Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Xóa đói giảm nghèo dân tộc thiểu số Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.16 KB, 122 trang )

Mở đầu
1 - Sự cần thiết của đề tài
Ngày nay, nghèo đói và chống nghèo đói đã trở thành vấn đề toàn cầu.
Nhiều quốc gia, tổ chức và diễn đàn quốc tế đều lấy hoạt động chống nghèo đói
làm một trong những mục tiêu quan trọng trong chơng trình hoạt động.
ở nớc ta, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu
cơ bản trong hoạt động của mình là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới để
đem lại hạnh phúc, ấm no cho mọi ngời dân Việt Nam. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ, Đảng và Nhà nớc phải tạo điều kiện Làm cho ngời nghèo đủ
ăn. Ngời đủ ăn thì khá, giàu. Ngời khá, giàu thì giàu thêm.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có bớc tiến phát triển v-
ợt bậc, đời sống của đa số dân c đợc cải thiện. Công tác xoá đói giảm nghèo
(XĐGN) đã thu đợc những thành tựu đáng kể. Tuy vậy, mức sống của ngời dân vẫn
còn thấp, phân hoá thu nhập có xu hớng tăng lên. Một bộ phận dân c sống nghèo
đói - trong đó có những gia đình có nhiều đóng góp cho cách mạng vẫn chịu nhiều
thua thiệt trong hoà nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành quả do
công cuộc đổi mới đem lại. Hiện nay, tỉ lệ hộ đói nghèo của nớc ta là 10,86%
(khoảng 2 triệu hộ). Đặc biệt, có hơn 1000 xã nghèo đói với số hộ nghèo chiếm từ
40% trở lên. Từ khi thực sự trở thành phong trào và có một số văn bản quy phạm
pháp luật ở một số khía cạnh khác nhau, công tác xoá đói, giảm nghèo ở nớc ta đã
đợc Liên hợp quốc đánh giá là có nhiều sáng tạo và tiến bộ; các tổ chức quốc tế
nh UNDP, UNFPA, UNICEP, FAO... đã có cam kết tiếp tục hợp tác và hỗ trợ Việt
Nam phát triển. Nhng nếu nhìn lại một cách nghiêm túc vẫn còn có những bất cập
và thiếu sót cần sớm khắc phục và bổ sung để thúc đẩy nhanh hơn, hiệu quả hơn
công cuộc XĐGN ở nớc ta. Chơng trình quốc gia XĐGN đã đợc triển khai ở tất cả
các tỉnh, thành phố trong cả nớc, nhng hiệu quả cha cao. Tuy số hộ nghèo hàng
năm giảm trên 20%, nhng với tiêu chuẩn phân định nghèo rất thấp. Một khía cạnh
rất đáng quan tâm ở đây là còn nhiều hộ gia đình ở những vùng dân tộc thiểu số
thực sự đang lúng túng, quẩn quanh trong tình trạng đói nghèo, gặp khó khăn về
khách quan và chủ quan khó có thể vợt qua nếu không có sự giúp đỡ từ phía Nhà
nớc và xã hội. Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số thực sự là một vấn đề


bức xúc, cần đợc xem xét và soi sáng, dới nhiều khía cạnh, nhiều góc độ nghiên
cứu trên các lĩnh vực khác nhau, để giải quyết một cách khoa học, có hiệu quả.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) đã khảng định
tiếp tục đầu t, giúp đỡ những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân c nghèo, phấn
đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Thờng xuyên củng cố thành quả
xoá đói, giảm nghèo và định mục tiêu cơ bản xoá hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo
xuống còn 10% vào năm 2005. Vì vậy, việc xem xét, đánh giá thực trạng nghèo
đói và hình thành những giải pháp để XĐGN ở một vùng khó khăn nh là vùng dân
tộc thiểu số nớc ta là vấn đề thiết thực, cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Cho nên
học viên lựa chọn đề tài luận văn là: Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số
Việt Nam : Thực trạng và giải pháp.
2 - Tình hình nghiên cứu
Vấn đề nghèo đói, phân hoá giàu nghèo và XĐGN ở nớc ta là chủ đề đợc
Đảng, Nhà nớc và nhiều cơ quan, cán bộ nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn quan tâm.
Bên cạnh hệ thống các tài liệu, báo cáo của các cơ quan Nhà nớc và đoàn thể quần
chúng nh Bộ NN và PTNT, Tổng cục Thống Kê, Bộ LĐTB và XH, Hội nông dân,
Hội phụ nữ, Ban XĐGN các tỉnh, thành phố, nhiều tài liệu nghiên cứu về XĐGN
đã đợc công bố ở nớc ta.
Có thể phân loại các công trình nghiên cứu về XĐGN đợc công bố ở nớc ta
làm 2 nhóm : nhóm tài liệu dịch và nghiên cứu kinh nghiệm nớc ngoài về XĐGN
và nhóm tài liệu nghiên cứu về nghèo đói và XĐGN ở nớc ta. Về phân hoá giàu
nghèo và XĐGN của các nớc trên thế giới, nhiều nhà nghiên cứu nh GS Dơng Phú
Hiệp, GS Tôn Tích Thạch, GS Vũ Thị Ngọc Phùng, TS Lê Bộ Lĩnh, TS Vũ Văn
Hà... đã có nhũng công trình nghiên cứu sâu sắc. Đối với vấn đề XĐGN đợc sự
quan tâm đặc biệt của các cán bộ nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn. Nhiều hội thảo
quốc tế, quốc gia và địa phơng đợc tiến hành. Nhiều ấn phẩm đợc phát hành. Các
tác giả nh TS Trần Đình Hoan, Th.s Nguyễn Thị Hằng, TS Nguyễn Hải Hữu,
PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc, TS Nguyễn văn Tiêm, GS Phạm Xuận Nam, PGS.
2
TSKH Lê Du Phong, TS Chu Tiến Quang... đã có nhũng công trình nghiên cứu

công phu về XĐGN ở nớc ta. Nhiều nghiên cứu sinh và học viên cao học cũng lấy
chủ đề phân hoá giàu nghèo và XĐGN làm đề tài luận văn. ở địa bàn vùng dân tộc
thiểu số nớc ta, nhiều năm nay cũng đã có những nghiên cứu tổng kết về XĐGN.
Ngoài tổng kết của Uỷ ban Dân tộc và Miền núi, Ban XĐGN của các tỉnh, các
huyện... còn có các nghiên cứu của Bộ LĐ - TB và XH, Tổ chức OXFAM Anh (Tổ
chức phi chính phủ của Anh), CSF - UK (Tổ chức quỹ nhi đồng Anh), AAV (Tổ
chức hành động vì ngời nghèo Anh)...
Có thể khảng định, các nghiên cứu về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở n-
ớc ta nói chung và ở vùng dân tộc thiểu số là rất phong phú. Bên cạnh những phơng
pháp nghiên cứu, tiếp cận truyền thống, các công trình nghiên cứu, chỉ đạo XĐGN
đã vận dụng nhiều phơng pháp mà các tổ chức quốc tế đã vận dụng nghiên cứu về
phân hoá giàu nghèo và XĐGN ở nớc ta đã thực sự cung cấp những luận cứ khoa
học, thực tiễn cho xây dựng, triển khai các chơng trình XĐGN cấp toàn quốc và
địa phơng.
3 - Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nhận thức về lý luận và thực tiễn của nghèo đói và XĐGN, mục
đích của luận văn là đề xuất một số giải pháp chủ yếu về kinh tế - xã hội nhằm
thực hiện XĐGN cho dân c vùng dân tộc thiểu số nớc ta.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo.
+ Phân tích thực trạng đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số và nguyên nhân.
+ Phân tích những lợi thế và thách thức của vùng dân tộc thiểu số trong công tác
xoá đói giảm nghèo.
+ Đề xuất định hớng và những giải pháp thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở vùng dân
tộc thiểu số Việt Nam.
4 - Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
Vùng dân tộc thiểu số nớc ta có đặc điểm tơng đối phức tạp về điều kiện
sống, khí hậu và địa hình... có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến nghèo đói
cho từng vùng, từng hộ. Tỷ lệ hộ đói nghèo cao nhất tập trung ở vùng dân tộc thiểu
số, vì thế luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề nghèo đói và XĐGN ở vùng

