Kết quả xét nghiệm chức năng gan và chẩn đốn
hình ảnh có giá trị như thế nào trong bệnh lý gan?
Xét nghiệm chức năng gan ( LFTs) dùng để phản ánh tình trạng hoạt động của
gan.. Tuy nhiên ngồi ý nghĩa, lợi ích cũng có hạn chế của xét nghiệm chức năng
gan (LFTs). LFTs không thể xác định được những bệnh cụ thể của gan. Để xác
định cần có xét nghiệm chuyên sâu và đặc biệt hơn. Ngoài ra, để chẩn đốn bệnh
gan cần có kết quả chẩn đốn hình ảnh, như siêu âm gan, chụp cắt lớp và cộng
hưởng từ thường dùng để quan sát hình ảnh gan.
I.Tìm hiểu về xét nghiệm chức năng gan (LFTs)
Xét nghiệm chức năng gan để giúp bác sĩ đưa ra một vài nhận định rằng đang có
vấn đề gì đó với gan. Nhưng đừng hiểu sai về xét nghiệm này. Trong khi LFTs
thường được dùng để phản ánh tình trạng gan đang hoạt động tốt khơng, xét
nghiệm này có thể bị sai vì không phải bất kỳ xét nghiệm máu nào cũng đánh giá
chính xác tất cả các chức năng khác nhau của gan. Vì vậy, chỉ giống như đèn pha
và thiết bị đo trong ô tô, LFTs không phải là dấu hiệu hồn hảo để xác định chính
xác bệnh. Tuy nhiên nó giúp cảnh báo cho bác sĩ rằng có điều gì đó bất ổn với gan.
Hơn nữa nó giúp cho bác sĩ xác định sự cần thiết tiến hành thêm các xét nghiệm
khác. Và khi kết hợp các kết quả xét nghiệm thêm này với LFTs, bác sĩ sẽ có cơ sở
tốt hơn để chẩn đốn liệu gan bị bệnh gì và có đang hoạt động tốt khơng. Bằng
việc lưu giữ một loạt kết quả LFTs từ những tháng và năm trước đó, trong một số
trường hợp cả bác sĩ và bệnh nhân có thể dự đốn liệu tình trạng gan có ổn định
khơng, có được cải thiện khơng, có hồi phục khơng hoặc xấu đi; biện pháp điều trị
có đáp ứng khơng hoặc có cần thử biện pháp khác khơng; và liệu đã đến lúc bệnh
nhân cần phải cấy phép gan chưa.
LFTs bao gồm nhiều xét nghiệm máu khác nhau để kiểm tra nồng độ men gan;
bilirubin; và protein gan. Sau đây là các xét nghiệm này.
1.Men gan
Có 4 men gan khác nhau được đưa vào trong các xét nghiệm thông thường. Đó là
aspartate aminotransferase (AST hoặc SGOT) và alanine aminotransferase (ALT
hoặc SGPT) được biết đến như transaminase; và phosphate kiềm (AP) và gammaglutamyl transferase (GGTP), được biết như men gan mật. Khi các men này tăng
lên có thể biểu hiện của bệnh gan.
a.AST và ALT (transaminase)
AST và ALT thường liên quan đến viêm và/hoặc tổn thương tế bào gan, một tình
trạng được coi là tổn thương tế bào gan. Tổn thương gan điển hình dẫn đến tình
trạng rị gỉ men AST và ALT vào dòng máu.
Do AST được tìm thấy trong nhiều cơ quan khác ngoài gan bao gồm thận, cơ và
tim, việc tăng mức AST khơng phải ln ln (nhưng thường) cho thấy có vấn đề
về gan. Khi hoạt động thể lực mạnh cũng làm tăng nồng độ AST. Mặt khác, do
ALT chủ yếu có ở gan nên nồng độ ALT cao hầu như ln phản ánh tình trạng gan
có vấn đề (tuy nhiên thì mức ALT bình thường khơng nhất thiết có nghĩa rằng gan
bình thường. Điều này được đề cập ở phần sau).
