Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

phân tích tình hình xóa đói giảm nghèo tại trung quốc và việt nam , từ đó rút ra bài học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.8 KB, 34 trang )

Lời mở đầu
Thế giới đã tiến vào thập niên đầu của thế kỷ XXI với một nền văn minh rực
rỡ nhưng cũng ngổn ngang những vấn đề gay gắt mang tính toàn cầu. Nó chứa
đựng trong mình cả niềm vui và sự bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt, cả hạnh phúc
và lo toan. Một trong những nỗi lo toàn cầu, nỗi đau nhân loại là sự đói nghèo trầm
trọng trên một phạm vi vô cùng rộng lớn. Đói nghèo diễn ra trên tất cả các châu lục
với những mức độ khác nhau. Đặc biệt ở các nước đang phát triển, sự đói nghèo
của dân cư đang là một vấn đề nhức nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vô
cùng khó khăn trong việc thực hiện xóa đói giảm nghèo. Theo ước tính của Ngân
hàng thế giới, hiện vẫn còn khoảng 3 tỷ người trên hành tinh của chúng ta phải
sống trong cảnh nghèo đói với mức thu nhập dưới 1 đến 2 USD/ngày.
Như thế đủ thấy đói nghèo và giải quyết vấn đề nghèo đói mang tính phổ biến,
không chỉ là công việc của riêng nước ta. Tuy nhiên, để hiểu về chương trình xóa
đói giảm một cách đầy đủ, cần thiết phải có cách nhìn tổng quan, cần “biết người
biết ta” để rút ra những bài học và tìm ra những phương pháp hữu hiệu. Chính vì
vậy, chúng em chọn đề tài: “Vấn đề xóa đói, giảm nghèo…”. Bài tiểu luận này sẽ
phân tích tình hình xóa đói giảm nghèo tại Trung Quốc- một quốc gia thành công
trong vấn đề này và tại Việt Nam trong thời gian qua, từ đó rút ra những bài học từ
nước láng giềng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xóa
đói giảm nghèo trong thời gian tới. Chúng em rất mong nhận được những ý kiến
nhận xét của cô để tiếp tục hoàn thiện đề tài này tốt nhất. Chúng em chân thành
cám ơn cô.
I. Thành qủa xóa đói giảm nghèo ở Trung Quốc.
Xóa đói giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình
phát triển của các quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc. Nhờ những cố gắng tích cực
của mình trong nhiều năm liên tục, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng
kể trong cuộc chiến chống đói nghèo kể từ cuối những năm 70; trở thành một trong
những điểm sáng nổi bật về xóa đói giảm nghèo trong khu vực Châu Á cũng như
Thái Bình Dương. Số người nghèo ở Trung Quốc giảm mạnh từ 250 triệu người
năm 1978 xuống còn 50 triệu người năm 1997. Việc giảm quy mô nghèo đói đó
trong một thời gian ngắn như vậy là chưa từng có trong quá khứ và được xem là


một trong những thành tựu lớn nhất trong sự phát triển con người trong thế kỉ 20.
Gắn liền với sự phát triển của xã hội, kinh tế , các chính sách và chiến lược xóa đói
giảm nghèo, những thành quả xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc có thể thấy rõ
qua 4 giai đoạn: 1978-1985, 1985-1993, 1994-2000, 2001-2011.
1. Giai đoạn 1 (1978- 1985)
Trước năm 1978, số người dân Trung Quốc sống dưới mức nghèo mà chính
phủ nước này đề ra vượt quá 250 triệu người và chiếm tới 33% tổng số dân sống ở
nông thôn. Mặc dù, tình trạng nghèo đói nghiêm trọng này đã gây ra rất nhiều vấn
đề, một vấn đề nghiêm trọng trong số đó là việc nắm giữ đất đai của những người
không có mong muốn sử dụng nó để sản xuất trong cộng đồng. Nói cách khác, hệ
thống vận hành của ngành nông nghiệp là không phù hợp cho sự phát triển. Do đó ,
sự thay đổi trong hệ thống nay được xem như một biện pháp quan trọng cho việc
giảm nghèo đói.
Sự cải cách này bao gồm hai mảng chính. Thứ nhất là trong cơ cấu của những
người chủ ruộng đất, hệ thống sản xuất tập trung của cộng đồng đã được thay thế
bằng việc quy trách nhiệm cho từng hộ gia đình, nghĩa là gắn liền cho họ tự quyết
định về việc sản xuất của mình, gắn liền giữa công sức, tiền của họ bỏ ra để sản
xuất với sản phẩm mà cá nhân hay hộ gia đình đó thu được. Sự thay đổi này đã
khuấy động được tinh thần của nông dân, nhận được sự hưởng ứng tích cực từ họ.
Năng suất lao động được giải phóng trong khi đầu vào ngày càng tăng lên. Thứ hai,
là sự tự do hóa trong giá của các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường; hệ thống
thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp đã được xây dựng lại. Các công ty kinh
doanh được thúc đẩy phát triển do lượng vốn lớn đầu tư vào ngành nông nghiệp và
các công ty này. Nhờ những sự thay đổi này, đất đai đã được khai thác toàn diện và
sử dụng hợp lý.
Nền kinh tế quốc dân phát triển rất nhanh. Sự gia tăng trong giá của các sản
phẩm nông nghiệp cùng với áp dụng máy móc hiện đại hơn vào trong sản xuất
nông nghiệp tao ra giá trị gia tăng lớn hơn của các sản phẩm đầu ra. Lao động ở
nông thôn đã được thuê hay kiếm được việc làm trong những ngành không phải
nông nghiệp. Những người dân nghèo đã được lợi từ những thay đổi này, rất nhiều

