Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.33 KB, 3 trang )
Phân biệt dịch thấm và dịch tiết
* Về bản chất, dịch thấm
Là dịch được tạo thành do sự chênh lệch áp lực giữa dịch trong lòng mạch và
ngoài gian bào. Chúng ta hãy nhớ lại sơ đồ về sự cân bằng áp lực trong và ngoài
lòng mạch : có 3 yếu tố duy trì sự cân bằng này, đó là áp lực thủy tĩnh (hay huyết
áp) đẩy dịch tự trong lòng mạch ra ngoài, áp lực keo và áp lực riêng phần của tổ
chức kéo dịch vào trong lòng mạch. Áp lực của tổ chức ít được nói đến trong cơ
chế bệnh sinh, vì vậy chúng ta chỉ cần nhớ sự thay đổi của áp lực thủy tĩnh và áp
lực keo sẽ gây xuất tiết dịch thấm. Có 3 trường hợp :
- Tăng áp lực thủy tĩnh : như trong hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa, suy tim
phải.
- Giảm áp lực keo (thường do mất protein máu) : như trong hội chứng thận hư, đói
ăn, bỏng nặng.
- Phối hợp cả 2 yếu tố trên : như trong xơ gan.
* Dịch thấm thường gặp trong các bệnh như xơ gan (tăng Ptt trong lòng mạch,
giảm Pkeo trong lòng mạch ), suy tim (tăng Ptt),hội chứng thận hư (giảm
Pkeo ), v v
* Dịch tiết là dịch được tạo thành trong quá trình viêm, hoại tử, ung thư Có thể
nói đây là loại dịch được hình thành một cách "chủ động" do các đáp ứng của cơ
thể đối với tác nhân gây viêm (vi khuẩn, virus, khối u, ung thư, tổ chức hoại tử, dị
nguyên ). còn gọi với cái tên khác là dịch rỉ viêm. Một trong những cơ chế quan
trọng tạo thành dịch rỉ viêm là giãn mạch, tăng tính thấm, giúp các protein, tế bào
thoát mạch đi vào gian bào, do đó làm cho hàm lượng protein trong dịch rỉ viêm
hơn nhiều so với trong dịch thấm thông thường.
Dịch thấm màu vàng chanh vì thành phần chủ yếu là huyết tương.
Dịch tiết thường đục vì có nhiều mủ, máu
Đó cũng là lý do vì sao phản ứng Rivalta trong dịch tiết thì (+) còn trong dịch
thấm thì không.