3
này. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm gợi mở, góp phần vào sự nghiên cứu
tổng thể một cách khoa học và toàn diện trong quá trình hình thành các chơng trình
dự án cụ thể để thực thi trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nớc nói
chung và ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng.
Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu về vấn đề nghèo đói ở địa bàn
dân tộc thiểu số ở nớc ta từ năm 1992 cho đến nay. Về mục tiêu và giải pháp
XĐGN, dự báo đến năm 2010 để phù hợp với chiến lợc phát triển kinh tế xã hội
của cả nớc. Một số mục tiêu đợc lợng hoá cụ thể đến năm 2005.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn.
Để xem xét vấn đề đói nghèo và XĐGN một cách khách quan, sát thực tiễn,
luận văn vận dụng phép biện chứng của triết học Mác xít, các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn vận dụng nhiều phơng pháp nghiên
cứu cụ thể của kinh tế học và xã hội nh: so sánh, điều tra, phân tích, tổng kết thực
tiễn thông qua các mô hình....
6. Những đóng góp mới của luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu, học viên đã tiếp thu thừa kế kết quả nhiều công
trình khoa học liên quan đến XĐGN. Với phạm vi và địa điểm nghiên cứu đợc lựa
chọn, luận văn có những điểm mới sau đây:
- Trình bày tơng đối có hệ thống những nhận thức về đói, nghèo và XĐGN,
những nhân tố ảnh hởng đến đói nghèo đặc biệt là nhân tố, chính sách quản lý điều
hành công tác XĐGN.
- Phân tích thực trạng nghèo đói gắn với điều kiện kinh tế - xã hội của vùng
dân tộc thiểu số nớc ta.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chơng:
- Chơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo.
- Chơng 2: Thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói, giảm nghèo ở vùng dân
tộc thiểu số.

- Chơng 3: Kiến nghị về định hớng và một số giải pháp xoá đói, giảm nghèo ở
vùng dân tộc thiểu số nớc ta.
4
Chơng 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo đói
và Xoá Đói Giảm Nghèo
1.1. Vấn đề đói nghèo và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo.
1.1.1 Vấn đề nghèo đói và tiêu chí xác định nghèo đói.
Các quốc gia trên hành tinh chúng ta khác nhau về nhiều mặt : trình độ phát
triển kinh tế, điều kiện địa lý tự nhiên, dân số và trình độ dân trí, bản sắc văn hoá,
tín ngỡng và tập tục, hệ t tởng và chế độ chính trị... Nhng dù có sự khác biệt đến
mấy, vẫn có những điểm chung, những vấn đề bức xúc cần đợc quan tâm, một
trong những vấn đề rộng lớn có tính toàn cầu là nạn đói nghèo, trình độ lạc hậu.
Nhiều diễn đàn khu vực và thế giới đã khảng định, đói nghèo là vấn đề nổi
cộm của xã hội, đồng thời cũng cảnh báo rằng vấn đề đói nghèo không chỉ ở phạm
vi quốc gia, quốc tế sẽ đa đến mất ổn định chính trị trong và ngoài nớc, sẽ tạo ra
những hậu quả khôn lờng; di dân quốc tế ồ ạt, phá huỷ môi trờng, tiêu cực xã hội
lan rộng, ảnh hởng chung đến cả nhân loại.
Vì vậy, nghèo đói không còn là vấn đề riêng của một quốc gia, mà là vấn đề
quốc tế. Hội nghị thợng đỉnh thế giới về phát triển xã hội, họp tại Copehagen Đan
Mạch tháng 3/1995, những ngời đứng đầu các quốc gia, đã trịnh trọng tuyên bố
Chúng tôi cam kết thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trên thế giới, thông qua
các hành động quốc gia kiên quyết và sự hợp tác quốc tế, coi đây nh đòi hỏi bắt
buộc về mặt đạo đức xã hội, chính trị kinh tế của nhân loại.
Để hình thành các giải pháp xoá đói giảm nghèo, cần thiết phải có quan
niệm đúng về đói nghèo. Tuy vậy, cho đến nay quan niệm về đói nghèo và tiêu chí
xác định có nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau.
Đến nay nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đã đa ra nhiều khái niệm
khác nhau về đói nghèo. Có những tác giả chỉ nêu những đặc trng nào đó của
nghèo đói nh là thiếu ăn, thiếu dinh dỡng, nhà ở tạm bợ hoặc thậm chí là sự

5
thất học. Theo tôi, những quan niệm trên chỉ mới nêu những biểu hiện riêng nào
đó của nghèo đói trong xã hội mà thôi. Khái niệm về nghèo đói đợc nêu ra tại hội
nghị bàn về xoá đói giảm nghèo ở khu vực Châu á Thái Bình Dơng do ESCAP tổ
chức tại Băng Cốc tháng 9/1993 : Nghèo là tình trạng một bộ phận dân c không
đợc hởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con ngời mà những nhu cầu
này đã đợc xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong
tục tập quán của địa phơng là phù hợp. Khái niệm trên có những u điểm : làm rõ
đợc bộ phận dân c nghèo đói là không đợc hởng hoặc không thoả mãn những
nhu cầu cơ bản ; làm rõ tính chất động của nghèo đói là tuỳ theo trình độ phát
triển kinh tế, xã hội và phong tục tập quán từng địa phơng.
Khi xác định tiêu chí và mức nghèo đói, các công trình nghiên cứu quốc tế
thờng chia làm hai cấp độ : phận định giữa các quốc gia và giữa các nhóm dân c, từ
đó xác định các quốc gia giàu, nghèo trên thế giới và phân chia dân c của mỗi quốc
gia hoặc từng địa phơng thành nhóm giàu, nghèo.
Đối với các quốc gia, hiện nay Ngân hàng thế giới (WB) đa ra các tiêu chí đánh giá
mức độ giàu nghèo của các quốc gia bằng thu nhập bình quân đầu ngời theo hai
cách tính:
- Phơng pháp ATLAS tức là tỷ giá hối đoái và tính theo USD.
- Phơng pháp PPP là phơng pháp sức mua tơng đơng tính theo USD
Từ đó ở cấp quốc gia, WB chia các quốc gia trên thế giới thành 4 nhóm:
Nhóm các nớc nghèo nhất.
Nhóm các nớc có trình độ trung bình.
Nhóm các nớc có thu nhập khá cao.
Nhóm các nớc có thu nhập cao và rất cao.
Theo phơng thức thứ nhất (lấy theo mức thu nhập năm 1990) từ 600USD/
ngời/ năm đến dới 2500USD/ ngời/ năm là nớc nghèo. Dới 600USD/ ngời/ năm là
nớc cực nghèo.
Đối với đối tợng nghèo đói trong dân c, hiện nay trên thế giới các nhà
nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đa ra một số phơng pháp xác định giới hạn

6
khác nhau. Hai phơng pháp đợc quan tâm nhất là phơng pháp của nhà nghiên cứu
kinh tế - xã hội Rowntree và phơng pháp của World Bank.
Phơng pháp của Rowntree: Để xác định mức nghèo đói, Rowtree đã tiến
hành điều tra về thu nhập và chi tiêu của các gia đình lao động tại thành phố York
(nớc Anh). Qua thu nhập thông tin, Rowntree cho rằng mức nghèo đói là mức thu
nhập không đủ để mua sắm các sản phẩm cần thiết để duy trì các hoạt động cơ thể
bao gồm cả lơng thực, tiền thuê nhà và một số nhu cầu tối cần thiết khác. Ông cho
rằng, mỗi gia đình 5 ngời (gồm 3 ngời con và cha mẹ), cần phải chi tiêu tối thiểu
mỗi tuần là 21 xilinh 8 xu. Từ đó, ông cho rằng gia đình có mức thu nhập 1 tuần d-
ới 21 xilinh 8 xu là gia đình thuộc diện nghèo đói. ở thời kỳ nghiên cứu, trên cơ sở
thông tin thu nhập của các gia đình và mức chuẩn nêu trên, Rowntree cho rằng
thành phố York có 10% số dân thuộc diện nghèo đói.
Phơng pháp của Ngân hàng thế giới: Phơng pháp này nhằm tìm ra mức
chuẩn nghèo đói chung cho toàn thế giới. Phơng pháp chủ yếu của Ngân hàng thế
giới nhằm thực hiện 2 yêu cầu: Xác định đợc múc thu nhập có thể so sánh giữa các
quốc gia và định ra mức (chuẩn) nghèo đói chung cho toàn thế giới. Để so sánh thu
nhập, thực hiện phơng pháp tính rổ hàng hoá, sức mua tơng đơng để tính đợc
mức thu nhập dân c giữa các quốc gia có thể so sánh. Về giới hạn nghèo đói, Ngân
hàng thế giới đa ra mức năm 1985 là 1USD/ ngời/ ngày. Với mức trên, Ngân hàng
thế giới ớc tính, có khoảng 1,2 tỷ ngời đang phải sống trong nghèo đói. Ngoài hai
phơng pháp trên, xác định tiêu chí nghèo đói giữa các quốc gia và nội bộ dân c,
một số công trình nghiên cứu đa ra chỉ tiêu chất lợng cuộc sống, chỉ số phát
triển con ngời, mức dinh dõng năng lợng do bữa ăn mang lại trong ngày. Chỉ
tiêu chất lợng cuộc sống, chỉ số phát triển con ngời thờng đợc phân biệt nghèo
đói, trình độ phát triển giữa các quốc gia, còn mức dinh dỡng, năng lợng do bữa
ăn mang lại trong một ngày thờng dùng để phân biệt nghèo đói trong nội bộ dân
c. Hoặc ở Việt Nam, khi xác định tiêu chí nghèo đói Tổng Cục thống kê đa ra mức
thu nhập nhằm đáp ứng nhu cầu bữa ăn hàng ngày mang lại, còn Bộ LĐ - TB và
XH chỉ đa ra mức thu nhập trên cơ sở đáp ứng nhu cầu tối thiểu về lơng thực. Nh