người nông dân thoát khỏi mức nghèo và tình trang lạc hậu. Trong những năm
1978- 1985, tổng số dân sống dưới mức nghèo của quốc gia này đã giảm từ 250
triệu người xuống còn 97 triệu người, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 33% xuống 9.2%
(theo Ngân hàng thế giới,1996). Sự nghèo đói của con người cũng giảm cùng với
sự nghèo về thu nhập. Ví dụ như, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh trên 1000 trẻ được sinh
ra đã giảm từ 52 vào cuối những năm 70 xuống còn 50 vào giữa những năm 85
(Zhang, 1996).
2. Giai đoạn hai (1986-1993)
Vào giữa những năm 80, hầu hết các vùng nông thôn đã đạt được sự phát triển
kinh tế nhanh chóng nhờ những lợi thế riêng của từng vùng. Tuy nhiên, do xã hội,
kinh tế, lịch sử, điều kiện địa lý, và những sự hạn chế mà khoảng cách giữa những
vùng kém phát triển của Trung Quốc với những vùng khác, mà đặc biệt là những
vùng phát triển nhanh ngày càng gia tăng. Vấn đề phát triển không đều giữa các
vùng nông thôn đã bắt đầu xuất hiện. Cùng với sự gia tăng thu nhập ở nhiều vùng
nông thôn của Trung Quốc, một bộ phận lớn người dân có mức thu nhập thấp.
Nhiều người trong số họ không thể nuôi sống chính mình, không thể tự đáp ứng
được những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống; không đủ thức ăn, quần áo hay không
có nhà để ở. Do đó, tiến độ đói giảm nghèo đã bị đổi chiều. Tỷ lệ nghèo ở nông
thôn đã tăng từ 10.4% lên 12.3 %. Tỷ lệ người nghèo ở thành thị tăng từ 0.2% năm
1988 lên 0.4% năm 1990 và tỷ lệ người lớn mù chữ tăng lên từ 23.5% năm 1982
lên đến 26.8% năm 1987 (SSB).
Những người dân nghèo thường tập trung chủ yếu ở một số vùng nhất định,
chủ yếu là những vùng kinh tế kém phát triển ở miền trung và tây của Trung Quốc.
Nhiều khu vực trong số đó là những cơ sở cách mạng cũ, những vùng nhỏ xa xôi
hay ở biên giới. …. Do đó chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhiều chương trình
quan trọng để giải quyết vấn đề nghèo đói ở vùng nông thôn, chẳng hạn như năm
1984, chính phủ đưa ra “ Khai báo về thay đổi tình trạng nghèo đói ở nông thông
trong một thời gian ngắn” đòi hỏi sự tập trung cao độ của chính quyền các cấp, các
giải pháp hiệu quả cùng thái độ tích cực; hay năm 1886, chính phủ Trung Quốc đã
thành lập tổ chức giúp đỡ pháp triển kinh tế ở những vùng nghèo được điều hành

bởi chính phủ. Bên cạnh những nỗ lực của nhà nước qua các chương trình xóa đói
giảm nghèo được tổ chức ở rộng khắp ở Trung Quốc, người nông dân cũng xây
dựng những chương trình đầu tư của chính họ, để giải quyết những vấn đề liên
quan đến cuộc sống của chính mình ; giảm nghèo đói và có cuộc sống tốt hơn. Cuối
năm 1992, sau 7 năm thực hiện các hoạt động xóa đói giảm nghèo với định hướng
phát triển, số người nghèo ở vùng nông thôn đã giảm còn 80 triệu người, chiếm tỷ
lệ 8.8% dân số( Nguồn World Bank).
3. Giai đoạn thứ ba (1993- 2000)
Sự ra đời của kế hoạch xóa đói giảm nghèo 8-7 (1994-2000) đã mở một trang
mới trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc. Điểm chính của kế
hoạch 8-7 này là chính phủ Trung Quốc sẽ cố gắng loại bỏ sự nghèo khổ tuyệt đối
trong vòng 7 năm thông qua các chính sách thuế, hỗ trợ tài chính và các chương
trình phát triển xã hội. 592 vùng nghèo nhất được chọn ra từ hơn 2000 khu vực của
Trung Quốc, được xem như “ các vùng nghèo quốc gia”. Người ta đã dự tính rằng
nhiều hơn 70% trong số 80 triệu người nghèo tập trung ở 592 vùng này có điều
kiện môi trường rất kém với điều kiện kinh tế xã hội lạc hậu vào năm 1994. Qua
các năm nỗ lực đó, dân số thuộc diện nghèo đã giảm xuống đáng kể còn 32.1 triệu
người và chiếm tỷ lệ 3.4% vào cuối năm 2000. (nguồn World Bank)
4. Giai đoạn thứ 4(2001-2010)
Chương trình xóa đói giảm nghèo theo định hướng phát triển giai đoạn 2001-
2010 đã được chính phủ Trung Quốc xúc tiến và áp dụng, với mục tiêu giải quyết
những vấn đề cơ bản về cuộc sống của những người thuộc diện nghèo tuyệt đối, và
giúp nhóm thu nhập thấp nâng cao khả năng phát triển của họ. Chương trình này đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Công việc xóa đói giảm nghèo không chỉ để giải
quyết những khó khăn trong cuộc sống của người nghèo mà nó cũng giúp đỡ những
người cận nghèo bằng việc nâng cao khả năng chống đỡ cuộc sống của họ qua nhờ
nâng cao thu nhập, đời sống cũng như điều kiện làm việc. Bên cạnh đó, chương
trình đã tập trung phát triển một cách tổng thể, toàn bộ về nhiều mặt như nâng cao
cơ sở hạ tầng, giáo dục, chăm sóc sức khỏe cộng đồng và văn hóa; thông qua đó tạo
nên một sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội của những vùng khó khăn. Kể

