Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long - Phần 1: Kinh Nghiệm Hoà Lan (The Netherlands) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.3 KB, 15 trang )

Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
Phần 1: Kinh Nghiệm Hoà Lan
(The Netherlands)
Vấn đề giải quyết lụt lội và thủy lợi ở đồng bằng Cửu Long đã được tranh luận rất
nhiều. Tựu trung ở Việt Nam có 2 khuynh hướng; (i) sống chung với lũ, và (ii) trị
thủy chống lũ lụt. Tác giả sẽ trở lại vấn đề này trong phần tìm một giải pháp thích
hợp cho Đồng bằng Cửu Long. Để có một tầm nhìn rộng lớn cho vấn đề, chúng ta
hãy nhìn những kinh nghiệm về vấn đề này ở trên thế giới và ngay tại Việt Nam.
Phần 1. Kinh Nghiệm Hoà Lan (The Netherlands).

Hoà Lan Vùng ngập lụt (màu sậm) nếu không có đê hiện nay
“Thượng đế tạo ra thế giới, người Dutch tạo ra nước Hoà Lan”. Đó là câu nói của
người Hoà Lan để tự hào về những công trình chống lụt của họ.
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
Khoảng 27% lãnh thổ Hoà Lan hiện nay thấp hơn mực nước biển trung bình 3 m,
có chỗ thấp 7 m như ở Prince Alexander Polder. Khoảng 60% của tòan dân số 16
triệu sinh sống trên vùng đất thấp này. Ngoài ra, vào mùa lụt 70% đất đai sẽ bị
ngập lụt do nước lũ từ các sông tràn ngập nếu hiện nay không có hệ thống đê dọc
theo sông và phụ lưu.
Từ ngữ Netherlands – tiếng Dutch là Nederlanden – có nghĩa là vùng đất thấp
(Pays Bas). Vùng đất phía Bắc và Tây lãnh thổ thấp hơn mực nước biển, nên được
gọi là vùng Hạ Hòa Lan (Low Netherlands), gồm sét và than bùn (peat), chằng
chịt với các hệ thống kinh đào, sông và phá (vụng biển). Phần đất phía nam và
đông là vùng đất cao – vùng Thượng Hoà Lan (High Netherlands) – cao hơn mặt
biển, tương đối bằng phẳng hay có đồi nhỏ, nhưng cao độ không quá 50 m, ngọai
trừ ở vùng Đông Bắc có nơi cao 107 m, và vùng cao nhất là Vaalserberg (321 m) ở
biên giới với Belgium.
Sông chính là sông Rhine chảy từ Đức, với nhiều phụ lưu trên đất nước Hoà Lan,
như Ijssel, Waal và Lek. Phụ lưu Maas, một nhánh của sông Meuse và Schelde
chảy đến từ Belgium. Các sông và phụ lưu này tạo một hệ thống sông ngòi chằng
chịt chạy từ đông sang tây, và khi ra tới Biển Bắc (North Sea) tạo thành tam-giác-