7
vậy, những căn cứ để xác định tiêu chí và định chuẩn nghèo đói từng thời kỳ đang
là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau.
Trong quá trình nghiên cứu nghèo đói và thực hiện hỗ trợ chơng trình
XĐGN ở Việt Nam, Ngân hàng thế giới đa ra mức chuẩn nghèo đói cho Việt Nam.
Căn cứ cơ bản để Ngân hàng thế giới xác định ngỡng nghèo đói ở Việt Nam là l-
ợng Calo tối thiểu cho 1 ngời trong 1 ngày. Từ đó, so sánh thu nhập của gia đình
mua sắm thức ăn đủ số Calo cần thiết theo yêu cầu. Ngân hàng thế giới đa ra mức
yêu cầu lợng calo của ngời Việt Nam là 2100Cl/ngời/ ngày. Căn cứ vào giá cả các
loại thức ăn cần thiết, Ngân hàng thế giới đa ra mức chi phí cần cho 1 ngời ở nớc ta
vào thời kỳ 1992 - 1993 là 729.000 đồng/năm.
Dựa vào số liệu điều tra mức sống dân c tại nớc ta năm 1993 và năm 1998,
Ngân hàng thế giới phân loại nghèo đói thành 2 loại: nghèo đói chung và nghèo
đói lơng thc, thực phẩm. ứng với mỗi loại nghèo đói trên, Ngân hàng thế giới nêu
ra ngỡng đói nghèo cho từng loại ở Việt Nam.
Ngỡng nghèo lơng thực, thực phẩm:
- Năm 1993 : 62.500 đồng/ngời/tháng.
- Năm 1998 : 107.000 đồng/ngời/tháng.
Ngỡng nghèo chung:
- Năm 1993 : 96.600 đồng/ngời/tháng
- Năm 1998 : 149.000 đồng/ngời/tháng.
Nh vậy, theo quan niệm của Ngân hàng thế giới, Việt Nam cần thiết phân
loại nghèo đói ở cả 2 dạng : dạng và ngỡng nghèo đói chung; dạng và ngỡng nghèo
đói lơng thực. Theo quan niệm của Ngân hàng thế giới, ngoài chi tiêu tối thiểu về
lơng thực để đảm bảo đủ lợng calo 2100/ngời/ngày, còn có những khoản chi tiêu
tối thiểu phi lơng thực, thực phẩm. Do đó, chuẩn của ngỡng nghèo đói chung có
mức cao hơn chuẩn nghèo đói lơng thực, thực phẩm.
Nghèo có 2 dạng: nghèo tơng đối và nghèo tuyệt đối. Nghèo tuyệt đối là
tình trạng một bộ phận dân c không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu để
duy trì cuộc sống. Nghèo tơng đối là sự nghèo khổ thể hiện ở sự bất bình đẳng

8
trong quan hệ phân phối của cải xã hội giữa các nhóm xã hội, các tầng lớp dân c,
các vùng địa lý. Nh vậy, nghèo đói là quan niệm mang tính chất tơng đối cả về
không gian và thời gian. Về nghèo tuyệt đối, biểu hiện chủ yếu thông qua tình
trạng một bộ phận dân c không đợc thoả mãn các nhu cầu tối thiểu - trớc hết là ăn
gắn liền với dinh dỡng. Ngay nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng quốc
gia. Phạm trù nhu cầu tối thiểu cũng đợc mở rộng dần. Còn về nghèo tơng đối
gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân c so với mức sống
trung bình của địa phơng ở một thời kỳ nhất định. Vì những lẽ đó, nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng việc xoá dần nghèo tuyệt đối là công việc có thể làm, còn
nghèo tơng đối là hiện tợng thờng có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là rút
ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, và hạn chế sự phân hoá giàu nghèo.
Đói nghèo là một khái niệm động, phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế xã
hội, lịch sử, mức độ tăng trởng kinh tế và nhu cầu phát triển của con ngời. ở một
thời điểm, một vùng, một quốc gia là đói nghèo nhng một thời điểm khác, vùng
khác, một quốc gia khác thì chỉ số đó mất ý nghĩa. Do đó, rất khó quy định hợp lý
một chuẩn mực chung về đói nghèo cho tất cả mọi quốc gia, ngay trong một quốc
gia cũng có thể khác nhau giữa các vùng, giữa các thời kỳ.
1.1.2. Nghèo đói trên thế giới và nguyên nhân.
1.1.2.1. Về nghèo đói trên thế giới.
Thế giới ngày nay đã và đang phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, do sự
tác động và ảnh hởng to lớn của cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ, cùng
nhiều nhân tố khác của thời đại. Tuy vậy, toàn thế giới hiện có hơn 1,2 tỷ ngời
nghèo đói chiếm 25% dân số thế giới sống dới mức tối thiểu. Khu vực Châu á,
Châu Phi, Mỹ La Tinh có số lợng ngời nghèo đói lớn nhất (Châu á gần 800 triệu
ngời, Châu Phi gần 500 triệu ngời).
Theo nhận định của các nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế, ở một số vùng trên thế
giới, số ngời nghèo có thể tăng và có thể lên tới 1,5 tỷ ngời vào năm 2025.
9
Ngời nghèo đói không chỉ ở nông thôn mà ở thành thị cũng chiếm một tỷ lệ

đáng kể, xu hớng chung đang tăng dần, bởi vì ngoài dân nghèo thành thị còn có
ngời nghèo đói từ nông thôn tràn vào thành thị tìm việc làm, họ không có nhà ở,
không có việc làm và thu nhập không ổn định, không đợc hởng dịch vụ y tế, văn
hoá...Đối với nhiều quốc gia, đây còn là môi trờng làm cho tiêu cực xã hội phát
triển. Điều đáng chú ý là đa số ngời nghèo đói là phụ nữ, trẻ em, tình trạng suy
dinh dỡng, thất nghiệp mù chữ, dịch bệnh lây lan, môi trờng sinh thái ô nhiễm
nghiêm trọng, tuổi thọ và trí lực giảm sút. Tệ nạn xã hội và những rối loạn làm mất
ổn định xã hội thờng xảy ra. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nớc giàu chi phối,
lệ thuộc, bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Bên cạnh một bộ phận dân c nghèo,
điều đáng quan tâm là chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các nớc giàu với nớc
nghèo, giữa các nhóm dân c ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày càng gia
tăng.
ở các nớc t bản phát triển, mặc dầu năng suất lao động đạt ở mức cao, các
thành tựu khoa học - công nghệ đợc ứng dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã
hội nhng vẫn tồn tại một bộ phận dân nghèo khổ trong lúc một bộ phận khác sống
thừa thãi, xa hoa. ở Anh, chỉ 5% số ngời giàu đã chiếm 50% tổng thu nhập cá
nhân của cả nớc. ở Mỹ, trong thập kỷ tám mơi, có thêm 4 triệu trẻ em rơi vào cảnh
nghèo đói, mặc dù mức thu nhập của nền kinh tế đã tăng lên hơn 20%. ở Liên
minh Châu Âu (EU), khu vực gồm hầu hết các nớc giàu thì số ngời nghèo khổ
cũng tăng từ 38 triệu ngời năm 1975 lên 52 triệu ngời năm 1988. ở nhiều quốc gia,
phân hoá giàu nghèo làm tăng bất công xã hội và chuyển thành đối kháng lợi ích.
Ngày nay, trong toàn bộ hệ thống t bản chủ nghĩa, chênh lệch thu nhập, bất công
xã hội tăng lên: 20% số ngời giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập; 20% số ngời nghèo
nhất chỉ chiếm 1,4% thu nhập.
Nh vậy, nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo đã trở thành hiện tợng có tính
chất toàn cầu, có nguồn gốc sâu xa từ sở hữu, bản chất chế độ, địa vị xã hội, sắc tộ,
tổ chức quản lý...Vì thế, nhiều tổ chức quốc tế, nhiều quốc gia rất quan tâm đến
10
việc thiết lập một trật tự kinh tế mới, đang tìm kiếm các giải pháp rút ngắn khoảng
cách giàu nghèo giữa các quốc gia, giữa các nhóm dân c, tăng cờng sự giúp đỡ cho