từ năm 2001, cả số lượng lẫn tỷ lệ người nghèo đều giảm theo thời gian. Năm
2003, khi chương trình đang được tiến hành, việc xóa đói giảm nghèo đã có những
tiến bộ dễ thấy; số người nghèo tuyệt đối chỉ còn 29 triệu người chiếm 3.1% dân
số, số người có thu nhập thấp ( những người sống trên mức nghèo nhưng thu nhập
vẫn bị xếp vào mức thấp ) là 52.6 triệu người (chiếm 6% dân số ) ( Theo Ngân
hàng thế giới ).
5. Nhận xét chung về thành quả giảm đói nghèo ở Trung Quốc
Như vậy, trong suốt thời gian hơn 30 năm kể từ khi cải cách kinh tế, công
cuộc xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc đã được quan tâm và tiến hành liên tục;
đạt được nhiều thành tựu ấn tượng về nhiều mặt.
Thành tựu đầu tiên có thể thấy dễ dàng nhất là số lượng người nghèo giảm
mạnh. Dân số nghèo tuyệt đối ở vùng nông thôn đã giảm từ 250 triệu người( chiếm
30.7%) năm 1978 xuống còn 14.17 triệu người (chiếm 1.6%) năm 2007. Số dân có
mức thu nhập thấp giảm từ 62.13 triệu người năm 2000 xuống còn 28.41 triệu
người năm 2007( theo World Bank).
Thứ hai, thu nhập của các hộ gia đình ở nông thôn liên tục tăng lên. Từ năm
2003 đến năm 2008, thu nhập dòng trung bình của các hộ dân ở vùng nông thôn
nghèo tăng từ 303 yuan lên tới 2611 yuan.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng ở vùng nông thôn ngày càng được nâng cấp. Hệ thống
đường xá trở nên thuân tiện hơn do nhiều con đường được mở mới hoặc sửa chữa
lại. Bên cạnh đó, điện cũng như điện thoại ngày càng được mở rộng đến khắp mọi
vùng trên cả nước.
Thứ tư, xã hội ngày càng phát triển hơn. Giáo dục, chăm sóc y tế công cộng
hay văn hóa ngày càng được chú trọng và phát triển. Từ năm 2002 đến năm 2008,
tỷ lệ trẻ học mẫu giáo ở các làng quê tăng từ 7.38% đến 55.2%. Tỷ lệ người mù chữ
đã giảm xuống rất thấp, giáo dục được phổ cập ở nhiều cấp lớp. Số lượng bác sĩ, y
tá ngày ở các bệnh viện tại những vùng khó khăn ngày càng tăng cũng như trang
thiết bị y tế đã dần dần được cải thiện, nâng cấp.
Tóm lại, trong thời gian qua, công cuộc xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc

đã đạt được nhiều thành quả đáng kể, đóng góp vào công cuộc xóa đói giảm nghèo
chung của thế giới và trở thành bài học kinh nghiệm cho nhiều nước đang phát
triển.
II. Chiến lược xóa đói giảm nghèo của Trung Quốc
1. Chính sách cải cách và mở cửa, đổi mới thể chế
Chính sách cải cách kinh tế ở Trung Quốc đã mang lại thành tích đang kể
trong phát triển kinh tế, góp phần không nhỏ vào việc đẩy nhanh xóa đói giảm
nghèo.
Giai đoạn 1978-1984:
Trước 1978, số người nghèo của Trung Quốc vượt quá 250 triệu người, chiếm
33% dân số khu vực nông thôn. Nguyên nhân là do năng suất lao động thấp, hệ quả
của chính sách tập thể hóa nông nghiệp sau 10 năm tiến hành cải cách Văn hóa-
‘Đại nhảy vọt’. Nhằm khắc phục khủng hoảng, vực dậy kinh tế nông thôn, Cải cách
ruộng đất Trung Quốc được tiến hành từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11,
với chủ trương phi tập thể hóa khu vực nông nghiệp của Đặng Tiểu Bình với chính
sách khoán sản lượng cho từng hộ gia đình, cụ thể là Hệ thống trách nhiệm gia đình
(HRS- Household responsibility System) vào những năm 1980 tại Trung Quốc:
giao đất cho từng hộ gia đình & định mức thu, lượng sản phẩm ngoài định mức hộ
gia đình được giữ lại. Chính sách này giúp các hộ gia đình chủ động kiểm soát và
tìm biện pháp nâng cao năng suất. Cải cách ruộng đất thời kì này đã đạt được
những thành tựu đáng kể như từ 1981 đến 1984, số người nghèo ở nông thôn giảm
từ 250 triệu vào năm 1978 xuống còn 125 năm 1985 theo chuẩn nghèo danh
nghĩa
(1)
Chính sách khoán sản lượng đã đem lại những thành tựu đáng kể trong xóa
đói giảm nghèo ở giai đoạn đầu cải cách. Tuy nhiên hiện nay, khó khăn đặt ra đối
với Chính phủ Trung Quốc là do qui mô sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, chi phí sản
xuất cao, kết cấu hạ tầng kém, giá cả nhiều loại sản phẩm nông nghiệp Trung Quốc
cao hơn so với giá thế giới. Kể từ đầu những năm 1990, giá cả hàng nông sản của
Trung Quốc đã liên tục tăng với tốc độ hơn 10%/năm khiến cho giá cả của sản