Mặc dù có thể dự đốn được nhưng mức transaminase máu cao không phải luôn
luôn biết mức độ viêm hoặc tổn thương gan. Đây là điểm quan trọng cần phải nhớ.
Khoảng trung bình của AST và ALT tương ứng là 0-40 IU/l và 0-45 IU/l. (IU/l là
đơn vị quốc tế trên lít và là cách thường được dùng nhiều nhất để định lượng
những men đặc biệt này). Nhưng nếu một người có mức ALT là 50 IU/l khơng
phải lúc nào cũng tốt hơn so với người có mức ALT 250 IU/l! Điều này do những
xét nghiệm máu đánh giá sự tổn thương hoặc viêm gan được lấy mẫu vào những
thời điểm đặc biệt. Ví dụ, nếu bị viêm gan và lấy mẫu vào thời điểm bệnh nhân
mới uống rượu vài giờ trước khi lấy máu thì mức transaminase cao hơn nhiều lần
so với những người không uống rượu. Cũng lý do tương tự, nếu gan đã bị tổn
thương từ nhiều năm trước do uống rượu nhiều – kết quả xét nghiệm máu ngày
hơm nay cho thấy bình thường có thể vẫn bị tổn thương gan.
Đi sâu hơn về vấn đề này, có nhiều yếu tố khác ngồi tổn thương gan có thể ảnh
hưởng tới nồng độ AST và ALT. Ví dụ transaminase ở nam cao hơn nữ, nam giới
Mỹ gôc Phi có mức AST cao hơn nam giới da trắng. Thậm chí thời điểm lấy máu
trong ngày cũng ảnh hưởng tới mức transaminase; dường như mức transaminase
vào buổi sáng và trưa cao hơn vào buổi tối. Thức ăn hầu như không ảnh hưởng rõ
rệt tới mức transaminase. Vì vậy, khơng khác biệt rõ rệt giữa lúc đói và lúc bình
thường. Transaminase cũng có thể thay đổi theo ngày.
Đơi điều về khoảng tham khảo bình thường
Khi kết quả xét nghiệm được đưa cho bác sĩ, họ thường so sánh với giá trị thu
được từ một nhóm người khỏe mạnh. Khoảng của giá trị này được gọi là “giá trị
bình thường” được gọi là giới hạn tham khảo hoặc khoảng tham khảo. Giá trị cao
nhất và thấp nhất của khoảng này thường được gọi là giới hạn bình thường trên và
giới hạn bình thường dưới. Khoảng tham khảo này có thể khác nhau chút ít tùy
theo từng thời điểm và tùy vào từng phòng xét nghiệm. Bác sĩ sẽ chú ý đến giới
hạn này khi đọc từng kết quả xét nghiệm cụ thể.
Tỷ lệ ALT và AST cũng có thể mang lại thơng tin có giá trị liên quan đến mức độ
và nguyên nhân bệnh gan. Hầu hết các bệnh gan thì mức tăng ALT cao hơn mức
tăng AST nhưng có 2 trường hợp ngoại lệ. Xơ gan và nghiện rượu thì mức tăng
AST cao hơn mức tăng ALT, thường tỷ lệ này là 2:1.
Mức tăng transaminase xảy ra do quá nhiều nguyên nhân nên chỉ giúp bác sĩ đưa
ra một nhận định không rõ ràng. Cần phải làm thêm các xét nghiệm khác để xác
định chính xác hơn xem gan bị bệnh gì. Những nguyên nhân sau có thể làm tăng
mức transaminase:
Viêm gan do virus.
Gan nhiễm mỡ.
Bệnh gan do rượu.
Bệnh gan do thuốc.
Viêm gan tự miễn.
Nhiễm độc thảo mộc.
Bênh gan di truyền.
U gan.
Suy gan.