các nớc nghèo, các nhóm dân c nghèo là yêu cầu rất cơ bản.
1.1.2.2. Về nguyên nhân nghèo đói trên thế giới.
Nghèo đói là hiện tợng xuất hiện từ lâu trong xã hội. Đã hàng trăm năm nay,
nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng lý giải hiện tợng nghèo đói, nhất là nguyên nhân
và cách khắc phục. Có thể nói, tiếp cận nguyên nhân nghèo đói và phân hoá giàu
nghèo rất đa dạng. Có những nhà nghiên cứu tiếp cận theo khía cạnh thuần tuý
kinh tế, cũng có những nhà nghiên cứu tiếp cận nguyên nhân nghèo đói và phân
hoá giàu nghèo chủ yếu từ khía cạnh nhân chủng học hoặc dân số học. Đồng thời
cũng xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận cả nguyên nhân về tự nhiên, kinh tế,
chính trị - xã hội.
Ngời có công trình nghiên cứu về nguyên nhân nghèo đói chủ yếu dựa vào
dân số - xã hội thờng đợc nhắc đến đầu tiên đó là Mantuýt. Theo Mantuýt, lợng
của cải từ sản xuất tăng chậm - theo cấp số cộng. Còn dân số thì tăng quá nhanh -
theo cấp số nhân. Do đó, nghèo đói là hậu quả tất yếu của nguyên nhân dân số tăng
nhanh. Từ đó, theo ông muốn giảm nghèo đói, tất yếu phải chấp nhận bệnh dịch,
chiến tranh. Tuy nhiên quan niệm của Mantuýt mang yếu tố phản động nhng cũng
đã cảnh báo cho loài ngời, nhất là các nớc đang phát triển phải chủ động trong việc
phát triển dân số và phải xem hạ thấp tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là yêu cầu bắt buộc
để hạn chế nghèo đói. Nhiều nhà nghên cứu nh Kudơnhét, Alơvít, Ôtsima... cũng
đã có những tiếp cận đáng quan tâm về phân hoá giàu nghèo và nguồn gốc của
nghèo đói. Theo quan niệm của Kudơnhét (1971), mức độ phân hoá giàu nghèo
phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển và quy mô tổng sản phẩm quốc dân. Khi
nghiên cứu quan hệ về di chuyển lao động và xu hớng biến đổi tiền công giữa công
nghiệp và nông nghiệp (1955), Lơvít cho rằng tăng trởng kinh tế, nhất là tăng trởng
của cả nông nghiệp, công nghiệp là điều kiện để giảm bất bình đẳng trong thu
nhập của dân c...Ngoài các nhà nghiên cứu trên, hai học giả : C.Mác (1818- 1883)
11
và Mác Veibơ (1864 - 1920) đợc xem nh là hai nhời khổng lồ về lý thuyết phân
tầng xã hội. Lý giải về nguyên nhân phân tầng xã hội và giàu nghèo giữa C.Mác
và Mácveibơ có những kết luận khác nhau. Theo C.Mác, nguyên nhân cơ bản, sâu

xa nhất dẫn đến phân hoá giai cấp, phân hoá giàu nghèo là có hoặc không có
quyền sở hữu đối với t liệu sản xuất, dùng t liệu sản xuất làm phơng tiện để bóc lột
và trở nên giàu có. Còn giai cấp vô sản trần nh nhộng, chỉ có hàng hoá sức lao
động buộc phải bán để kiếm sống. Do là chủ sở hữu t liệu sản xuất nên chủ t bản
có quyền quyết định việc phân phối sản phẩm và trở nên giàu có. Còn ngời làm
thuê thì bị bóc lột, trở nên nghèo tuyệt đối hoặc tơng đối. Theo C.Mác, sự khác biệt
về thu nhập giữa những ngời lao động còn có sự khác nhau về trình độ nghề nghiệp
và hiệu quả lao động. Khi phân tích nguyên nhân giàu nghèo và phân tầng xã hội,
Mác Veibơ đặc biệt nhấn mạnh nguyên nhân uy tín và quyền lực. Khác với C.Mác,
Mác Veibơ cho rằng nguyên nhân cơ bản dẫn đến giàu nghèo và phân tầng xã hội
là khả năng thị trờng của từng thành viên trong xã hội. Tuy thừa nhận những khía
cạnh hợp lý về quan niệm của Mác Veibơ nhng nhiều nhà xã hội học t sản cũng
phê phán, đánh giá : Những tiếp cận của Mác Veibơ có xu hớng tập trung vào
công việc mà coi nhẹ của cải nh một yếu tố cốt yếu của cấu trúc giai cấp và nếu
chúng ta quan tâm đến tập trung lợi thế và quyền lực, chúng ta không thể quên
giai cấp t sản của C.Mác với độc quyền sở hữu các tài sản sản xuất.
Cùng tham gia tìm kiếm các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, các nhà
nghiên cứu trên thế giới đã phân tích khá toàn diện các nguyên nhân dẫn đến
nghèo đói. Tuy vậy, cách tiếp cận phân tích các nguyên nhân dẫn đến giàu nghèo
và phân hoá thu nhập rất đa dạng. Nhiều nhà xã hội học hiện đại khái quát 3 nhóm
nhân tố liên quan đến giàu nghèo là tài sản, trí tuệ, uy tín và quyền lực.
Thông thờng, ở nớc ta, nguyên nhân dẫn đến nghèo đói thờng đợc tiếp cận
thành hai nhóm ; nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Khi phân
tích nguyên nhân khách quan thờng nhấn mạnh lý do chung, môi trờng, những tác
nhân bên ngoài ngời nghèo đói nh hậu quả chiến tranh, thiếu t liệu sản xuất,
thiên tai, mặt trái của kinh tế thị trờng, thiếu sót trong chính sách của Nhà nớc, gặp
12
rủi ro... Về nguyên nhân chủ quan là do thiếu vốn, thiếu khả năng kinh doanh, sinh
đẻ nhiều, chi tiêu không có kế hoạch... Một số cá nhân và tổ chức, khi nghiên cứu
nguyên nhân nghèo đói đã xem xét nguyên nhân ở 2 cấp độ : cấp cộng đồng và cấp