phẩm như tiểu mạch, ngô, đậu, bông … đều cao hơn giá thị trường quốc tế từ 20-
70%. Ngoài số ít mặt hàng nông sản như thịt lợn, táo và thuốc lá tương đối có ưu
thế, còn lại nhiều loại hàng hóa nông sản của Trung Quốc thiếu sức cạnh trên thị
trường quốc tế.
Giai đoạn 1985-1993:
Mở rộng cải cách sang khu vực phi nông nghiệp, giảm sự kiểm soát và can
thiệp của nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân. Hình thành các doanh nghiệp
địa phương với quy mô nhỏ hoạt động độc lập. Tuy nhiên, sau một thời gian dài có
những tác động tích cực với việc tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho
người nông dân, các xí nghiệp hương chấn quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ và máy
móc lạc hậu, năng suất thấp đang ngày càng trở nên kém hiệu quả, gây lãng phí tài
nguyên, ô nhiễm môi trường và là gánh nặng với ngân sách địa phương.
Giai đoạn 19 94-2005:
Nhiều người thuộc lực lượng bảo thủ buộc phải rút lui, tạo điều kiện cho các
chính sách cải cách được thực hiện triệt để. Sau khi Đặng Tiểu Bình qua đời vào
năm 1997, cải cách vẫn tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Giang Trạch Dân và Chu
Dung Cơ . Trong năm 1997 và 1998, diễn ra quá trình tư nhân hóa ở quy mô
lớn, trong đó tất cả các doanh nghiệp nhà nước, ngoại trừ một vài công ty độc
quyền lớn, đã được thanh lý và được bán cho các nhà đầu tư tư nhân. Từ 2001 đến
2004, số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm 48%. Trong cùng thời gian, các chính
sách giảm thuế quan, các rào cản thương mại và các quy định, cải cách hệ thống
ngân hàng cũng được thực hiện. Khu vực tư nhân trong nước đầu tiên vượt
quá 50% của GDP trong năm 2005. Tuy nhiên, một số độc quyền nhà nước vẫn
còn, chẳng hạn như dầu mỏ và ngân hàng.
Giai đoạn này cũng là giai đoạn mở của mạnh mẽ của Trung Quốc
- Năm 2001, Trung Quốc đã giữ chức chủ tịch APEC và Thượng Hải đã đăng cai hội
nghị các lãnh đạo APEC thường niên.
- Ngày 11/12/2001, sau hơn 14 năm đàm phán, Trung Quốc trở thành thành viên
chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sauk hi gia nhập WTO, kinh tế
Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu phát triển vượt bậc do kịp thời điều chỉnh

và triển khai các chính sách, cụ thể là:
1. Thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường; xây
dựng hệ thống quản lý theo các nguyên tắc của WTO;
2. Điều chỉnh quy hoạch ngành, đặc biệt là ngành nông nghiệp, theo
hướng ưu tiên những ngành có lợi thế và cho xuất khẩu;
3. Thu hút nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài; chú trọng công nghệ
cao; chuẩn hóa chỉ tiêu/thông số kỹ thuật;
4. Áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với một số ngành dễ bị tổn
thương hoặc dễ có tác động xấu đến đời sống của người nông dân;
5. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thông qua
quỹ phát triển (khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư ra nước ngoài,
tạo điều kiện giải quyết vấn đề liên quan tới các vụ kiện chống bán phá giá,
khuyến khích giao dịch điện tử, hỗ trợ đăng ký thương hiệu, phát triển kết
cấu hạ tầng…);
6. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tàu (trong mắt xích phát triển), tạo
điều kiện thúc đẩy liên kết, hợp tác kinh doanh;
7. Đào tạo nguồn nhân lực thông qua các khóa học bồi dưỡng, công tác
truyền thông; phối hợp đạo tạo giữa viện, trường, trung tâm, và bộ ngành;
8. Bảo vệ môi trường sinh thái thông qua việc xây dựng các khu sinh
thái nông thôn, khu phát triển bền vững nông thôn, khu nông nghiệp sạch,
khu nông sản sạch, khu nông sản hữu cơ.
Từ 2005 đến nay:
Mở rộng phát triển kinh tế dựa trên lợi thế so sánh, nâng cao vị trí & vai trò
của mình trong nền kinh tế quốc tế. Trong quá trình hội nhập, Trung Quốc vẫn duy
trì những chính sách phát triển kinh tế riêng biệt như hạ giá đồng nhân dân tệ, bảo
hộ nông nghiệp.
1. Ưu tiên cho xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn :
Trong hơn 30 năm cải cách (1978-2011) Trung Quốc luôn duy trì tốc độ phát
triển kinh tế cao & ổn định. Tuy nhiên, tỉ lệ nghèo còn cao đặc biệt là ở khu vực
nông thôn là vấn đề mà Trung Quốc luôn quan tâm và nỗ lực giải quyết.

(theo báo cáo số 47349-CN, World bank, trang 26)
Từ bảng số liệu trên, có thể thấy tỉ lệ nghèo ở nông thôn Trung Quốc cao hơn
rất nhiều so với khu vực thành thị. Không những thế, dân số tụt hậu so với các dân
số đô thị.Tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ nhập học (đặcbiệt ở cấp tiểu học), và tỷ lệ phổ
cập giáo dục (đặc biệt cấp trung học cơ sở) thấp hơn nhiều ở khu vực nông thôn.
Khoảng cách giữa các khu vực nông thôn và thành thị đã và đang tiếp tục mở
rộng. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo nông thôn phải tiếp tục là một ưu tiên hàng đầu.
Chính phủ Trung Quốc đã triển khai nhiều chính sách nhằm ưu tiên phát triển
khu vực nông thôn, cụ thể là:
(i) Loại bỏ thuế nông nghiệp và lệ phí, và gia tăng hỗ trợ trực tiếp nông nghiệp
(ii) Miễn giảm học phí cho giáo dục bắt buộc ở các vùng nông thôn
(iii) Mở rộng phạm vi cung cấp bảo hiểm y tế nông thôn
(iv) Triển khai Đề án hỗ trợ y tế nông thôn và chương trình hỗ
trợ thu nhập tối thiểu
Đây là những sáng kiến quan trọng, phản ánh cam kết mạnh mẽ của chính phủ
trong việc giải quyết sự mất cân đối nông thôn - đô thị, và cũng đã đạt được những
kết quả rõ rệt trong giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
2. Kết hợp giữa phát triển đô thị- nông thôn và chính sách phân phối lại
a. Nâng cao chất lượng an sinh xã hội khu vực nông thôn
- Phổ cập giáo dục: Giáo dục là một yếu tố quan trọng phản ánh phúc lợi của
người dân. Trình độ học vấn chính là thước đo thực tế cho nghèo đói, cả ở
nông thôn và thành thị. Do đặc điểm diện tích rộng lớn, cũng như những tàn
dư của xã hội cũ trong phân biệt nam nữ, Trung Quốc đã và đang thực hiện
nhiều chính sách nhằm phổ cập giáo dục toàn diện, nâng cao dân trí, giúp
người dân tự chủ hơn trong xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống.
+ Chương trình phổ cập giáo dục bắt buộc
Luật giáo dục bắt buộc được Trung quốc thông qua tại kì họp lần thứ 4 khóa 6,
ngày 12/4/1986, sửa đổi vào năm 2006, theo đó Trung Quốc bắt đầu triển khai phổ
cập giáo dục 9 năm. Tuy nhiên, việc phổ cập giáo dục ở Trung Quốc là không hề dễ
dàng do dân số đông cũng như sự đa dạng về dân tộc,văn hóa.