Luyện tập gắng sức.
b.GGT và AP (Men gan mật)
Mức GGT và AP tăng có thể là biểu hiện của tắc mật hoặc tổn thương, hoặc viêm
đường mật. Những bệnh này thường có đặc điểm là giảm hoặc khơng lưu thông
đường mật, được gọi là ứ mật. Loại tổn thương gan kiểu này được gọi là tổn
thương gan mật, bệnh gan được gọi là bệnh gan mật (xơ gan mật tiên phát là một
ví dụ của bệnh gan mật). Ứ mật trong gan nói đến tình trạng tắc đường mật hoặc
tổn thương bên trong gan. Ứ mật trong gan có thể gặp ở người bị xơ gan mật tiên
phát hoặc ung thư gan . Ứ mật ngồi gan nói đến tình trạng ứ mật hoặc tổn thương
ngồi gan. Ứ mật ngồi gan có thể xảy ra ở bệnh nhân bị sỏi mật.
Khi bị viêm hoặc tắc đường mật, GGT và AP có thể bị tràn ra như mở kho dự trữ
và đi vào dòng máu. Những men này tăng lên rõ rệt – gấp gần 10 lần giá trị bình
thường ở giới hạn trên.
GGT được tìm thấy chủ yếu trong gan. AP được tìm thấy chủ yếu trong xương và
gan nhưng cũng có thể ở nhiều cơ quan khác như ruột, thận và nhau thai. Vì vậy,
mức AP tăng chỉ phản ánh có vấn đề về gan nếu có kèm theo tăng GGT. Nên nhớ
rằng GGT có thể tăng và khơng kèm theo tăng AP, vì GGT dễ bị ảnh hưởng bởi
rượu và những thuốc có độc tính với gan. Lưu ý rằng, những người hút thuốc
thường có mức AP và GGT cao hơn những người khác với những lý do chưa biết
rõ. Tương tự, nồng độ AP và GGT gần như phản ánh chính xác sau khi nhịn đói
12 giờ. Bắt đầu có sự phức tạp khi đánh giá xét nghiệm chức năng gan bất thường!
Nồng độ AP bình thường vào khoảng 35-115 IU/l, và nồng độ GGTP bình thường
vào khoảng 3-60 IU/L. Một số nguyên nhân sau có thể làm tăng nồng độ AP và
GGTP:
Xơ gan mật tiên phát.
Bệnh gan nhiễm mỡ ở người không nghiện rượu.
Viêm đường mật xơ hóa tiên phát
Bệnh gan do rượu
U gan
Bệnh gan do thuốc
Sỏi mật.
2.Bilirubin
Bilirubin là một chất có màu vàng do gan sản xuất ra khi nó tham gia vào quá trình
tái tạo hồng cầu già. Khi chất này tăng lên, mắt và da cũng có màu vàng (vàng da),
nước tiểu sẫm màu như trà đặc, phân có màu đất sét nhạt. Khi có tăng bilirubin,
trong khi khơng có sự bất thường trong các xét nghiệm liên quan đến gan, thấy rõ
khi thăm khám thực thể, thường đây là những bất thường liên quan tới gan với
phần lớn dân số.
Một cụm từ mà bác sĩ thường được nghe từ bệnh nhân là “tơi khơng thể bị bệnh
gan vì tơi không bị vàng da”. Mọi người thường ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết
những người bị bệnh gan không bao giờ bị vàng da. Thực tế là mức tăng bilirubin
thậm chí khơng liên quan chút nào tới bệnh gan. Sự chuyển hóa của bilirubin phức
tạp và trải qua nhiều bước. Nếu trục trặc ở một trong số những bước này sẽ làm
tăng nồng độ bilirubin. Vì nó có liên quan tới gan, nên mức tăng bilirubin thường
đi kèm với tình trạng gan kém hoặc tắc mật. Một số nguyên nhân sau có thể gẫn
đến tăng bilirubin:
Xơ gan mật tiên phát
Viêm đường mật xơ hóa tiên phát
Viêm gan do rượu
Tan máu – Hồng cầu bị vỡ
Bệnh gan do thuốc
Sỏi mật
Suy gan hoặc tình trạng gan kém nói chung
Những khối u có ảnh hưởng đến gan, đường mật hoặc túi mật.
