Nguyễn Công Trứ - một nhà nho tài
tử bậc nhất trong lịch sử Việt Nam
trung đại
Nguyễn Công Trứ (1778-1859) là một nhân vật lịch sử sống cuối thế kỷ
XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX – thời kỳ lịch sử động loạn và cũng phát
triển văn hoá vào bậc nhất của lịch sử Việt Nam trung đại. Cuộc đời
ông, dù ở mặt nào, “lập công”, “lập đức”, “lập ngôn” (chữ dùng của Lê
Thước) ông đều có dấu ấn sâu đậm, lưu lại trong sử sách. Tuy nhiên ấn
tượng rõ nét nhất mà ông để lại cho hậu thế là cảm nhận về một nhà nho
tài tử thành thật bậc nhất trong lịch sử Việt Nam trung đại. Ở đây, sự
“thành thật” của ông đã mang một ý vị khác với khái niệm “thành ý” và
“độc thiện” của nhà nho truyền thống, dù về cơ bản ông vẫn là một nhà
nho.
Nguyễn Công Trứ sinh ra khi những âm vang của thời loạn đã gần dứt.
Cha ông là một viên chức nhỏ đã trả nghĩa nhà Lê bằng hành động cần
vương chống “giặc” Tây Sơn nhưng bất thành và lui về ẩn dật, từ chối
lời mời hợp tác của Tây Sơn. Nguyễn Công Trứ trưởng thành khi nước
nhà đã hoàn toàn thống nhất về tay nhà Nguyễn và cái ơn tri ngộ của nhà
Lê với gia đình ông vốn quá mỏng nên đã không còn mấy ảnh hưởng.
Ông thảnh thơi khi mang một hành trang quá khứ nhẹ nhõm để đón hiện
tại và hăm hở xây dựng tiền đồ. Cũng giống như bao nhà nho khác,
muốn “gặp thời vỗ cánh” để “ra danh” thì ông Hi Văn không thể tránh
khỏi cảnh “vào lồng”. Cảm giác “ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” của
ông rất gần với cảm giác “Nhất lung thiên địa tàng nhân tiểu” của
Nguyễn Hữu Cầu và cảm giác “thử nhân dĩ tác phàn lung vật” của
Nguyễn Du. Tuy nhiên cảm giác của Nguyễn Hữu Cầu là một người anh
hùng thời loạn đúng nghĩa và cảm giac của Nguyễn Du là của một người
quá dư thừa kinh nghiệm về tính không tưởng của học thuyết chính trị
Nho giáo. Nguyễn Công Trứ lại khác, là một nhà nho, ông háo hức với
sự nghiệp nhưng muốn có sự nghiệp thì phải chịu quân ân, phải vượt Vũ
môn, phải cất công đăng hoả, lều chõng khoa trường. Ở Nguyễn Công
Trứ không còn sự chiêm nghiệm đầy bi quan của Tố Như bởi với ông
quan trọng hơn cả là lẽ xuất xử hành tàng. Tuy nhiên câu thơ “Thôi hãy
đợi thời bình trị đã” (Vinh nhục) là một cách làm duyên, và khi ông mơ
ước cảnh “Giắt lỏng giang sơn vào nửa túi – Rót nghiêng phong nguyệt
rượu lưng bầu” (Hành tàng) cũng không ngoài mục đích đó. Thời đại
của ông, xuất thân và lý lịch trích ngang của cá nhân ông không có gì để
xui ông làm một nhà nho ở ẩn theo lẽ “xả chi tắc tàng”. Ở Uuy Viễn
tướng công có một khát khao kinh bang tế thế, khát khao nhập thế và
một tinh thần tự nhiệm:
- Đã từng tắm gội ơn mưa móc
Cũng phải xênh xang hội gió mây
(Hội gió mây)
- Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Đi thi tự vịnh)
Các nhà nho trong đó có Nguyễn Công Trứ, hẳn còn rất thấm thía bi
kịch mẫu của người sáng lập ra học thuyết Nho giáo – Khổng Tử – nên
luôn tự dặn lòng mình “xưa nay xuất xử thường hai lối” (Hội gió mây)
và chuẩn bị sẵn một tâm thế sẵn sàng, vui vẻ đón nhận nghịch cảnh của
đời sống. Con người nhà nho trong Nguyễn Công Trứ đã đạt được đến
sự an bần lạc đạo trong cảnh:
Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cần no.
Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường mở ngỏ
Đồ chuyên trà ấm đất sứt vòi
Cuộc uống rượu be sành chắp cổ
(Hàn nho phong vị phú)
Đó là bản lĩnh của nhà nho coi trọng sự tu dưỡng đạo đức mà coi khinh
các giá trị vật chất trong đời sống thường ngày theo lý tưởng “quân tử
thực vô cầu bão, cư vô cầu an”. Sự thanh thản, thậm chí hài hước ở hầu
hết bài phú và cả khi ông làm thơ “vui với cảnh nghèo”:
Phím đàn níp sách là nghề cũ
Quạt gió đèn trăng ấy của riêng.
mà sau này Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” đã đem ra để so
sánh với Xuân Diệu – một người đồng quận với ông - đã than thở “Nỗi
đời cơ cực đang giơ vuốt – Cơm áo kông đùa với khách thơ”.