hộ gia đình. ở cấp cộng đồng, các nguyên nhân thờng đợc nhắc đến là : khí hậu
khắc nghiệt, sự cách biệt về địa lý, hậu quả chiến tranh...Còn cấp độ hộ gia đình
gồm những nguyên nhân nh thiếu vốn, bị rủi ro riêng, thiếu đất đai... Cũng có thể
tiếp cận trực diện, gọi đích danh từng nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Dù tiếp
cận nguyên nhân nh thế nào chúng ta đều thấy sự phân biệt các nguyên nhân có
tính chất tơng đối và giữa các nguyên nhân có quan hệ chặt chẽ với nhau, khảng
định nguyên nhân của đói nghèo rất đa dạng và giải quyết chúng phải có quá trình
lâu dài.
Từ việc nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của các học giả trên thế
giới và ở nớc ta có thể thấy việc phân hoá giàu nghèo, nghèo đói do các nhóm
nguyên nhân chủ yếu sau đây;
- Chiến tranh thế giới, cục bộ, sắc tộc.
- Khủng hoảng kinh tế, mất ổn định về chính trị. Trong những thập kỷ gần
đây trào lu mở cửa, hội nhập diễn ra ồ ạt trên thế giới bên cạnh mặt tích cực cũng
gây nên những hậu quả xấu cho nhiều quốc gia do xem nhẹ nội lực, quá nhấn
mạnh nguồn lực từ bên ngoài, (nh Inđônesia, ở áchemtina...)
- Bản chất của Nhà nớc chi phối các chính sách liên quan đến phục vụ lợi ích
cho các nhóm dân c trong xã hội.
- Các cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo.
- Các nguồn lực và điều kiện tự nhiên nh : khí hậu thời tiết, đất đai, tài
nguyên, khoáng sản...
- Các khả năng lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, hoạt động kinh doanh nh :
quản lý vĩ mô, quản lý các nguồn lực, quản trị kinh doanh...
- Hoàn cảnh riêng và sự cố gắng của bản thân của từng ngời nghèo, vùng
nghèo và của cả quốc gia (nh vốn, đất đai và tài nguyên khác, ý thức, kỹ năng...)
13
- Sự quan tâm của cộng đồng quốc tế hoặc cộng đồng trong phạm vi từng
quốc gia...
Khi phân tích các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, có những nguyên nhân
hầu hết đợc các học giả khảng định, nhng cũng có những nguyên nhân còn đợc

tranh luận. Sự khác biệt trong nhận dạng các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của
các học giả không chỉ xuất phát từ trình độ hoặc phơng pháp tiếp cận mà còn phụ
thuộc vào nhãn quan chính trị - giai cấp của từng học giả.
Từ việc tiếp cận hàng loạt các quan niệm khác nhau về nguyên nhân nghèo
đói nêu trên, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
- Nghèo đói, nhất là nguyên nhân dẫn đến nghèo đói là vấn đề đợc thế giới
rất quan tâm. Nhận diện chính xác nguyên nhân dẫn đến nghèo đói là điều kiện cơ
bản để hoạch định chính sách, phơng pháp phù hợp cho công tác xoá đói giảm
nghèo.
- Dù theo cách tiếp cận nào thì nguyên nhân dẫn đến nghèo đói đều đợc thừa
nhận là rất đa dạng, mức độ tác động với các quốc gia rất khác nhau. Từ đó, các
giải pháp thực hiện xoá đói giảm nghèo vừa mang tính phổ biến bao gồm cả những
giải pháp về chính trị, kinh tế và xã hội, vừa mang tính đặc thù.
- Nghèo đói là vấn đề liên quan đến quốc gia, quốc tế, cộng đồng và từng
nhóm nghèo. Do đó, chơng trình xoá đói giảm nghèo phải là sự cố gắng của nhiều
cấp, nhiều nghành và nỗ lực chủ quan của ngời nghèo.
- Nớc nghèo, ngời nghèo thờng chịu thua thiệt và thiếu lợi thế trong hoà
nhập quốc tế và hoà nhập cộng đồng. Sự giúp đỡ hỗ trợ của bên ngoài là rất quan
trọng nhng quyết định là sự cố gắng tự vơn lên của từng quốc gia nghèo và từng
gia đình nghèo.
1.1.3. Những khó khăn thách thức đối với các nớc nghèo và nhóm dân c nghèo
đói.
Trong phạm vi một quốc gia, trong quá trình phát triển, sự phân hoá giàu
nghèo ngày càng có khoảng cách lớn, bộ phận ngời nghèo đói bị tụt hậu nhiều mặt,
14
muốn vơn lên đủ ăn, khá giả là một quá trình đầy gian khổ. Trên phạm vi quốc tế,
các quốc gia nghèo muốn vơn lên cũng gặp phải những khó khăn thách thức không
nhỏ. Các nớc nghèo muốn cạnh tranh để đứng vững và phát triển phải chấp nhận
mọi thử thách nghiệt ngã, vợt lên không phải dễ dàng, trong vòng xoáy của xu thế
toàn cầu hoá hội nhập có nớc lên ngôi, có nớc tụt hậu, xuống cấp. Những khó khăn

thách thức bao gồm:
- Cạnh tranh không ngang sức giữa các nớc nghèo với các nớc giàu. Phải
khẳng định rằng hiện nay, hệ thống luật chơi quốc tế và hầu hết các tổ chức kinh
tế - xã hội trên thế giới đều do các nớc giàu, các tập đoàn xuyên quốc gia khống
chế và bênh vực quyền lợi cho các nớc giàu. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến
nay, các nớc đang phát triển - nhất là các tổ chức các nớc không liên kết đã và
đang đấu tranh cho việc thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới, một hệ thống
luật chơi mới bình đẳng nhng kết quả còn thấp. Vơn lên trong hoàn cảnh cạnh
tranh không ngang sức với các nớc giàu là thách thức đối với các nớc nghèo. Và
thực tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay khoảng cách về trình đội phát
triển, thu nhập, đời sống của các nớc thuộc nhóm nghèo với các nớc giàu không
những không giảm mà còn gia tăng.
- Toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập là xu hớng tất yếu buộc mọi nớc
nghèo phải tham gia. Nhng lý thuyết, thực tiễn đã chứng minh tính hai mặt của hội
nhập quốc tế đối với các nớc nghèo. Bên cạnh việc có thể tiếp nhận đợc vốn, công
nghệ, mở rộng thị trờng lu thông hàng hoá thông thoáng, kinh nghiệm quản lý... thì
cũng vấp phải hàng loạt khó khăn, mức độ canh tranh gay gắt, do khả năng quản lý
có hạn dễ bị nguy cơ nh phải tiếp nhận kỹ thuật công nghệ lạc hậu, hàng hoá sản
xuất trong nớc không có khả năng cạnh tranh, hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị
mua sắm bằng vốn vay kém hiệu quả, nợ nần chồng chất...
- Sức ép của dòng ngời di tản ra nớc ngoài, dòng ngời nông thôn vào đô thị,
đang làm cho đói nghèo tăng lên cả ở thành thị và nông thôn, cả trong nớc và liên
quốc gia.
15
- Mức độ hởng thụ về văn hoá, giáo dục, y tế, thông tin và thị trờng, đối với
ngời nghèo bị hạn chế đang là lực cản rất lớn đối với ngời nghèo, không chỉ trớc
mắt mà hậu quả của nó còn lâu dài.
- Mâu thuẫn nội bộ về sắc tộc, tôn giáo, nớc mạnh tuỳ tiện dùng bạo lực ép
nớc yếu, chiến tranh, xung đột luôn đẩy ngời nghèo đến bên bờ vực thẳm.
- Chiến lợc, chính sách, hệ thống tổ chức quản lý cha đồng bộ và sự hạn chế

về nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo ở các quốc gia kém phát triển, các nớc giàu
cha đóng góp một cách tích cực để tăng nhanh phơng tiện vật chất thúc đẩy quá
trình xoá đói giảm nghèo trên phạm vi toàn thế giới.
Nhận rõ những thách thức nghiêm trọng trên, càng đặt trách nhiệm nghiêm
túc trớc mọi quốc gia đối với hàng tỷ ngời nghèo khổ và cũng là sứ mệnh lịch sử
của các quốc gia muốn phát triển bền vững để bớc vào thế kỷ XXI này.
1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về thực hiện XĐGN.
Trong mấy thập niên gần đây, nhiều nớc đang phát triển rất chú trọng việc
XĐGN. Các diễn đàn quốc tế và khu vực về đói nghèo ở Malaisia, Cophehagen
(Đan Mạch), Bắc Kinh (Trung Quốc) đều đa vấn đề đói nghèo vào nội dung chính
của chơng trình nghị sự. Riêng các nớc Đông Nam á, đói nghèo đã đợc bàn bạc
tranh luận thờng xuyên trong 2 thập niên nay. Một quốc gia nh Philippin và
Indonesia đã xây dựng chơng trình quốc gia về XĐGN, có cơ chế chính sách và tổ
chức bảo đảm thực hiện, từ cấp vĩ mô xuống các ngành các cấp. Trong hợp tác
song phơng, Cộng hoà liên bang Đức đã rất chú trọng mục tiêu xoá đói giảm nghèo
trong chính sách hợp tác quốc tế. Nhiều tổ chức quốc tế, trong hoạt động của mình
đã và đang quan tâm đến các nớc nghèo và dân nghèo. Ngoài việc giúp đỡ vốn,
Ngân hàng thế giới có phân biệt trong chính sách dựa vào mức thu nhập của từng
quốc gia. Nhiều nớc có số dân đông nhất thế giới nh Trung Quốc, ấn Độ đã gắn
phát triển kinh tế - xã hội với XĐGN và đã thành công trong lĩnh vực xóa đói giảm
nghèo, coi đó là yếu tố phát triển kinh tế bền vững. Nhờ một số giải pháp tích cực
trong hai thập kỷ 1970 - 1990, số ngời nghèo đói nói chung ở nhiều quốc gia đã
16
giảm đáng kể nh Malaysia và Indonesia. Ví dụ ở Indonesia, năm 1970 số ngời
nghèo đói là 60% thì năm 1994 còn khoảng 25%. Tuy vậy, trong 3 năm gần đay tỷ
lệ ngời nghèo ở một số quốc gia Châu á nh Thái Lan, Inđônêsia, Philippin... lại
tăng lên do khủng hoảng kinh tế, bất ổn về chính trị, xung đột sắc tộc. Thậm chí,
có học giả nhận định rằng khủng hoảng kinh tế và bất ổn về mặt xã hội ở Indonesia
trong 3 năm gần đây đã làm tiêu tan toàn bộ thành tựu về xoá đói giảm nghèo của
quốc gia này trong hơn hai thập kỷ qua. Vì vậy, phân hoá thu nhập, nghèo đói là