Viêm gan do virus.
Rối loạn chuyển hóa bilirubin lành tính mang tính gia đình, như hội chứng
Gibert.
Tăng bilirubin thường đi kèm với tăng AP và GGT. Khi tăng đồng thời bilirubin,
AP và GGT có thể bị ứ mật. Tuy nhiên nếu mức bilirubin vẫn bình thường nhưng
GGT và AP cao, thì có thể bị ứ mật khơng vàng da. Những bệnh có đặc điểm
bilirubin cao, GGT và AP cao thường là bệnh gan mật.
3.Protein gan
Albumin, prothrobin (yếu tố II) và globulin miễn dịch là những protein được sản
xuất chủ yếu bởi gan. Khi có bất thường về mức protein này có thể giúp xác định
liệu có bị bệnh gan trầm trọng hay khơng.
4.Albumin
Mức albumin bình thường trong máu khoảng 4g/dl. Khi gan bị tổn thương nghiêm
trọng, nó mất khả năng sản xuất albumin. Những người bị bệnh gan mãn tính đi
kèm với tình trạng xơ gan thường có mức albumin dưới 3 g/dl. Mức albumin thấp
nói chung chỉ tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng kém và khơng chỉ có riêng ở
bệnh gan.
Đơi điều về hội chứng Gilbert
Đôi điều về hội chứng Gilbert là một rối loạn chuyển hóa bilirubin di truyền, rất
phổ biến và lành tính. Nó xuất hiện ở khoảng 4-9% dân số. Chúng có đặc điểm là
tăng mức bilirubin khơng liên tục. Hội chứng này thường được phát hiện khi xét
nghiệm máu thường xuyên, khi xét nghiệm này được tiến hành để đánh giá những
bệnh khác, hoặc trước khi tuyển dụng hoặc trước khi tham gia bảo hiểm. Mức
bilirubin thường tăng tới 3 mg/dl nhưng hiếm khi vượt quá mức 5 mg/dl. Mức
tăng thường rõ rệt khi đói, stress, kỳ kinh nguyệt, hoặc khi bị ốm không phải do
gan hoặc khi bị nhiễm khuẩn. Vàng da là bất thường duy nhất phát hiện thấy khi
khám thực thể. Một số người có những triệu chứng thơng thường như khó chịu
vùng bụng, buồn nơn hoặc mệt mỏi; tuy nhiên một số chuyên gia lại cho rằng
những triệu chứng này là do lo lắng. Tất cả các xét nghiệm chức năng gan đều
bình thường. Khơng khuyến cáo làm chẩn đốn hình ảnh như siêu âm gan và sinh
thiết gan, nhưng nếu làm thì sẽ bình thường. Khơng có biến chứng lâu dài từ hội
chứng vơ hại này và không cần điều trị.
5.Thời gian prothrombin
Gan sản xuất ra phần lớn các yếu tố tạo ra cục máu đông mà cơ thể dùng để ngăn
chặn sự chảy máu. Thời gian để tạo ra một cục máu đông này gọi là thời gian
prothrombin (PT), thông thường khoảng từ 9-11 giây. Vitamin K là một thành
phần quan trọng của q trình tạo cục máu đơng. Nếu gan bị tổn thương nghiêm
trọng hoặc bị thiếu vitamin K (đôi khi xảy ra ở bệnh gan mật như xơ gan mật tiên
phát), PT sẽ kéo dài hơn nhiều so với bình thường, do vậy làm tăng nguy cơ chảy
máu quá mức. Trong một vài trường hợp, tiêm vitamin K giúp PT trở về bình
thường. Khi tiêm vitamin K mà có cải thiện được PT cho thấy rằng gan vẫn còn
chức năng. Khi PT khơng bình thường hóa được khi tiêm vitamin K, tình trạng đó
gọi là bệnh chảy máu (có xu hướng xảy máu quá mức), tổn thương gan nặng và/
hoặc có suy gan. Để điều chỉnh sự khác nhau trong các phịng thí nghiệm cách đo
PT, thường dùng tỷ lệ quốc tế (INR).