châu (delta) với vô số đảo nhỏ ở phía Tây Nam, hay chảy vào biển Waddezee qua
biển nội địa Zuidezee. Nhờ các cổng-điều-chế-nước (locks) hiện nay trên các sông
chánh hay phụ lưu, tàu bè lớn từ Biển Bắc lưu thông được tới trung tâm Châu Âu.
Đê (dykes), kinh đào (canals), đê đập (dams), cổng-điều-chế-nước, cống-thoát-
nước (sluices), và phong quạt (windmills) là những phong cảnh tiêu biểu của vùng
Hạ Hoà Lan. Những công trình trị thủy này được Hiệp Hội Công Chánh Hoa Kỳ
(American Society of Civil Engineerings) đánh giá là 1 trong 7 kỳ quan của thế
giới hiện đại.
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
Lãnh thổ Hoà Lan càng ngày càng được mở rộng, không phải đi xâm chiếm nước
láng giềng (Đức và Belgium) mà là lấn ra biển. Trong vòng 1000 năm nay, lãnh
thổ gia tăng thêm 1/5 diện tích. Người dân Hoà Lan đã phải tranh đấu với thiên
nhiên, biển cả để tạo nên đất nước xinh đẹp và phồn vinh ngày nay.
Cách đây trên 2000 năm, người Frisians đến vùng này định cư và bắt đầu xây các
“terpens” trên các đụn cát dọc biển, tức các đê biển đầu tiên, để chận nước biển, và
biến biển thành đồng bằng. Trong các thế kỷ sau các nhà tu (monks) tiếp tục làm
đê, đào kinh lấn biển.
Nguyên thủy, vùng duyên hải Biển Bắc của Hoà Lan gồm các đụn cát (dunes). Ở
phía Tây Nam, các đụn đất này bị các cửa sông cắt xén thành lập các tam-giác-
châu với chằng chịt sông ngòi, lạch nước. Ở phía Tây Bắc, các rạch nước biển xen
kẽ với các đụn cát tạo thành dãy đảo West Frisian Islands, và bên trong dãy đảo
này là một biển cạn - biển Waddenzee. Vùng này có thủy triều mạnh và gió bão,
biển xâm thực mạnh nên các công trình đê và bờ biển trên các dãy đảo này dể bị
phá hủy. Chính vùng bên trong của biển Waddenzee này là biển nội địa Zuiderzee
(Biển Nam), có sông Ijssel, một phụ lưu của sông Rhine, chảy đến, là vùng được
người Hoà Lan cải tạo trước tiên. Đây là một quá trình cải tạo kéo dài trên 2,000
năm và vẫn còn tiếp tục.
Như vậy, Zuiderzee nguyên thủy là một biển nằm trong nội địa ăn thông với biển
Waddenzee, có kích thước 100 km dài và 50 km rộng, diện tích khoảng 5,000
km2, nước sâu 4-5 m, với tổng cộng bờ biển khoảng 300 km. Bên trong biển có 4

đảo nhỏ là Wieringen, Urk, Schokland và Marken. Từ nguyên thủy cách đây trên
2,000 năm, các đê biển được xây dựng ven bờ biển nội địa Zuiderzee để chận bão
lụt tràn vào đất liền. Rồi với thời gian, nhiều đê được xây thêm, lấn ra ngoài biển
để thêm đất thổ cư và nông nghiệp.
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
Ngày 14/12/năm 1287, một trận lụt lớn phá vỡ đê biển, giết khoảng từ 50,000 đến
80,000 người, và vì đất thấp hơn mặt biển, trận lụt kéo dài tới mấy chục năm cho
tới khi tái tạo được hệ thống đê mới kiên cố hơn. Hàng năm, dân Hoà Lan tiếp tục
củng cố lại hệ thống đê điều, xây thêm đê biển mới để biến vùng quanh vịnh thành
vùng nông nghiệp, rộng lớn hơn và vững chắc hơn. Cũng nhờ trận lụt này, mà
Amsterdam, từ một làng đánh cá có đê cao và vững chắc bao quanh, trở thành một
hải cảng sầm uất thông thương với thế giới. Trong các thế kỷ tiếp theo, vì bão tố
thường xuyên, nước biển đe dọa phá vỡ đê biển, nên ngoài việc củng cố đê cũ, các
đê mới lần lượt tạo ở bên ngoài, tiến dần ra biển, và một phần biển biến thành các
polders. Tuy vậy, trận lụt ngày 18/11/1421, đê biển lại bị vỡ, 72 làng bị ngập và
10,000 người chết. Các đê biển kiên cố tiếp tục xây và lấn ra biển cả, nhưng chưa
được quy họach toàn bộ. Mãi tới thế kỷ 20, Hoà Lan mới thật sự quy họach phòng
thủ biển cả, chống lụt do biển và sông gây ra.
Năm 1916, một trận lụt kinh hoàng xảy ra, chính phủ Hoà Lan phải xét lại kỹ
thuật, quy họach lại toàn diện chương trình trị thủy, và quyết tâm thực hiện đề án
biến biển vùng Biển Nam Zuiderzee thành đồng bằng an toàn với 5 polders rộng
lớn, gọi là công trình Zuiderzeewerken do Cornelis Lely (1854-1929) chủ quản.
Ngày 01/02/1953, cường triều cộng với bão lớn ở Biển Bắc làm nước biển tràn
qua đê làm 162,000 ha bị ngập lụt, và giết chết 1,800 người, 47,000 nhà bị phá
hủy. Vì vậy, Hoà Lan thực hiện đại công trình thứ 2, ở vùng tam-giác-châu phía
nam, mang tên Deltawerken (Delta Works).
Từ ngàn xưa, để đối phó với sóng biển, triều cường trong mùa bão, đê biển được
xây rất cao, kiên cố, và thường có nhiều đê, đê này sau đê kia, hễ nứơc biển tràn
qua đê này thì còn đê kia ngăn cản. Đê bên ngoài biển gọi là “đê bảo vệ”
(wakende dijk -guarding dyke), kế tiếp là “đê ngủ” (slapende dijk - sleeping dyke),