Từ 2004, Trung Quốc tiến hành phổ cập giáo dục 9 năm cho đa số học sinh
miền Tây gồm 6 năm bậc tiểu học và 3 năm bậc THCS, phủ rộng tại 368/410 tỉnh
và 42 tỉnh khác hiện vẫn đang phổ cập từ lớp 1 đến lớp 6 cho trẻ em. Trước khi
chương trình bắt đầu vào năm 2004, hầu hết các tỉnh khu vực núi cao, hẻo lánh đều
đông dân với những nhóm dân tộc khác nhau. Họ chỉ tiếp nhận giáo dục trung bình
chỉ có 6 -7 năm. Để giúp trẻ em có cơ hội đến trường, chương trình tập trung giảm
bớt chi phí học tập, cung cấp các chi phí trong cuộc sống cho trẻ em nghèo khổ,
tuyển dụng nhiều giáo viên là sinh viên mới tốt nghiệp và xây dựng trường có nhà
ở dành cho học sinh xa nhà. Kể từ năm 2006, chính quyền địa phương cũng tạo một
quỹ đặc biệt nhằm khuyến khích sinh viên tốt nghiệp đến dạy ở vùng sâu, vùng xa
với thu nhập đầu người là 15.000 nhân dân tệ, chính sách này đã thu hút được một
lượng đáng kể sinh viên tốt nghiệp đến giảng dạy tại các vùng chưa phát triển ở các
tỉnh phía Tây.
+ Phổ cập giáo dục cho nữ giới
Theo Đề án phát triển nữ giới Trung Quốc từ năm 2011 đến năm 2020 do Hội
đồng Nhà nước Trung Quốc, Chính phủ nước này cam kết sẽ nỗ lực hết mình để
phổ cập giáo dục tới 95% học sinh nữ trong 10 năm tới. Chính phủ sẽ miễn học phí
cho tất cả trẻ em, đặc biệt là cho trẻ em gái - đối tượng có nhiều khả năng phải bỏ
học.
- Nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản
Các chính sách mở rộng phạm vi bảo hiểm y tế nông thôn, hỗ trợ y tế cơ bản
đã được triển khai nhằm nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế co bản cho
người nghèo.
Từ năm 2005, Hiệp hội y tế nông thôn Trung Quốc tổ chức mở các lớp đào
tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán ộ y tế ở khu vực nông thôn, bao
gồm 300.000 nhân viên y tế tại 11.880 bệnh viện, qua đó nâng cao chất lượng
dịch vụ y tế cho khu vực nông thôn. Năm 2009, Chính phủ Trung Quốc cũng đã
thông qua kê hoạch chi tiêu $ 123 tỷ vào năm 2011 để thiết lập chăm sóc sức khỏe
phổ quát cho đất nước 1,3 tỷ người.
b. Chính sách phân phối lại thông qua trợ cấp, thuế & chính sách giá

cả:
- Trợ cấp nông nghiệp
Để bảo vệ nông dân, thúc đẩy sản xuất lương thực, đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia, từ năm 2004 Trung Quốc triển khai trợ cấp trực tiếp cho nông dân
trồng lúa. Trên cơ sở của việc duy trì sự ổn định của chính sách trợ cấp thực phẩm
ban đầu, năm 2006 chính sách trợ cấp chung bao gồm trợ cấp về diesel nhiên liệu,
phân bón và sản xuất nông nghiệp được dự kiến sẽ được gia tăng. Ngoài ra, nông
dân còn được trợ cấp và giúp đỡ xây dựng mạng lưới thống kê và quản lý thông tin,
ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý. Chính sách này cũng nhằm đảm bảo trợ
cấp được sử dụng một cách có hiệu quả, tránh lãng phí.
- Hỗ trợ nhà ở cho người có thu nhập thấp ở khu vực đô thị
Giai đoạn 2011-2015, Trung Quốc triển khai kế hoạch xây dựng hơn 36 triệu
căn nhà giá cả phải chăng để phục vụ 20% dân số đô thị- chủ yếu là các gia đình có
thu nhập thấp. Năm 2011, hơn 10 triệu căn nhà được bắt đầu xây dựng, và khoảng
4,32 triệu đã được hoàn tất. Năm 2012, sẽ có khoảng 7 triệu căn bắt đầu xây dựng
và 5 triệu sẽ được hoàn thành.
- Xóa bỏ thuế nông nghiệp
Ngày 29/12/2005, cuộc họp Uỷ ban thường vụ Quốc đại hội 10 của Trung
Quốc đã thông qua Quyết định về xoá bỏ các quy định về thuế nông nghiệp. Các
quy định kết thúc lịch sử 2000 năm của thuế nông nghiệp ở Trung Quốc, tạo thuận
lợi cho người nông dân phát triển kinh tế.
III. Hạn chế
Trung Quốc đã đạt những thành tựu đáng kể trong việc xóa đói giảm nghèo
nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Trong phần này
chúng ta sẽ cùng xem xét những hạn chế mà Trung Quốc gặp phải trong quá trình
giảm nghèo đói.
Thứ nhất là: bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tăng lên.
Kể từ năm 1980 tới nay sự thành công của Trung Quốc trong việc chống lại
nghèo đói lại đi kèm với sự gia tăng bất bình đẳng ở nước này. Với xu hướng tăng
7% bất bình đẳng ở mỗi thập kỷ thì Trung Quốc được dự đoán là một quốc gia có

