
bất hạnh con người là nguồn cảm hứng nổi bật trong thơ chữ Hán. Đó là
những người tài hoa bạc mệnh, những người nghèo khổ, đói rách, nói
chung là những con người bị áp bức, chà đạp. Nguyễn Du đồng cảm với
những người tài danh mà cuộc đời buồn như Khuất Nguyên, Đổ Phủ.
Qua Thiếu Lăng viếng Đỗ Phủ, Nguyễn Du ngậm ngùi “Văn chương

ông lưu truyền muôn đời, ông cũng là bậc thầy muôn đời Ông với tôi ở
hai thời đại khác nhau, thương nhau, luống rơi nước mắt. Ông cùng khổ
như thế há phải vì thơ?” – Lỗi Dương Đổ Thiếu Lăng mộ). Tấm lòng
Nguyễn Du đồng cảm, xót thương với những người phụ nữ tài hoa mệnh
bạc như người ca nữ ở đất Long Thành, nàng Tiểu Thanh Khóc cho họ
và cũng là khóc cho mình “Cổ kim hận sự thiên nan vấn. Phong vận kỳ
oan ngã tự cư” (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi. Cái án phong lưu khách
tự mang - Độc Tiểu Thanh ký ). Tấm lòng Nguyễn Du còn hướng tới
những đối tượng cùng khổ trong xã hội như ông già mù hát rong, mẹ con
người hành khất mà ông gặp trên đường đi sứ, anh phu xe, người hái củi:
“Thương nhau không cứ ở chỗ giống nhau” Viết về họ ngòi bút
Nguyễn Du trở nên sắc nét, sống động, đầy yêu thương và đầy phẫn nộ.
Thái Bình mại giả ca, Sở kiến hành là những bức tranh hiện thực sắc nét,
điển hình, trong đó thấm đẫm sự cảm thông yêu thương của nhà thơ. Đó
không còn là tình cảm hữu ái, trắc ẩn thông thường nữa mà trở thành
một tư tưởng - chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du. Tư tưởng đó xuyên suốt
trong những trước tác của Nguyễn Du và đã thăng hoa thành kiệt tác
Truyện Kiều.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du chính là “lời tự thuật của một cuộc đời,
một con người và một tâm hồn nghệ sĩ vĩ đại đứng trước xã hội đầy màu
sắc bi kịch ở thế kỷ cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam” (Đăng
Thanh Lê).

Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, những thế hệ sau này phần lớn chỉ
dựa vào phiên âm, dịch nghĩa. Người viết bài này thử hình dung mấy nét
cơ bản về chân dung tâm trạng Nguyễn Du trong thơ chữ Hán, những lời
lẽ còn sơ sài, e rằng chưa thoả đáng, nhưng là tấm lòng của hậu thế xin
được “khấp Tố Như”.

×