và đê trong cùng là “đê mơ” (dromende dijken (dreaming dykes).
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
Đại công trình Zuiderzeewerken (Zuiderzee Works).
Đại công trình kéo dài từ 1919 và hoàn thành năm 1986, với sự thành lập tỉnh mới
Flevoland. Mục tiêu chánh của công trình này là bảo đảm chống lụt gây bởi Biển
Bắc và tạo thêm đất nông nghiệp trong vùng biển nội địa Zuiderzee. Thay vì củng
cố lại các đê cũ bao quanh biển nội địa Zuiderzee dài hơn 300 km, công trình
chính quan trọng nhất là thiết lập một đê biển dài 32 km, nối liền 2 bờ của
Zuiderzee, cách ly với biển Waddenzee, và biến biển Zuiderzee thành một hồ nước
ngọt vĩ đại – hồ Ijsselmeer, rồi sau đó từ từ biến một phần hồ thành các polders.

Đại công trình Zuiderzeewerken
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long

Đê Afsluitdijk dài 32 km

Xây đê Afsluitdijk.
Mục đích là tách rời biển Zuiderzee với biển Waddenzee của Biển Bắc bằng một
đê biển kiên cố, và biến Zuiderzee thành một hồ nước ngọt vĩ đại mang tên hồ
Ijsselmeer.
Để rút tỉa kinh nghiệm, một đê ngắn Amsteldiepdijk chỉ dài 2.5 km, nối đảo
Wieringen với nội địa được xây cất trước. Phải mất 4 năm (1920-1924), đê nhỏ
này mới hoàn thành, nhưng nhờ đó học được nhiều kinh nghiệm và phát minh
nhiều kỹ thuật thích ứng.
Với kinh nghiệm này, công trình xây đê Afsluitdijk mới bắt đầu năm 1927 và hoàn
thành năm 1932. Đê dài 32 km, rộng 90 m, cao trung bình trên mực biển là 7.25
m, có chỗ cao tới 19 m, độ dốc 25%. Với kinh nghiệm rút tỉa từ đê
Amsteldiepdijk, vật liệu xây dựng đê biển tốt nhất là sét-băng-hà (till). Sét-băng-
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
hà là trầm tích lắng tụ ngay dưới đáy biển Zuiderzee ở thời đại băng hà, gồm đá