6.Globulin miễn dịch
Globulin miễn dịch là những protein liên quan đến hệ miễn dịch, một vài trong số
này được được tạo ra ở gan và một số được tạo ra từ bạch cầu – tế bào máu trắng.
Một vài loại globulin miễn dịch tăng lên ở nhiều người bị bệnh gan mãn tính. Mức
tăng globulin miễn dịch A, G và M (IgA, IgG, IgM) có thể là biểu hiện của bệnh
gan nào đó (xem bảng 3.1)
7.Tiểu cầu
Tiểu cầu là tế bào máu giúp hình thành cục máu đơng. Lá lách đóng vai trị như
một kho dự trữ tiểu cầu. Ở những người xơ gan, lá lách thường phải làm việc
nhiều để bù lại chức năng bị suy giảm do tổn thương gan. Điều này thường làm
cho lách to và số lượng tiểu cầu giảm, được gọi là giảm tiểu cầu. Bình thường tiểu
cầu có số lượng từ 150-400 x 103/ microlit. Nếu bệnh nhân thấp hơn 150 x 103/
microlit được coi là giảm tiểu cầu, và nên nghĩ đến khả năng bị xơ gan.
8.Amoniac (NH3)
Amoniac là một sản phẩm phân hủy của amino acid. Tăng mức ammoniac trong
máu có thể là một dấu hiệu của bệnh não. Một số bác sĩ dựa vào mức ammoniac
để theo dõi bệnh nhân bị bệnh não, nhưng có một vài nghiên cứu cho thấy ít có
mối tương quan giữa nồng độ ammoniac và mức độ của bệnh não, và việc sử dụng
nó vào mục đích này cịn đang cịn gây tranh cãi. Khơng khuyến cáo xác định
nồng độ ammoniac cho bệnh nhân bị bệnh gan, vì bất kỳ bệnh gan nào cũng có thể
làm tăng nhẹ thơng số này và khơng phải là chẩn đốn của bệnh não. Cuối cùng,
có nhiều yếu tố làm tăng giả mức ammoniac mà có thể biết được sự sai số bao
gồm hút thuốc, dùng một vài thuốc nhất định (như acid valproic), tình cờ bị lẫn
mồ hơi vào mẫu máu trong q trình lấy máu và phịng thí nghiệm chậm làm phân
tích máu.
9.Một vài lưu ý cuối cùng về xét nghiệm máu
Nên nhớ một số loại xét nghiệm máu riêng biệt khơng thể dùng để dự đốn sự tiển
triển của bệnh gan. Bản thân những xét nghiệm này ít khi biểu hiện rõ rệt. Chúng
chỉ có ý nghĩa khi kết hợp với một số các yếu tố khác, chúng phải được đánh giá
kỹ lưỡng bởi bác sĩ. Nói cách khác, không nên quá đề cao những xét nghiệm riêng
lẻ này. Mỗi xét nghiệm chỉ là một phần của sự phức tạp. Trong hầu hết các trường
hợp, các xét nghiệm này chỉ đưa ra nhận định rằng có vấn đề gì bất ổn – chỉ là
bước đầu tiên để đi đến sự chẩn đốn chính xác.