bất bình đẳng cao.
Sự bất bình đẳng có thể do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu ở Trung Quốc là
việc giải phóng thị trường lao động và vấn đề học hành. Sự bất bình đẳng ở nước
này không đơn thuần mà là cái chính là việc bất bình đẳng về cơ hội, đặc biệt là
trong việc học tập và chăm sóc sức khỏe. Điều này đã gây ra những đáng ngại cho
Trung Quốc trong việc phát triển trong tương lai.
- Bất bình đẳng trong thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị đã tăng
lên.
Khoảng cách lớn tồn tại giữa dân cư khu vực nông thôn và khu vực thành thị
về thu nhập bình quân đầu người, bình quân đầu người tiêu thụ, doanh thu, chuyển
giao thanh toán và dịch vụ công cộng. Sự khác biệt lớn giữa hai khu vực này đã bắt
đầu từ những năm 1990. Bất bình đẳng tăng giữa các ngành làm mất cân bằng
trong sự tăng trưởng của Trung Quốc song lại làm giảm nghèo đói. Sự tăng trưởng
ở mức cân bằng đi kèm với sự tăng trưởng chung của Trung Quốc sẽ tác động tới
bất bình đẳng.
- Bất bình đẳng không đồng đều về mặt địa lý.
Tiến trình chống đói nghèo về mặt địa lý không đồng đều ở Trung Quốc. Ở
một số khu vực thì quá trình giảm nghèo đói tốt hơn, ở các vùng ven biển tình trạng
tốt hơn ở các vùng nội địa. Tỷ lệ suy giảm nghèo đói ở các tỉnh ven biển của Trung
Quốc là gấp đôi so với các tỉnh nội địa của nước này. Ở các tỉnh có thu nhập cao
hơn song tỷ lệ giảm nghèo đói chưa chắc đã cao hơn.
Vậy có phải bất bình đẳng là cái giá mà Trung quốc phải trả cho việc tăng
trưởng và giảm ngheò đói không? Thật vậy một số kết quả thực nghiệm ở Trung
Quốc đã minh họa cho câu hỏi này. Thứ nhất là bất bình đẳng tăng theo thòi gian
song thời gian tăng trửong nhanh chóng hơn lại không làm cho bất bình đẳng tăng
nhanh với tốc độ như vậy, sự thật là thời kỳ bất bình đẳng giảm xuống lại là thời kỳ
mà thu nhập bình quân của hộ gia đình tăng cao nhất ( thời kỳ 1981 – 1985, 1995 –
1998). Thứ hai là việc tăng trưởng của các lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế không
đi kèm với việc giảm đi của lĩnh vực khác. Cuối cùng là các tình có thu nhập tăng
cao lại có bất bình đẳng giảm xuống.

Trong tương lai sẽ là càng khó khăn hơn cho Trung Quốc nếu như không xem
xét đến vấn đề bất bình đẳng trong quá trình giảm nghèo đói. Bất bình đẳng là một
trở ngại đôi, phụ thuộc vào nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng đặc biệt là sự bất
bình đẳng trong cơ hội, nó có nghĩa là tăng trưởng thấp hơn và chia sẻ người
nghèo ít hơn trong những lợi ích từ sự tăng trưởng đó. Bất bình đẳng sẽ tiếp tục
tăng ở Trung Quốc và vấn đề nghèo đói đang phản hồi lại việc tăng lên của bất bình
đẳng.
Thứ hai là: Chất lượng phát triển kinh tế giảm. Việc phát triển kinh tế không
giúp làm giảm nghèo đói. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Trung
Quốc tăng cao từ năm 1990 song thành tích xóa đói giảm nghèo bị hạn chế. Sở dĩ
như vậy vì người nghèo không được hưởng lợi trực tiếp từ mức tăng trưởng cao đó.
Tỷ lệ năng suất lao động nông nghiệp trên năng suất lao động quốc gia đã giảm. Tỷ
lệ thu nhập bình quân của nông dân trên tổng thu nhập quốc dân cũng giảm. Các cơ
hội việc làm trong khu vực nông thôn cũng chưa cao.
Thứ ba là: Nếu xét theo tiêu chuẩn quốc tế thì số lượng người nghèo ở Trung
Quốc vẫn còn cao.
- Chuẩn nghèo chính thức của Trung Quốc là thấp hơn so với tiêu chuẩn quốc
tế.
- Chuẩn nghèo chính thức của Trung Quốc có vẻ như thấp hơn so với kỳ vọng
tăng lên trong thu nhập và phát triển.
- Chuẩn nghèo của Trung Quốc không xét đến nhu cẩu về lương thực thực
phẩm thiết yếu.
Thứ tư là: Tính dễ bị tổn thương của người nghèo bởi cú sốc thu nhập vẫn
còn khá phổ biến.
- Phần lớn mức độ nghèo ở khu vực nông thôn của Trung Quốc là do các nguy
cơ rủi ro gặp phải.
- Tiếp xúc với các nguy cơ, rủi ro có thể là một trong những lý do tại sao
người nghèo Trung Quốc có tỷ lệ tiết kiệm cao bất thường.
Thứ năm là: Việc loại bỏ tình trạng nghèo đói còn lại trở nên khó khăn hơn
khi tỷ lệ hộ nghèo đã giảm.