cuội, sét, cát kết chặt thành khối cứng. Dùng máy xáng múc khối sét-băng-hà từ
đáy biển Zuiderzee và chở đổ thành 2 hàng song song làm tường đê, rồi dùng tàu
chở đá, cát và sét đổ vào giữa 2 bức tường sét-băng-hà. Khi đê cao quá mặt biển
thì được phủ một lớp sét-băng-hà dày lên trên. Và đê được tăng cường thêm bằng
đá basalt và một thảm cây liễu sống để bảo vệ đáy đê. Trên mặt đê rải 1 lớp cát, và
trên cùng là lớp sét và được trồng cỏ. Tổng số vật liệu xây dựng đê Afsluitdijk
khoảng 23 triệu m³ cát, 13.5 triệu m³ sét-băng-hà, và trong suốt thời gian xây dựng
trung bình hàng ngày có 4,000 tới 5,000 công nhân. Tổn phí xây dựng đê vĩ đại
này khoảng 700 triệu Euro (theo thời giá 2004).
Song song với việc xây dựng đê biển Afsluitdijk, còn phải xây 2 hệ thống ở 2 đầu
đê, gồm 2 cổng-điều-chỉnh-nước (để tàu bè di chuyển ra vào), và hệ thống tháo
nước gồm 28 cống (sluices). Tiếp theo là xây dựng các polders.
Xây dưng polders
Polders là những vùng đất thấp dưới mực nước biển, lớn nhỏ tuỳ nơi, nhỏ chừng
vài trăm ha, lớn có thể tới 250,000 ha, có đê bao ngạn chung quanh để ngăn chận
nước biển và nước lụt. Một khi hoàn tất đê bao quanh, hệ thống kinh (canals) bên
trong polders được đào để rút nước (nước mưa và nước biển xâm nhập), và nhiều
hệ thống bơm nước ra khỏi polders để làm đất khô, và sau một thời gian biến
thành đất trồng trọt và thổ cư, làng mạc hay thành phô. Lần lượt các polders được
xây dựng, kế tiếp nhau, và tiến ra biển cả. Kể từ thiên niên kỷ 1200, xa gió
(windmills) thay thế sức người và sức thú vật để bơm nước ngày đêm ra khỏi
polders. Trong vòng 200 năm nay, máy bơm khổng lồ chạy điện hay diesel được
thay thế.
Từ thế kỷ thứ 10, dọc theo biển đã có hệ thống đê biển do người Romans thực
hiện, nhưng chưa vững chắc. Người Hoà Lan thật sự xây dựng đê và polders vào
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
thế kỷ 19, đầu tiên với Harlemmermeer (Hồ Harlem), gần Amsterdam. Nguyên
thủy đây là vùng thấp, than bùn được khai thác làm nhiên liệu và với thời gian trở
thành các hồ nước (mặn), các hồ càng ngày càng lớn, và vì bị gió sóng biển mạnh
làm xoi mòn bờ hồ, có cơ đe dọa Amsterdam. Các kỹ sư Hoà Lan bèn xây một bức

tường đất – tức đê – và kinh đào chung quanh hồ, rồi bơm nước từ hồ qua đê đổ
vào kinh, và kinh dẫn nước ra sông rồi ra biển. Hồ cạn nước và trở nên khô –
polder thành hình, trở thành đất trồng trọt, chăn nuôi, xây cất nhà cửa, đường sá,
thành làng mạc hay thành phố. Polder lớn nhất là tỉnh Flevoland với diện tích tổng
cộng 2415 km
2
.
Sau khi cách ly được với biển Waddenzee nhờ đê Afsluitdijk, biển Zuiderzee nay
trở thành một hồ nước hiền lành, các kỹ sư bắt đầu thiết lập các polders. Cũng vậy,
một thí điểm polder được thực hiện trước để rút tỉa kinh nghiệm.
Polder Andijk chỉ rộng 40 ha được làm năm 1926 và hoàn thành 1927 để lấy kinh
nghiệm.
Polder Wieringermeer. Polder lớn hơn đầu tiên là Wieringermeer, bắt đầu xây
1927, hoàn thành năm 1929, và được bơm cạn hoàn hoàn năm 1930, và bắt đầu
canh tác năm 1934. Tổng công diện tích polder Wieringermeer là 308 km², diện
tích thổ cư và canh tác là 195 km², với dân số sống trong polder là 13,000 người
(2007). Việc xây dựng con đê biển dài 18 km gặp nhiều khó khăn, ví lúc đó đê
Afsluitdijk chưa hoàn thành, nên sóng biển cản trở công việc. Việc bơm nước ra
khỏi polder được thực hiện bởi 2 trạm bơm khổng lồ, một chạy bằng diesel, và
trạm kia chạy điện, và một hệ thống an toàn bảo đảm máy bơm chạy liên tục, nếu
hệ thống này bị hỏng, hệ thống kia vẫn có khả năng bơm nước. Hai hệ thống bơm
này vẫn chưa thễ bơm hết nước, để cho đất khô được. Muốn vậy, bên trong polder
phải có hệ thống kinh mương lộ thiên để thâu nhận nước rỉ từ bùn trên mặt, để dẫn
tới mương chánh có trạm bơm. Một khi đất khô dần, đất bị lún sụp, có nơi lún tới
cả thước. Một khi đất đã đình đậu, không bị lún sụp nữa, hệ thống mương nhỏ lộ
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
thiên được thay thế bằng ống thoát nước ngầm đặt trong lòng đất. Để biến thành
đất canh tác, khi đất chưa thoát thủy hoàn toàn, khi còn bùn, hạt giống cỏ sậy
(Phragmites australis) được máy bay gieo rải. Thảm cỏ sậy giúp đất khô nhanh, hệ
thống rể giúp cải tạo kiến trúc đất, và ngăn các lọai cỏ dại khác mọc. Khi đất vừa