Sau khi đánh giá các kết quả xét nghiệm thông thường, thường yêu cầu làm thêm
xét nghiệm máu cụ thể để tìm ra ngun nhân chính xác của các bất thường về
gan. Bảng 3.1 liệt kê các xét nghiệm máu được dùng để chẩn đoán những bệnh
gan cụ thể. Nói chung, khoa xét nghiệm đưa cho bác sĩ kết quả xét nghiệm máu
thơng thường trong vịng 1 hoặc 2 ngày; nhưng kết quả xét nghiệm máu riêng biệt
hơn có thể cần tới 2 tuần, phụ thuộc vào từng khoa xét nghiệm. Thời gian chờ đợi
này thật không dễ dàng gì (bệnh nhân cần phải kiên nhẫn).
Bảng 3.1 Xét nghiệm máu được dùng để chẩn đoán những bệnh cụ thể của gan
Bệnh gan
Viêm
Xét nghiệm máu
Đường lây
gan Kháng thể viêm gan A IgM và IgG
Đường ăn uống
gan Kháng thể nhân viêm gan B (HbcAb)
Đường máu, sinh
A
Viêm
dục, mẹ mang thai
B
Kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HbsAg)
lây con
Kháng thể bề mặt viêm gan B (HBsAb)
Kháng thể e viêm gan B (HBeAb)
Kháng nguyên e viêm gan B (HBeAg)
DNA virus viêm gan B (HBV DNA)
Viêm
C
gan Kháng thể virus viêm gan C (HCVAb)
Đường máu, sinh
dục, mẹ mang thai
Acid Ribonucleic virus viêm gan C (HCV RNA) lây con.
Tăng globulin miễn dịch (IgG)
Viêm
gan Kháng thể kháng nhân (ANA)
Không lây
tự miễn
Kháng thể cơ trơn (SMA)
Kháng thể vi thể thận/ kháng gan (LKMAb)
Tăng globulin miễn dịch G (IgG)
Xơ gan mật Kháng thể kháng (AMA)
Không lây
tiên phát
Tăng globulin miễn dịch M (IgM)
Bệnh
gan Tăng nồng độ cồn trong máu
do rượu
Không lây, do uống
nhiều rượu
Tăng globulin miễn dịch A (IgA)
Thể tích huyết cầu trung bình >95 fl
Thiếu vitamin B12 và acid folic
Mức transferrin đã khử sialic acid
Nhiễm sắc Sắt
Khơng lây
tố sắt mơ
Ferritin
Có tính gia đình
Phần trăm bão hịa transferrin
Khả năng gắn sắt tồn phần (TIBC)
Xét nghiệm gen – sự tương hợp trong ghép mô
kháng nguyên hồng cầu (HLA-H) và phân tích
thăm dị DNA bằng PCR.
Ung
thư Alpha-Fetoprotein (AFP) > 400 ng/dl
Khơng lây
gan
II.Tìm hiểu về chẩn đốn hình ảnh
Sau khi tiến hành xét nghiệm máu, bác sĩ sẽ muốn xem hình ảnh tổng thể của gan.
Vì vậy, bước tiếp theo là đi đến phịng X quang để có được một hoặc hơn hình ảnh
của gan.
Có một số phương pháp được dùng để thu được hình ảnh của gan bao gồm siêu
âm, chụp cắt lớp vi tính hoặc cịn gọi là CT hoặc chụp cắt lớp CAT hoặc chụp
cộng hưởng từ. Tất cả phương pháp này không cần phải can thiệp ngoại khoa, nó
khơng làm đau và có thể tiến hành khi bệnh nhân đang tỉnh và được nằm xuống.
Một hoặc hơn biện pháp này được thực hiện để định vị gan chính xác khi nó bị
nghi ngờ có liên quan tới cơ quan khác; để xác định xem có những khối bất
thường trong gan hay khơng; để đánh giá xem gan có bị to hoặc bị teo hay khơng;
và/hoặc xem có sỏi mật trong túi mật hay không.