- Người nghèo còn lại khó tiếp cận hơn.
Trung Quốc có thế tiến xa hơn nữa trong việc giảm nghèo đói, có thể giải
quyết nghèo đói tạm thời hiệu quả hơn. Song vấn đề ở đây phải chú tâm đến nghèo
đói nghiêm trọng thì Trung Quốc lại gặp phải hạn chế. Tuy tỷ lệ nghèo đói đã giảm
nhưng sẽ trở nên khó khăn hơn khi loại bỏ những nghèo đói còn lại bởi vì người
nghèo còn lại sẽ bị phân tán mà chủ yếu mức nghèo đói nghiêm trọng lại tập trung
ở các vùng núi, các khu vực dân tộc thiểu số, các tỉnh miền Tây.
- Sự phản ứng của nghèo đói tới sự phát triển kinh tế đã giảm.
Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò quan trọng trong giảm nghèo đói. Trong kế
hoạch 7 năm 1986 – 1990 thì tỷ lệ nghèo đói vẫn tăng dù tỷ lệ nhỏ, tỷ lệ tăng
trưởng là 4%. Tuy nhiên nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo trở nên khó khăn hơn vì
nghèo đói kém đáp ứng với sự phát triển kinh tế.
Thứ sáu là: Luồng dân cư đi chuyển từ vùng nông thôn sang thành thị ngày
càng tăng. Bản chất của việc di cư đang thay đổi và việc gia nhập của công nhân và
hộ gia đình của họ vào khu vực thành thị đã dẫn đến những thách thức mới. Việc
chuyển dịch cơ cấu thị trường lao động thành thị cũng gây ra những khó khăn.
- Tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị đã tăng lên trong khi đó lực lượng tham gia lao
động thì giảm
- Việc phát triển thị trường lao động đô thị đặt ra mối quan tâm đến phúc lợi
của công nhân đô thị.
IV. Đánh giá các chính sách của Trung Quốc
Mặc dù các cuộc cải cách thành công không đòi hỏi phải tuân theo quy tắc của
thị trường tự do, nhưng thành công của Trung Quốc trong việc đẩy lùi nghèo đói đã
cho thấy một xu hướng chung. Đó là thị trường tự do phục vụ tốt hơn cho lợi ích
của những người nghèo. Nông dân Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ trước những
động lực của thị trường có được nhờ những cuộc cải cách của chính phủ.
Tuy nhiên, thành công của Trung Quốc không chỉ đơn thuần là để cho thị
trường tự do hoạt động mà còn nhờ những chính sách và đầu tư công được triển
khai hiệu quả nhờ bộ máy nhà nước quyền lực. Trung Quốc đã xây dựng và duy trì
được khả năng quản lý của chính phủ ở mọi cấp, bao gồm vô số làng xã trong danh

sách tiến hành cải cách nông thôn bắt đầu cuối những năm 1970. Các quan chức
địa phương cấp làng, xã chịu trách nhiệm trước các lãnh đạo cấp trên và nhân dân
địa phương về sự phát triển kinh tế trong khu vực mình quản lý. Khả năng thực thi
các chính sách là cần thiết cho sự phát triển và quan trọng hơn khả năng này cần
phải được phát triển.
Dĩ nhiên, khả năng của chính phủ phải được sử dụng để áp dụng những chính
sách hiệu quả và tránh hoặc từ bỏ những chính sách không hợp lý. Có thể thấy điều
này qua ví dụ của Trung Quốc trong việc tránh làm hại tới lợi ích của người nghèo.
Một cách được áp dụng đó là giảm thuế, hoặc công khai hoặc thông qua các hình
thức khác, cho người nghèo. Tại Trung Quốc, chính phủ sử dụng hệ thốngthu mua
lương thực thực phẩm trên diện rộng, đánh thuế người nông dân hiệu quả qua việc
xác định mức sản lượng và định giá thấp hơn giá thị trường (để đảm bảo rằng
những người nghèo tại khu vực thành thị). Đây là một công cụ hiệu quả giúp chính
phủ đạt được sức mạnh trong cuộc chiến chống nghèo đói trong ngắn hạn.
Một bài học khác từ Trung Quốc đó là chính sách kinh tế vĩ mô ổn định. Kinh
nghiệm của Trung Quốc cho thấy tránh những cú sốc về lạm phát sẽ giúp quá trình
xóa đói giảm nghèo diễn ra tốt hơn. Lạm phát cao đồng nghĩa với tỷ lệ nghèo cao
hơn. Sự quan trọng của ổn định kinh tế vĩ mô tới giảm nghèo đói còn có thể thấy tại
những nước khác như Braxin, Ấn Độ,
Hợp nhất thị trường nội địa đóng vai trò làm nên thành công của Trung Quốc
mặc dù đây không phải là lĩnh vực Trung Quốc đạt được những tiến bộ nhanh
chóng. Tuy những cản trở trong việc di cư giữa các tỉnh trong Trung Quốc và
những bất đồng trong buôn bán hàng hóa nội địa vẫn còn tồn tại nhưng đang có xu
hướng giảm dần theo thời gian.
Mộ bài học quan trọng khác có thể thấy đó là cải cách thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế là không đủ để đảm bảo cho quá trình xóa đói giảm nghèo diễn ra nhanh và
ổn định. Hiện tượng bất bình đẳng trong sở hữu tài sản và quyền tham gia sử dụng
các cơ sở hạ tầng cần thiết đã cản trở triển vọng của những người nghèo trong việc
chia sẻ những thành tựu kinh tế đạt được. Việc xóa bỏ các hợp tác xã đảm bảo rằng
đất đai trong các xã được phân chia công bằng. Phân phối quyền sử dụng đất