khô, đốt cỏ sậy và gieo cải dầu (oilseed rape, Brassica napus). Năm thứ 3, mới bắt
đầu gieo lúa mì (wheat), năm 4 lúa mạch (barley) và năm 5 lúa oat. Bắt đầu năm
thứ 6, nông gia có thể canh tác hoa màu khác, tuỳ ý. Với kinh nghiệm tích lủy, các
polders lớn khác lần lượt được xây dựng.
Noordoostpolder (Northeast-polder). Vì khó khăn tài chánh, polder này bắt đầu
thực hiện năm 1936. Gồm 2 đê, dài tổng cộng 55 km. Thế chiến bùng nổ, công tác
bị đình trệ, cho tới cuối năm 1940 các đê mới hoàn thành, thoát nước hoàn tất vào
tháng Chín năm 1942, và 480 km2 đất mới được tạo thành.
Flevolands. Công tác xây dựng các polders khác bị đình trệ bởi Thế Chiến II. Sau
thế chiến, công trình tiếp tục với các polders vĩ đại hơn, rộng 1000 km², nay trở
thành tỉnh Flevoland. Đầu tiên polder Đông Flevoland được thành lập trứơc, bắt
đầu năm 1950 và hoàn thành 1956, với diện tích 540 km², cách ly với đất liền bởi
một kinh đào, và bao quanh bởi một con đê dài 90 km. Việc bơm nước nhờ vào 3
trạm bơm, 1 chạy diesel, và 2 chạy điện. Polder Nam Flevoland xây dựng từ đầu
1959 và hoàn tất 1967, với con đê dài 70 km, có diện tích 430 km², với chỉ một
trạm bơm diesel. Ngày 01/01/1986 Hoà Lan có thêm một tỉnh Flevoland mới, do
xáp nhập polder Đông và Nam Flevoland với một phần đất polder Đông Bắc của
công trình Zuiderzee. Tỉnh Flevoland có diện tích đất là 1,419 km², với cư dân
370,000 (năm 2005) và 6 thành phố lớn. Thủ đô của tỉnh là Lelystad, đặt theo tên
của vị cha đẻ công trình là Cornelis Lely (1854-1929).
Polder Markerwaard. Bắt đầu thực hiện năm 1963, bằng một đê dài 28 km mang
tên đê Houtribdijk hay Markerwaarddijk, chia hồ IJsselmeer làm 2 phần, phần phía
bắc vẫn mang tên hồ Ijsselmeer (rộng 1250 km2), hồ phía nam con đê mang tên
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
Markermeer (rộng 700 km2). Việc thực hiện tiếp bị đình chỉ vì thấy chưa cần thiết.
Đê Houtribdijk hiện làm một xa lộ nối liền đông và tây xuyên qua hồ Ijsselmeer,
và vùng Markerwaard hiện nay là vùng nghĩ hè và bão tồn sinh thái.
Đại công trình Deltawerken (Delta Works)
Song song với đại công trình Zuiderzeewerken (1919-1986), chính phủ Hoà Lan
thực hiện công trình Delta (1950-1997) trên Tam Giác Châu thuộc phụ lưu sông