hiện tợng đã tồn tại từ lâu trong lịch sử và phấn đấu giảm nghèo đói là việc mà
nhiều quốc gia đã và đang quan tâm.
Cần lu ý là XĐGN ở mỗi quốc gia không chỉ do Nhà nớc của quốc gia đó
tiến hành mà còn do nhiều tổ chức quốc tế (nh Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới,
Hội phụ nữ dân chủ quốc tế...), các tổ chức phi chính phủ thực hiện (nh OXFAM,
tổ chức thầy thuốc không biên giới...). ở tầm quốc gia, trên thế giới xuất hiện
nhiều mô hình khác nhau. ở đây không có điều kiện trình bày thực tiễn và kinh
nghiệm XĐGN của tất cả các quốc gia và tổ chức quốc tế mà chỉ nêu cách làm,
kinh nghiệm của một số quốc gia mà theo học viên là có những nét tiêu biểu,
những kinh nghiệm quí có thể nghiên cứu XĐGN ở nớc ta. Vì mỗi quốc gia có
những kinh nghiệm đặc thù. Vì vậy, để XĐGN phải có sự nỗ lực từ phía bản thân
ngời nghèo, cộng đồng, quốc gia và quốc tế
a. ở Vơng quốc Thuỵ Điển : Đã có một thời kỳ, Thuỵ Điển phát triển theo
mô hình Nhà nớc phúc lợi chung. Đặc trng cơ bản của mô hình này là ở Thuỵ Điển
so với nhiều nớc t bản khác là Nhà nớc rất coi trọng và có vai trò quan trọng trong
phân phối. Năm 1995, chi tiêu của Chính phủ đạt mức 65% thu nhập quốc dân,
trong lúc đó, ở các nớc khác chỉ tiêu trên chỉ ở mức 33 - 52%. Có thể nói, Chính
phủ Thuỵ Điển đã thực hiện hàng loạt các biện pháp để đảm bảo các nhu cầu tối
thiểu cho con ngời, chiếu cố thoả đáng đến nhóm có thu nhập thấp và cố gắng
giảm dần mức chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân c. Nhờ đó, ở những năm 80,
ở Thuỵ Điển, 20% số hộ gia đình có thu nhập cao nhất nhận đợc 26,9% thu nhập,
17
còn 20% số gia đình có mức thu nhập thấp nhất đợc hởng 8% thu nhập. Cùng thời
gian trên, hai chỉ tiêu trên ở Mỹ là 41,9% và 4,7%.
Tuy vậy, sau nhiều năm thực hiện mô hình nhà nớc phúc lợi chung, nền kinh
tế Thuỵ Điển bớc vào giai đoạn trì trệ, tăng trởng thấp, tỷ lệ thất nghiệp, chỉ số giá
tiêu dùng đều tăng...Nguyên nhân quan trọng đợc nhiều chuyên gia đánh giá là
động lực kinh tế giảm sút, sự ỷ lại của ngời dân vào phúc lợi xã hội. Thuỵ Điển
buộc phải điều chỉnh chính sách, tăng động lực kinh tế, sử dụng nhiều hơn các
công cụ thị trờng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây chính là biểu hiện thất bại

của mô hình Nhà nớc phúc lợi chung.
ở các nớc nghèo, các nớc đang phát triển cũng tiến hành nhiều biện pháp
XĐGN, giảm khoảng cách giàu nghèo. Cách làm của các nớc rất khác nhau, có
những kết quả, thành công nhng nảy sinh không ít những vấn đề nan giải, có cả
thành công và không thành công. Sau đây là kinh nghiệm của một số nớc đang
phát triển.
b. ở Trung Quốc: Từ khi cách mạng vô sản thành công (1949), có thể chia
quá trình phát triển kinh tế, phân hoá giàu nghèo và các hoạt động XĐGN làm hai
giai đoạn, từ năm 1949 đến năm 1977 là thời kỳ xây dựng CNXH theo mô hình kế
hoạch hoá tập trung và từ năm 1977 đến nay thực hiện cải cách kinh tế theo hớng
nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
So với nhiều nớc trong khu vực và trên thế giới, tuy ở Trung Quốc chênh
lệch nghèo không lớn nhng số dân nghèo đói rất cao. Từ 1985 - 1988, chênh lệch
thu nhập giữa 20% nhóm dân c giàu nhất với 20% nhóm nghèo nhất chỉ 6,5 lần và
hệ số Gini chỉ là 0,3.
Nhờ đổi mới nền kinh tế có hiệu quả và thực hiện một số chính sách trực
tiếp để XĐGN nên số ngời nghèo ở Trung Quốc giảm xuống nhanh chóng. Nếu
theo mức chuẩn nghèo của Cục Thống kê Trung ơng Trung Quốc là có thu nhập
100 nhân dân tệ/ 1 ngời/ 1 năm thì số ngời nghèo ở nông thôn năm 1978 là 250
triệu ngời ( chiếm 30% dân số ), đến năm 1985 chỉ còn 125 triệu ngời và 1998 chỉ
còn 42 triệu ngời. Trong quá trình cải cách kinh tế, Trung Quốc đã thực hiện nhiều
18
biện pháp để hạn chế phân hoá giàu nghèo và XĐGN. Tuy vậy, dân nghèo nói
chung và dân c nông thôn Trung Quốc không những thu nhập thấp mà mức hởng
thụ của dịch vụ xã hội vẫn rất thấp kém. Năm 1996, trong lao động nông thôn
Trung Quốc, số ngời mù chữ chiếm 22,25%, số có trình độ tiểu học là 45,1%.
Có thể phân loại những biện pháp đợc thực hiện ở Trung Quốc thành hai
nhóm: nhóm các biện pháp chung và nhóm các biện pháp trực tiếp XĐGN.
- Nhóm các biện pháp chung: các biện pháp chung của Trung Quốc đợc
thực hiện rất phong phú và thay đổi từng thời kỳ, những biện pháp chính đã thực