(không phải là quyền sở hữu đất) công bằng cho nông dân, cùng với nông nghiệp
được thúc đẩy phát triển qua cải cách nông nghiệp đầu những năm 1980 đã làm tỷ
lệ nghèo đói giảm nhanh chóng. Tương tự như vậy, chủ nghĩa xã hội và đạo đức
Nho giáo đã làm giảm sự bất bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe và giáo dục. Sự
công bằng trong giáo dục đã đảm bảo sự tăng trưởng trong lĩnh vực nông nghiệp và
phi nông nghiệp đều giảm nghèo đói.
Sự quan trọng của mô hình tăng trưởng trong cuộc chiến chống nghèo đói tại
Trung Quốc đưa tới bài học cho Việt Nam. Nếu sự nghèo đói tập trung phần lớn ở
vùng nông thôn thì chắc chắn phát triển nông nghiệp sẽ đóng vai trò quan trọng
trong quá trình xóa đói giảm nghèo. Theo đó, kết quả đạt được trong cuộc chiến
chống nghèo đói do sự phát triển nông nghiệp mang lại tại Trung Quốc đã phản ánh
một trường hợp bất thường mang tính lịch sử. Đó là, việc phân chia ruộng đất công
bằng có thể đạt được vào thời điểm xóa bỏ các hợp tác xã. Tuy nhiên, kinh nghiệp
của Trung Quốc phù hợp với quan điểm cho rằng thúc đẩy phát triển nông nghiệp
và nông thôn, đặt biệt trong những giai đoạn đầu, là yếu tố quyết định tới sự thành
công của công cuộc giảm nghèo đói, cho phép các tiểu chủ trang trại tiếp nhận
nhanh chóng lao động không có kỹ năng.
Sự cần thiết trong ưu tiên phát triển nông nghiệp hơn công nghiệp hóa đã phản
ánh cuộc tranh cãi kéo dài trong các tài liệu khoa học. Theo quan điểm này, chỉ khi
sản lượng nông nghiệp tăng đáng kể, lao động nông thôn mới có thể chuyển sang
các ngành phi nông nghiệp non trẻ. Trong một nền kinh tế tương đối đóng cửa
(hoặc nền kinh tế mà trong đó phần lớn hàng nông sản là không thể đem ra trao đổi
thương mại được), sản lượng nông nghiệp cao hơn đồng nghĩa với giá lương thực
giảm xuống và cho phép các doanh nghiệp sản xuất trả lương thấp hơn, từ đó kích
thích các ngành sản xuất phi nông nghiệp phát triển. Thành công của Trung Quốc
trong các ngành sản xuất thâm dụng lao động một phần là dựa vào giá nhân công
rẻ.
Cũng có những bằng chứng cho thấy tại Trung Quốc nông nghiệp tạo ra
những ngoại ứng tích cực cho sự phát triển của những ngành phi nông nghiệp. Dựa
vào các số liệu thu thập trên các hộ gia đình làm nông nghiệp từ bốn tỉnh của Trung

Quốc sau cuộc cải cách nông thôn ở Trung Quốc, Ravalion (2005) đã tìm thấy bằng
chứng những ngoại ứng tại các địa phương có nguồn gốc từ tác động của hoạt động
kinh tế địa phương và lợi nhuận tư nhân tới cư dân địa phương và hỗ trợ xây dựng
các cơ sở hạ tầng. Điều này giải thích sự kém phát triển tại các vùng nông thôn tăng
lên nếu thiếu sự đầu tư vào những hoạt động tạo ra những ngoại ứng trong đó phát
triển nông nghiệp nổi lên là hoạt động quan trọng nhất.
Tuy nhiên, để đạt được những thành tựu như Trung Quốc không phải dễ dàng.
Nó đòi hỏi cần có sự đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển nông
nghiệp, điều chỉnh phù hợp với điều kiện của Việt Nam và nỗ lực đưa những kết
quả nghiên cứu này tới nông dân Việt Nam. Sự tăng trưởng trong nông nghiệp đòi
hỏi sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn và tìm thị trường tiêu thụ.
Những nước đang phát triển có mục tiêu công nghiệp hóa đang cố gắng thúc
đẩy quá trình này diễn ra nhanh hơn. Tại Trung Quốc việc chuyển đổi hướng tập
trung phát triển ra khỏi ngành nông nghiệp diễn ra quá nhanh chóng. Sau khi an
ninh lương thực được đảm bảo và thu nhập của nông dân tăng lên, hoạt động kinh
tế chính trị đặt ra những điều kiện sống tốt hơn cho tầng lớp trung lưu và thương
lưu. Mô hình chuyển đổi ngành và vùng này của Trung Quốc đã làm tăng sự bất
bình đẳng và làm mờ đi ảnh hưởng của sự tăng tưởng tới phạm vi ảnh hưởng của
nghèo đói. Về phương diện này, Việt Nam được đánh giá thực hiện tốt hơn Trung
Quốc khi kéo dài thời gian tập trung phát triển nông nghiệp và nông thông trước
khi chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Hiện nay khi tình hình bất bình đẳng cũng đang có xu hướng tăng lên tại Việt
Nam, cần lưu ý tới hạn chế này của Trung Quốc để Việt Nam tránh vấp phải những
thách thức tương tự.
Quan sát những thành công của Trung Quốc, nhiều quan điểm cho rằng một
kết quả tất yếu của giảm nghèo đói là sự gia tăng bất bình đẳng. Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là tất cả các nước nghèo đều phải đối mặt với sự tăng lên của
bất bình đẳng. Sự tăng trưởng về kinh tế kéo làm gia tăng áp lực bất bình đẳng do
thị trường lao động thiếu kỹ năng và tỷ lệ quay lại trường học cao hơn. Mặt khác,
nếu chính phủ nới lỏng những rằng buộc mà người nghèo phải đối mặt khi tham gia

vào những thị trường chính, áp lực của bất bình đẳng sẽ giảm xuống. Quá trình này
diễn ra như thế nào là tùy thuộc vào thực tiễn của từng nước và các nước khác nhau
sẽ có những kết quả khác nhau trong tỷ lệ tăng trưởng và mức độ bất bình đẳng.
Chính vì vậy, Việt Nam cần thận trọng khi áp dụng những bài học từ Trung Quốc
vì bất bình đẳng là điều không thể tránh khỏi khi tăng trưởng và giảm nghèo đói
diễn ra.
V. Thực trạng tại Việt Nam và bài học áp dụng
1. Thực trạng ở Việt Nam
Xoá đói, giảm nghèo ở nước ta là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn, là
sự quan tâm hàng đầu của Đảng, nhà nước trong những thập kỷ qua. Xoá đói, giảm
nghèo theo hướng bền vững là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước.
Những thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam Từ năm 1998 đến nay, chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo và chương trình 135 ra đời và đi vào hoạt động đã
tạo sự chuyển biến sâu sắc trong toàn xã hội, huy động được sức mạnh của cả hệ
thống chính trị, huy động và đa dạng hoá các nguồn lực cho giảm nghèo, bộ mặt
các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn được cải thiện rõ nét, đời sống của người
nghèo, đồng bào dân tộc đã được nâng lên một bước. Thành quả xoá đói, giảm
nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, báo cáo
phát triển Việt Nam năm 2004 đã ghi nhận: “Những thành tựu giảm nghèo của Việt

×