Rhine – Meuse ở Tây Nam Hoà Lan. Công trình gồm việc thực hiện đê đập, đê
biển, đê-chống-bão, cống-thoát-nước, và cổng-đều-chỉnh nước cho tàu bè thông
thương. Nhờ vậy, tạo được nhiều hồ chứa nước ngọt, rút ngắn đường giao thông
và đê duyên hải, nên công tác bão trì trong tương lai sẽ ít tổn phí và dễ dàng hơn
việc bão trì nhiều hệ thống đê cũ chạy ngoằn nghèo ở bên trong. Tổng cộng tổn
phí khoảng 6.81 tỉ Euro. Cũng nhờ thực hiện công trình Deltawerken, nhiều kỹ
thuật làm đê mới được áp dụng, và nhiều tàu đựơc đóng chỉ dành cho kỹ thuật tân
tiến này. Rottendam là hải cảng lớn nhất thế giới mà hàng hải là ngành kinh tế
hàng đầu của Hoà Lan. Ngoài ra, khoá kín biển sẽ làm hư hại môi trường bên
trong tam-giác-châu. Để duy trì tàu bè thông thương nhộn nhịp, và ngành ngư
nghiệp nội địa không bị ảnh hưởng, các kỹ sư thủy lợi phải thiết kế lại các cổng-
điều-chỉnh-nước, cống-tháo-nước, cầu, v.v. để thế nào nước biển của Biển Bắc
thông thương được với hồ nước nội địa, tàu bè có thể qua lại dễ dàng, cá hồi
(salmon) có thể di chuyển vào ra để sinh sản, v.v., nhưng khi cần thì có thể khoá
kín hoàn toàn, không cho lụt biển, triều cường xâm nhập nội địa. Cũng như công
trình Zuiderzeewerken, để rút tỉa kinh nghiệm và thử nghiệm kỹ thuật mới thiết kế,
các kỹ sư thủy lợi bắt đầu thực hiện trước những dự án nhỏ, dễ dàng nhất ở công
trình Deltawerken.
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long


Đại công trình Deltaweerken

Năm 1950, 2 cửa vịnh nhỏ ở Brielle và Vlaardingen được chắn đê biến thành hồ
nước.
Tiếp theo là khoá cửa vịnh Oosterschelde, Haringvliet và Grevelingen bằng một
con đê biển dài 700 km. 17 cống-thoát-nước trên đê Haringliet có khả năng tháo
21,000 m3/giây. Hai cửa Vịnh ở Nieuwe Waterweg và Westerschelde được tàu bè
thông thương đến Rotterdam và Antwerp nhờ các cổng-đều-chỉnh-nước tân tiến.
Đê dọc thủy lộ này cũng được nâng cao hơn và vững chắc hơn. Đồng thời các

công trình xa lộ, cầu cống trong vùng này được xây dựng hay tái thiết. Vì áp lực
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
của nhóm bảo vệ môi trường và các nông dân nuôi sò, thay vì biến hồ
Oosterschelde thành hồ nước ngọt, nay phải để nước biển chảy vào, vì vậy các
cống-chống-cường triều được thiết kế lại. Bình thường, các cống này mở để nước
biển chảy vào, hay rút ra theo thủy triều, nhưng khi có bão, khi cường triều cao
quá 3 m trên mực biển, thì tự động các cống-chống-cường-triều đóng kín.
Kỹ thuật mới được áp dụng khi làm đê Braakman. Vùng này có thủy triều cao, với
dòng hải lưu chảy mạnh, đê bình thường không thực hiện được vì bị trôi. Dùng các
khối vuông rỗng bằng ximăng cốt sắt tiền chế –gọi là phoenix caissons- xếp thẳng
hàng, đổ cát đầy rồi trét kín mặt với ximăng. Sau đó, đê được xây trên khối
ximăng chứa cát tiền chế này.
Công trình Delta hoàn thành năm 1997, sau gần 50 năm thực hiện, và đó là công
trình chống lụt biển lớn nhất thế giới, tổng cộng 16,493 km đê biển, gồm 2,415 km
đê chánh và 14,077 km đê phụ, với tổng cộng 15 công trình chính.
Vì hiệu quả hâm nóng toàn cầu, với nguy cơ nước biển dâng cao, đồng thời với
nền móng nước Hoà Lan đang sụp lún, chánh phủ Hoà Lan từ 1996 đang tăng
cường làm cao thêm với nền móng đê vững chắc hơn cho khoảng 400 km đê hiện
hữu và phải hoàn thành năm 2015.
Chống ngập lụt do sông
Sông Rhine khi vào lãnh thổ Hoà Lan chia thành nhiều phụ lưu, quan trọng là
Ijssel chảy vào Zuiderzee (nay là hồ Ijsselmeer), và Waal cùng với sông Maas
(phụ lưu của sông Meuse) chảy vào Tam-Giác-Châu phía nam.
Từ ngàn xưa, để ngăn lụt từ nước các sông này dâng cao trong mùa mưa lũ (mùa
đông), mỗi một bên bờ sông xây 2 đê kiên cố. Đê kế dòng sông gọi là “đê-mùa-
hè” (mùa có ít mưa, lụt), có nhiệm vụ ngăn lụt nhỏ, nếu có, trong mùa hè; và đê
bên ngoài là “đê-mùa-đông” (mùa lũ lụt chính), là đê chánh, cách xa sông, có
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
nhiệm vụ không cho nước lũ tràn vào đồng hay vào các polders. Trong mùa hè,
khoảng đất giữa 2 đê-mùa-hè và đê-mùa-đông khô ráo, dùng làm đồng cỏ hay