1.Siêu âm
Siêu âm được cho là phương pháp chẩn đốn hình ảnh được dùng nhiều nhất để
xem hình ảnh thai nhi ở phụ nữ mang thai, thực tế nó là phương pháp chẩn đốn
hình ảnh được dùng nhiều nhất để xem hình ảnh gan. Đây là phương pháp nhanh
và ít tốn kém để quan sát hình ảnh của cơ quan này. Mặt dù được thực hiện tại
phịng X quang nhưng thực tế khơng sử dụng tia X – sóng âm để thu được hình
ảnh.
Siêu âm thường được tiến hành vào lúc đói. Khi đó túi mật chứa đầy mật và dễ
dàng nhìn thấy sỏi mật. Thực tế có tới 95% số sỏi mật được phát hiện ra nhờ siêu
âm. Siêu âm cũng dùng để phát hiện những khối u trong gan có thể lành tính
(khơng ung thư) hoặc ác tính (ung thư), nhưng nó khơng thể phân biệt được 2 loại
này. Hơn nữa siêu âm có thể ước lượng được kích thước khối u. Tuy nhiên ngay
cả khi siêu âm cho kết quả bình thường, điều này khơng có nghĩa là gan khơng có
vấn đề. Thực tế, có nhiều người bị bệnh gan nhưng kết quả siêu âm vẫn thấy bình
thường. Vì vậy đừng ngạc nhiên nếu bác sĩ yêu cầu làm thêm các xét nghiệm sau
khi siêu âm.
2.Chụp cắt lớp và cộng hưởng từ
Chụp cắt lớp và cộng hưởng từ đưa ra hình ảnh tồn diện hơn của gan liên quan
đến các cơ quan liền kề. Nó thường được sử dụng để đánh giá sâu hơn về khối u
phát hiện được bằng siêu âm. Chụp cắt lớp sử dụng bức xạ gamma bằng cách cho
tia X đi qua gan. Bất kỳ khối u nào đều cản tia X trên đường đi và lưu lại 1 hình
ảnh. Với cộng hưởng từ, bức xạ từ sẽ tạo ra hình ảnh của gan. Cộng hưởng từ hữu
ích trong việc phát hiện ra gan nhiễm mỡ, quá tải sắt, và u mạch máu – một khối u
máu lành tính.
3.Một vài điều kết luận về chẩn đốn hình ảnh
Các phương pháp chẩn đốn hình ảnh đem lại nhiều kết quả có ích làm tăng sự
chính xác trong chẩn đốn. Tuy nhiên, ngay cả các kỹ thuật tiên tiến này cũng
khơng thể biết được tồn bộ quá trình đang diễn ra trong gan. Điều quan trọng là
phải hiểu rằng gan được ngụy trang rất tốt. Ngay cả những người bị bệnh gan nặng
và xơ gan có thể cho kết quả chẩn đốn hình ảnh bình thường. Đây là điều quan
trọng cần nhớ và được lặp đi lặp lại. Siêu âm, chụp cắt lớp và cộng hưởng từ có
thể cho kết quả hồn tồn bình thường tại bất kỳ giai đoạn nào của bệnh gan. Điều
này giải thích tại sao bác sĩ phải dựa vào sinh thiết gan, như một tiêu chuẩn vàng
để đánh giá bệnh gan.
III.Kết luận
Sau khi xem xong phần trên bạn đã có thể hiểu rằng xét nghiệm máu và chẩn đốn
hình ảnh có thể đưa ra một vài nhận định quan trọng, nhưng khơng phải lúc nào
cũng xác định chính xác đang có bệnh gì với gan. Nó cũng khơng giúp đánh giá
được mức độ viêm hoặc tổn thương gan. Sinh thiết gan là xét nghiệm duy nhất có
thể cung cấp chính xác thông tin này. . Nhưng trước hết, điều quan trọng là phải
gặp bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm để xác định khi nào cần làm sinh thiết gan
và có kỹ năng để đọc kết quả và sử dụng nó một cách hiệu quả nhất phục vụ cho
việc điều trị. Điều này cũng lý giải những kỹ năng gì mà bác sĩ chuyên khoa cần
có và có thể thu thập được thông tin này ở đâu và khi nào