Là một nhà nho, Nguyễn Công Trứ mang nặng tinh thần tự nhiệm của
người nhập thế. Không phải ngẫu nhiên mà những câu thơ như: “Vũ trụ
giai ngô phận sự, Vũ trụ nội mạc phi phận sự” xuất hiện rất nhiều trong
thơ ông. Tuy nhiên những vần thơ ông viết trong cảnh hàn vi lại là
những khẩu hiệu mang đậm tinh thần “tự an ủi” dù cho là “tự an ủi”
trong một bài thơ có tiêu đề mang trong nó sự thanh thản của tinh thần
đạo lý:
Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này
(Quân tử cố cùng)
Trong thực tế con người nhà nho ở Nguyễn Công Trứ luôn có một mẫu
số chung với các nhà nho khác ở tinh thần tu dưỡng đạo đức và sống
theo kinh điển học thuyết. Câu thơ:
Nghe như chọc ruột tai làm điếc
Giận đã căm gan miệng mỉm cười.
(Cách ở đời)
chính là kết quả rút kinh nghiệm của ông sau bao nhiêu biến đổi, lật lọng
của nhân tình thế thái và cũng là một phần trong cách sống ôn nhu “bất
vưu nhân, bất oán thiên” của Nho giáo. Nguyễn Công Trứ đã không biết
bao nhiêu lần đứng trên lập trường đạo đức Nho giáo để suy ngẫm, triết
lý về cuộc đời. Đọc những vần thơ thế thái nhân tình của thơ ông, ta dễ
liên tưởng đến những bậc nho giả thời trước như Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm với những vần thơ như:
- Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh tựa núi non quanh.
- Không gì bằng lòng người
Buông ra liền quỷ quắc.
Nguyễn Công Trứ đứng trên lập trường đạo đức Nho giáo để nhìn và
mỉa mai hiện trạng:
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy.
và đánh giá hai người phụ nữ là Thuý Kiều và Vũ Nương, Nguyễn Công
Trứ dù sống rất phong lưu hào hoa nhưng ông vẫn mạt sát Kiều hết lời:
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp là đâm.
còn nàng Vũ Thị Thiết, người đã phải tự tử để chứng minh sự trong sạch
của mình, người được cả vua Lê Thánh Tông làm thơ ca ngợi cũng bị
ông xét nét:
Dẫu tình ngay song lí cũng là gian
(…)Tiếng phũ phàng chi nỡ trách đàn ông.
Cái khung đạo đức Nho giáo, chuẩn mực Nho giáo vẫn ám ảnh ông, cả
trong những phát ngôn tưởng như cởi mở nhất. Đã đành, mỗi cá nhân
chỉ là một mắt lưới trong tấm lưới rộng lớn của thời đại nhưng Nguyễn
Công Trứ vẫn chưa có cách gì vượt thoát khỏi những giềng mối cũ. Nho
giáo với tam cương ngũ thường vẫn là một cái gì đó thường trực trong
ông. Cho dù đã có lúc ông đem cả các mối quan hệ đó ra mà văng tục
(Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người)
nhưng những câu như:
- Nặng nề thay đôi chữ quân thân
Đạo vi tử vi thần đâu có nhẹ
(Trên vì nước dưới vì nhà)
- Thượng vị đức hạ vị dân
Sắp hai chữ quân thân mà gánh vác
(Gánh trung hiếu)
không chỉ là một thứ “giấy thông hành”, “tem đảm bảo” để tránh “văn tự
ngục” mà đó thực vẫn là những điều nhà thơ gửi gắm vì dù sao ông vẫn
là một nhà nho - ông quan tồn tại trong một giai đoạn có rất ít lựa chọn
cho lẽ hành tàng.
Nho giáo, tự trong bản thân nó, đã là một học thuyết có nhiều chỗ “bất
túc” mà sự bù đắp của Lão Trang - Đạo giáo, Phật giáo tạo nên một thế
chân kiềng vững chắc khiến cho giới trí thức phương Đông (gồm Trung
Quốc và các nước nằm trong “văn hoá quyển” Hán) – sau này chủ yếu là
nho sĩ – thấy khó có thể tìm ra con đường nào khác ngoài tam giáo. Tam
giáo thể hiện ảnh hưởng của nó trong suốt cuộc đời của mỗi người trí
thức phương Đông, biến họ thành một dạng nhân vật văn hoá đặc biệt
trong đời sống khu vực. Nguyễn Công Trứ không nằm ngoài quĩ đạo đó.