canh tác, nhưng vào mùa đông, nó trở nên ngập lụt và khoảng đất giữa 2 đê-mùa-
đông thành một dòng sông lớn, nhờ vậy làm giảm sức chảy tránh phá vỡ bờ đê
(đê-mùa-đông) gây lụt.


Vùng ngập lụt do sông ở Hoà Lan hiện nay
Ngày 02/02/1995, mưa lũ ở Pháp và Đức làm sông Rhine và Meuse ngập lụt,
nước sông Rhine tại Lobith (biên giới với Đức) dâng cao 13.48 m trên mực biển.
Chính quyền sợ rằng các đê dọc các sông này trong lãnh thổ Hoà Lan không thễ
chống cự nổi với áp lực nước ở thượng lưu nên phải ra lệnh 250,000 dân ở vùng
Đông và trung tâm Hoà Lan phải di tản. Mặc dầu không bị vỡ đê, hay nước tràn
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
qua đê, chính phủ Hoà Lan lập tức có chương trình khẩn cấp 1.2 tỉ USD để củng
cố lại hơn 800 km hệ thống đê dọc sông và dự trù phải hoàn thành trước 2008.
Nếu các đê này vỡ, 70% lãnh thổ Hoà Lan sẽ chìm ngập dưới 6 m nước.
Với hệ thống đê biển và đê sông hiện tại, các kỹ sư thủy lợi Hoà Lan cam đoan
rằng dầu mực nước biển có dâng cao thêm 1 m và với vũ lượng gia tăng thêm 25%
ở Tây Âu do hậu quả hâm nóng toàn cầu, Hoà Lan sẽ vẫn an toàn. Tuy vậy, chính
phủ Hoà Lan lúc nào cũng cảnh giác vấn đề nghiêm trọng này.
Tái tạo sinh môi.
Với hệ thống đê biển vững chắc, nước mặn không còn xâm nhập vào nội địa, sinh
môi vùng nước mặn, nước lợ bị hủy họai. Hồ Grevelingen trở thành nước ngọt khi
con đê biển Brouwerdam dài 6 km hoàn thành (1971), động và thực vật nước mặn
bị hủy diệt. Vì vậy, năm 1978 một cống nước được thiết lập trên đê này để nước
biển thông thương lại với hồ, nhờ vậy môi trường biển được tái tạo và động thực
vật biển được tái sinh trong hồ này. Cũng vậy, việc tái tạo môi sinh cũng được
thực hiện ở Hồ Haringvliet
Giải quyết vấn đề ô nhiễm.
Sông Rhine bị ô nhiễm rất nặng, mà Hoà Lan ở hạ lưu nên nhận nhiều hậu quả,
nhất là ở Hồ Ketelmeer. Để giải quyết vấn đề này, các kỹ sư Hoà lan làm một đê

vòng tròn, đường kính 1 km ở giữa Hồ Ketemeer, đê cao hơn mặt nước hồ 10 m,
bên trong đào sâu 45 m, vách đê bên trong được hàn kín. Polder đặc biệt này dùng
để chứa các chất thải do xáng múc từ hồ.
Nếu không có hệ thống đê biển và đê sông, 70% lãnh thổ Hoà Lan sẽ chìm sâu 6m
khi có lụt do biển hay sông. Người Hoà Lan đã phấn đấu liên tục trên 2,000 năm
nay để có một đất nước giàu đẹp hiện nay. Chính phủ, quốc hội, nhân dân, các nhà
khoa học, nông gia, các nhà bảo vệ môi trường, v.v. cùng ngồi chung với nhau để
Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng sông Cửu Long
giải quyết việc sống còn của đất nước họ. Vì vậy không có nhiều mâu thuẫn chính
trị, xã hội, kinh tế trong vấn đề giải quyết vấn đề lụt lội ở Hoà Lan. Tất cả đều
nhắm đến tương lai lâu dài cho một đất nước Hoà Lan phồn thịnh.

×