hiện:
+ Duy trì ổn định chính trị: Trung Quốc quan niệm rằng giữa ổn định chính
trị và nghèo đói có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu không ổn định chính trị, các
mục tiêu kinh tế - xã hội không thể thực hiện, ngời dân không yên ổn làm ăn, sinh
sống, nếu làm cho ngời nghèo tăng, bị bần cùng hoá còn bộ phận khác lại giàu có,
sẽ dẫn đến xung đột chính trị, xã hội. Từ đó, cùng với chính sách cải cách mở cửa,
Trung Quốc không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh, sẵn sàng trấn áp các hành
vi chống lại chính quyền, đe doạ an ninh quốc gia và trật tự xã hội.
+ Thúc đẩy tăng trởng kinh tế nhằm tạo thêm việc làm, thu nhập cho mọi
ngời: Hai thập kỷ gần đây, Trung Quốc là quốc gia có tốc độ tăng trởng kinh tế cao
nhất thế giới. Bên cạnh việc hình thành những khu công nghiệp, khu chế xuất hiện
đại ở vùng ven biển, vùng hấp dẫn đầu t nớc ngoài, Trung Quốc chú ý đến thúc đẩy
tăng trởng kinh tế nông thôn. Đến nay, sản phẩm của công nghiệp hng trấn, công
nghiệp địa phơng với hầu hết là quy mô vừa và nhỏ đã tạo ra việc làm và thu nhập
cho hàng chục triệu nông dân.
+ Điều tiết hợp lý thu nhập, phân phối: Trung quốc đã thực hiện kiên quyết
việc chống tham nhũng, kinh doanh trái pháp luật đồng thời thực hiện bảo hiểm xã
hội, áp dụng nhiều biện pháp để điều tiết vĩ mô về thu nhập.
+ Tạo việc làm thông qua thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là cơ cấu
kinh tế nông thôn. Ngoài thúc đẩy phát triển xí nghiệp hơng trấn, việc hình thành
19
các thị tứ, thị trấn, hoàn thiện dần hệ thống giao thông nông thôn đã thú đẩy dịch
vụ nông thôn phát triển.
+ Chú ý thích đáng đến phát triển vùng: Trớc hết, Trung Quốc thúc đẩy việc
hình thành những vùng động lực, trọng điểm, đồng thời khuyến khích bố trí công
nghiệp theo lãnh thổ để góp phần cải biến nông thôn. Chính sách thu ngân sách và
điều tiết ngân sách có phân biệt để u tiên cho các vùng khó khăn có điều kiện tài
chính để vơn lên.
- Các giải pháp, chính sách XĐGN ở Trung Quốc khá đa dạng, linh hoạt.
Sau đây là những giải pháp đợc khuyến khích thực hiện:

+ Xây dựng các mô hình, chỉ đạo điểm cho từng vùng, từng địa phơng để
làm hình mẫu, đầu tàu lan toả. Trung Quốc chú ý xây dựng các điểm tiêu phú,
xây dựng các thị trấn, thị tứ ở nông thôn để từ đó làm tiền đề lan tỏa cho cả vùng.
+ Huy động nhiều nguồn lực để thực hiện XĐGN: trớc hết, Trung Quốc
khuyến khích các nhà đầu t nuớc ngoài đầu t vào những vùng đất hoang, đồi núi.
Để giữ đất nông nghiệp trớc yêu cầu cao của công nghiệp hoá, đô thị hoá, chính
phủ Trung Quốc quy định: việc chuyển mục đích quyền sử dụng đất nông nghiệp
phải thực hiện theo nguyên tắc lấy bao nhiêu khai hoang bù bấy nhiêu và hình
thành quỹ riêng để khai hoang bù đắp cho việc chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp. Ngoài vốn của nhà nớc, của cộng đồng, Trung Quốc tranh thủ tối đa vốn
cho mục tiêu XĐGN từ Ngân hàng thế giới, và các tổ chức phi chính phủ.Cùng với
sự trợ giúp vốn để tạo việc làm, tăng thu nhập, Trung Quốc còn có sự hỗ trợ tích
cực về truyền thông, giáo dục, y tế cho các hộ nghèo và vùng khó khăn. Đặc biệt
Trung Quốc đã yêu cầu và khuyến khích các vùng giàu, địa phơng giàu giúp đỡ
các vùng, địa phơng nghèo nh đã hình thành các cặp địa phơng sau: Bắc Kinh - Nội
Mông, Thiên Tân - Cám Túc, Hà Bắc - Quỳ Châu, Thợng Hải - Vân Nam.
Từ sự phân tích trên cho thấy, các biện pháp hạn chế phân hoá giàu nghèo và
XĐGN của Trung Quốc rất đa dạng, ngoài những biện pháp chung còn có những
biện pháp trực tiếp tác động đến ngời nghèo, vừa có những biện pháp kinh tế giúp
20
vốn, mở mang sản xuất vừa có những biện pháp xã hộ nh giáo dục, y tế, đào tạo, kế
hoạch hoá gia đình.
c. ở cộng hoà Inđônêxia: Inđônêxia là quốc gia đông dân nhất khối Đông
Nam á, với hơn 7 ngàn đảo lớn nhỏ với những tính đa dạng về điều kiện sinh thái,
dân tộc, chia cắt về địa hình, phát triển kinh tế và thực hiện xoá đói giảm nghèo là
công việc rất phức tạp.
ở thời kỳ đầu sau khi giành đợc độc lập, nền kinh tế và chiến lợc phát triển
kinh tế rất khó khăn, lúng túng. Kinh tế chậm tăng trởng, dân số tăng nhanh nên
thu nhập bình quân của dân c có xu hớng giảm sút. Nếu nh năm 1957, thu nhập
bình quân 1 ngời dân còn đạt 131 USD thì đến năm 1961 giảm xuống chỉ còn 83

USD
Sau đó, Nhà nớc Inđônêxia có hàng loạt các biện pháp nhằm khôi phục và
phát triển kinh tế. Inđônêxia thực hiện chiến lợc mở của, tăng xuất khẩu - nhất là
xuất khẩu khoáng sản, sản phẩm nông lâm thuỷ sản. Đến năm 1996, kim ngạch
xuất khẩu của Inđônêxia đạt 55 tỷ USD. Nhờ kinh tế tăng trởng và bớc đầu nhận
thức đợc tác hại của phân hoá giàu nghèo và cuộc sống khó khăn của ngời nghèo,
trong suốt thập kỷ 80 và nửa đầu thập kỷ 90, Inđônêxia đã thực hiện nhiều biện
pháp xoá đói giảm nghèo, đa mục tiêu xoá đói giảm nghèo thành mục tiêu quốc
gia. Chính phủ đã trợ cấp ngân sách hỗ trợ tín dụng cho ngời nghèo, khuyến khích
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhờ những biện pháp tích cực, nên số
ngời nghèo của Inđônêxia từ những năm 70 đến đầu những năm 90 liên tục giảm
xuống. Năm 1976, số ngời sống dới mức nghèo khổ là 54 triệu ngời nhng đến năm
1987 chỉ còn 30 triệu ngời. Năm 1996, Inđônêxia đợc giải thởng của Liên hợp
quốc về thực hiện chơng trình xoá đói, giảm nghèo.
Nhng từ cuối năm 1996, kinh tế - xã hội và chính trị Inđônêxia lâm vào
khủng hoảng nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo tham nhũng, xung đột về lãnh thổ,
bạo động, khủng hoảng kinh tế, đặc biệt thực thi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu t
thiên về hớng ngoại, khi có chấn động khủng hoảng kinh tế xuống dốc, đời sống
của nhân dân - nhất là tầng lớp nghèo bị giảm sút nghiêm trọng. Có nhà nghiên
21
cứu đã khảng định rằng, khủng hoảng kinh tế - xã hội và bất ổn về chính trị đã làm
tiêu tan thành quả xoá đói giảm nghèo của gần 20 năm trớc đó.
Ngoài Inđônêxia, Philippin, Thái Lan và nhiều nớc trong khu vực đều nảy
sinh tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng, bất bình đẳng, một bộ phận
dân c sống nghèo khổ. Dù ít nhiều và mức độ, cách làm khác nhau nhng các nớc
khu vực châu á nh : Thái Lan, Philippin đều có những biện pháp để cố gắng giảm
mức chênh lệch và giúp đỡ ngời nghèo.
Qua nghiên cứu thực tế phân hoá giàu nghèo, thực hiện các chính sách xã
hội và chống đói nghèo của các nớc đã nêu trên và một số quốc gia khác trên thế
giới, chúng ta rút ra những nội dung sau:

- Phân hoá thu nhập, chênh lệch giàu nghèo là hiện tợng phổ biến ở các quốc
gia. Đó là kết quả của nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về sự
quan tâm của Nhà nớc trong việc hoạch định và thực thi chiến lợc, chính sách phát
triển, gắn tăng trởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
- Nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo quá mức là một trong nguyên nhân
gây mất ổn định chính trị - xã hội làm cho kinh tế tăng chậm hoặc suy thoái, phá
vỡ tính bền vững của quá trình phát triển.
- Vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết thu nhập, thực hiện các chính
sách xã hội và thực hiện xoá đói giảm nghèo rất quan trọng từ chiến lợc, chính
sách cho đến các giải pháp XĐGN.
- Sự kết hợp giữa tính tích cực của kinh tế thị trờng, tạo động lực tăng trởng
kinh tế và XĐGN là vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm. Quá thiên lệch về nhu cầu
tăng trởng hoặc u tiên thiếu tính toán các vấn đề về xã hội đều dẫn đến hậu quả
xấu.
- Nghèo đói là vấn đề toàn cầu và đợc nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế
quan tâm nh cách làm, mô hình thực hiện XĐGN rất đa dạng, trong đó, một số
quốc gia vẫn cha tìm ra mô hình lý tởng cho kết hợp giữa tăng trởng kinh tế với
giải quyết vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
22
- Xoá đói giảm nghèo phải đợc thực hiện đồng thời với các chơng trình phát
triển kinh tế - xã hội khác và là nỗ lực từ nhiều phía: Nhà nớc, cộng đồng và bản
thân ngời nghèo, phát huy nguồn lực bên trong đồng thời khai thác nguồn lực bên
ngoài để XĐGN.
Từ sự phân tích về nguyên nhân nghèo đói, kinh nghiệm giải quyết vấn đề
nghèo đói, kế thừa những kết quả nghiên cứu đã công bố, có thể rút ra một số kết
luận sau đây:
1. Nghèo đói và phân hoá thu nhập giữa nhóm giàu và nghèo đang là hiện t-
ợng toàn cầu. Giải quyết nghèo đói phải là mối quan tâm chung của các quốc gia
và quốc tế, trong đó có trách nhiệm của những nớc giàu.
2. Nghèo đói liên quan đến tổng hợp nhiều nhân tố, điều kiện nh nhân tố

chính trị - xã hội, dân số, tài nguyên môi trờng, quản lý. Do đó xoá đói giảm nghèo
là chơng trình rất tổng hợp.
3. Hiện tợng chênh lệch thu nhập cao, bất bình đẳng và nghèo đói là hiện t-
ợng có thể hạn chế có sự nỗ lục từ nhiều phía, quốc gia, quốc tế, cộng đồng và bản
thân ngời đói nghèo.
4. Toàn cầu hoá kinh tế là xu hớng tất yếu mà mỗi nớc nghèo phải tham gia.
Nhng hậu quả, mặt trái của toàn cầu hoá rất lớn. Do đó, tìm ra cách thức để hội
nhập chủ động, tự vơn lên để thoát nghèo là thách thức, khó khăn rất lớn đối với
các nớc nghèo.
1.3. Vấn đề đói nghèo ở Việt Nam.
1.3.1. Các quan điểm xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Ngay từ khi mới thành lập (1945) Nhà nớc ta đã rất quan tâm đến XĐGN.
Lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nớc non trẻ Việt Nam đã coi đói nghèo
là một loại giặc cần phải chống nh giặc ngoại xâm. Từ khi hoà bình lặp lại ở
Miền Bắc (1954) và thống nhất đất nớc, Đảng và Nhà nớc đã có nhiều quyết sách
để xoá dần nghèo đói nh cải cách ruộng đất, xây dựng các công trình thuỷ lợi,
miễn giảm thuế để giúp các tầng lớp dân nghèo. Làm cho dân bớt nghèo, vơn lên
23
giàu không phải là những chính sách nhất thời có tính chất đối phó mà là chủ trơng
chiến lợc, là mục tiêu trong hoạt động của Đảng và Nhà nớc ta. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng khẳng định sau khi giành đợc độc lập mà nhân dân vẫn nghèo đói thì
độc lập, tự do cha đợc trọn vẹn, cha đạt đến mục đích cuối cùng.
Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), đất nớc ta bớc vào
công cuộc đổi mới toàn diện, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp chuyển
sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sau này lả kinh tế thị trờng định hớng
XHCN, giải phóng sức sản xuất, kinh tế phát triển, thu nhập, đời sống của đa số
nhân dân từng bớc đợc cải thiện. Tuy vậy, do điểm xuất phát thấp lại chịu hậu quả
to lớn của thiên tai và chiến tranh, kèm theo tác động mạnh mẽ của cơ chế thị tr-
ờng nên phân hoá thu nhập, đời sống giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng ngày
càng tăng nhanh. Trong tiến trình đổi mới, bộ phận dân nghèo - kể cả những gia

đình có công với cách mạng chịu nhiều thua thiệt. Do đó, rút ngắn chênh lệch giàu
nghèo và trợ giúp ngời nghèo đã trở thành yêu cầu bức thiết, là một trong những
biểu hiện bản chất của chế độ XHCN. Lúc đầu, phong trào xuất hiện là sáng kiến
của các địa phơng. Dần dần, XĐGN đợc Đảng và Nhà nớc ta khẳng định là chơng
trình quốc gia.
Nghiên cứu đờng lối và các chủ trơng của Đảng và Nhà nớc có thể rút ra các
quan điểm cơ bản sau đây của hoạt động XĐGN ở nớc ta.
a/ Xoá đói giảm nghèo phải đợc giải quyết trong tổng thể chiến lợc phát triển
của nớc ta là kết hợp hài hoà giữa tăng trởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã
hội trong suốt quá trình phát triển và ngay trong từng giai đoạn của quá trình phát
triển.
XĐGN, khuyến khích làm giàu chính đáng, lành mạnh hoá xã hội là những
nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trởng kinh tế bền vững, là cơ sở kinh tế để thực hiện
quá trình XĐGN. Việt Nam là quốc gia kinh tế cha phát triển. Nguồn lực của Nhà
nớc, của cộng đồng còn hạn chế và bản thân ngời nghèo càng hết sức khó khăn.
Trong những năm thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng, kinh tế tăng trởng, bớc
đầu tạo việc làm, nguồn vốn và cơ hội vơn lên cho ngời nghèo.
24
Trong hơn 15 năm vừa qua, nền kinh tế nớc ta có những bớc phát triển vợt
bậc. Từ năm 1991-1995, bình quân hàng năm tốc tộ tăng trởng theo GDP là 8,2%,
3 năm 2001 - 2003, mức tăng trởng bình quân trên 7%, đứng hàng thứ hai tại Châu
á (sau Trung Quốc). Nhờ đó, mỗi năm nớc ta đã giải quyết đợc nhiều việc làm
mới. Nhờ kinh tế tăng trởng, thu ngân sách tăng, Nhà nớc có điều kiện đầu t nhiều
hơn cho các chơng trình xã hội và XĐGN. Số hộ nghèo giảm mỗi năm trên 2%.
Tuy nhiên, từ năm 1997 - 1998 do tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực, tăng
trởng kinh tế giảm sút, một số hoạt động kinh tế lâm vào trì trệ, nhiều loại sản
phẩm tồn đọng với số lợng lớn. Hơn nữa trong những năm gần đay, thiên tai liên
tục xảy ra trên diện rộng. Do đó, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở
nông thôn đang có xu hớng gia tăng. Theo đánh giá của Bộ LĐ, TB & Xã Hội năm
2003, tính theo chuẩn mới, cả nớc còn khoảng 2 triệu hộ nghèo đói, chiếm khoảng

10,86% tổng số hộ trong cả nớc. Trong đó, gần 300.000 hộ thờng xuyên thiếu đói
(chiếm khoảng 2%). Thậm chí, còn 1870 xã trong gần 9.000 xã ở nớc ta thuộc diện
đăc biệt khó khăn với 40% số hộ trong xã là nghèo. Nh vậy, đối với nớc ta, giữa
tăng trởng kinh tế, phát triển xã hội và xoá đói giảm nghèo có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Tăng trởng kinh tế là điều kiện vật chất, nội lực để XĐGN; XĐGN
là mục tiêu, động lực của phát triển kinh tế - xã hội, là tiền đề cơ bản đảm bảo cho
sự ổn định, chính trị - xã hội để phát triển kinh tế. Do đó, giải pháp cơ bản là phải
làm cho chơng trình XĐGN trở thành một bộ phận cơ bản trong chiến lợc, chơng
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc gắn liền với tăng trởng bền vững và hạn
chế tác động của thiên tai.
b/ Xoá đói giảm nghèo là vấn đề kinh tế - xã hôị sâu rộng cho nên mọi lúc,
mọi nơi đều phải thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Đói nghèo do kinh tế thấp kém, và bởi trình độ thấp kém, lạc hậu về mọi mặt,
chúng tác động lẫn nhau và hệ quả của nó là đói nghèo, không những từng hộ mà
xã nghèo, huyện nghèo. Từ sau những ngày cách mạng tháng 8/1945 mặc dù còn
phải đối phó thù trong giặc ngoài. Chính phủ Việt Nam đã từng chủ trơng phải
chống giặc đói, giặc dốt. Chủ trơng đó đã mang lại kết quả góp phần vào sự
25

×