Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Nỗi nhớ da diết về thiên nhiên con người Việt Bắc potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.07 KB, 28 trang )

Nỗi nhớ da diết về thiên nhiên con người Việt Bắc

- Trong đoạn trích có hơn 30 từ “nhớ” (cụ thể là 35 từ)

- Tác dụng của việc lặp lại nhiều lần từ “nhớ”.

+ Về tâm lí, một hiện tượng, một âm thanh, một từ xuất
hiện nhiều lần trước mắt ta, buộc ta phải chú ý.

+ Về ý nghĩa “nhớ” gắn liền với đối tượng cụ thể. Nó khắc
sâu trong tâm trạng người đọc, người nghe về sắc thái
tình cảm của con người. Khi diễn tả nỗi nhớ của anh cán
bộ kháng chiến, khi là sự đồng vọng cùng nhớ về sự kiện
cách mạng, kháng chiến. Nỗi nhớ mang nhiều cung bậc.

- Đặc sắc của đoạn thơ là ở chỗ Tố Hữu tạo ra lối đối đáp
trong tưởng tượng. Nhà thơ để Việt Bắc hỏi:

+ Mình đi, có nhớ?

+ Mình về, có nhớ?

Mỗi cụm từ ấy xuất hiện tới ba lần. Nó xoáy sâu vào lòng
người, gợi nỗi nhớ như dòng chảy. Thiên nhiên Việt Bắc
hiện ra:

“Trám bùi”, “măng mai”

+ Những mái nhà “hắt hiu lau xám”

+ Những địa danh cụ thể: “Tân Trào”, “Hồng Thái”



+ Những di tích lịch sử “mái đình, cây đa”

Ba tiếng “mình” trong một câu thơ mang lại cách hiểu
khác nhau. Theo cách hiểu thông thường mình (1), mình
(2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ người ở lại. Nhưng cũng
có cách hiểu mình (1), mình (2), mình (3) chỉ là một đối
tượng: người ra đi. Người ra đi tự hỏi mình, tự đối thoại
với mình để đừng bao giờ quên Việt Bắc. Cũng có thể
người ở lại nhắc người ra đi đừng có quên những ngày
tháng, đừng quên chính mình, đánh mất mình. Thơ như
thế thật dung dị mà sâu sắc.

Đáp lại sự khẳng định:

Ta với mình, mình với ta
Mình ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Cũng là ba tiếng “mình”. Mình (1) và (2) chỉ người ra đi.
Mình (3) chỉ người ở lại. Tiếng gọi ấy gần gũi, thân thiết
quá. Ta nghe như người yêu nói với người yêu, tiếng của
người bạn đời yêu dấu, tiếng của vợ, của chồng. Nhưng
ba tiếng “mình” ấy cũng để chỉ người ra đi. Lời hứa trở
nên mặn mà, đinh ninh, sâu sắc. Nhân vật trữ tình tự phân
thân, lại hoà làm một xoáy sâu vào tiếng nói của tâm trạng
để tìm sự đồng vọng của người đọc người nghe.

- Đó là đoạn thơ:


Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

- Thiên nhiên thật tươi tắn “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”.
Thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của Việt Bắc “Mùa xuân
mơ nở trắng rừng” không ở đâu có được. Không chỉ có ở
màu sắc đường nét mà cả âm vang sôi động: “ve kêu
rừng phách đổ vàng”.

- Cái hay, cái đẹp của đoạn thơ là sự kết hợp đến dung dị,
cứ một câu tả về thiên nhiên là một câu nói về con người.

+ “Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng”: Con người thật
bình dị, khoẻ khoắn trong lao động. Đến những câu:

+ “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

+ “Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Con người cần mẫn trong công việc. Con người Việt Bắc
thật vui, thật tươi sung sướng đón nhận cuộc sống hoà
bình, không có tiếng súng, hạnh phúc đã trở về với họ
“Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

- Đoạn thơ hay và tiêu biểu khi nhớ về thiên nhiên và con
người Việt Bắc. Thiên nhiên làm nền để bức chân dung
phác thảo về con người hiện lên mồn một. Con người gần

gũi với thiên nhiên, bình dị như thiên nhiên.

- Nhớ về những con người lam lũ nghèo khổ:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Tấm lưng người mẹ nghèo miền núi đã đi vào thơ không
chỉ một mà nhiều người:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
(Nguyễn Khoa Điềm - Tiếng hát những em bé lớn trên
lưng mẹ)

Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ nia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc
(Bóng cây Kơ nia-Ngọc Anh phỏng dịch theo điệu Ka choi)

Người đọc không thể quên hình ảnh “nắng cháy lưng”
trong thơ Tố Hữu.

- Nhớ về những người thuỷ chung son sắt, nghĩa tình với
kháng chiến:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Thơ hay và thấm thía bởi đề cập tới nghĩa tình con người

cùng chia sẻ gian khổ và niềm vui. Cuộc sống con người
chỉ đẹp khi gian khổ càng sắt son, gắn bó. Thơ Tố Hữu
luôn đi sâu phát huy những gì tốt đẹp của truyền thống
hơn là theo hướng cách tân hiện đại. Vì thế, nhà thơ
khám phá những nét riêng của cuộc sống bình dị mà ấm
áp của Việt Bắc:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

- Nhưng cũng có lúc nỗi nhớ về cảnh và người Việt Bắc
đẫm trong cảm xúc mơ màng, lãng mạn:

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều lưng nương

Nỗi nhớ thật đẹp. Ta nhận ra trong nỗi nhớ ba đối tượng
không thể tách rời: đó là nhớ về thiên nhiên, con người
cuộc kháng chiến hào hùng và niềm tin sâu sắc.

3. Nỗi nhớ về cuộc kháng chiến và niềm tin của con người

- Đoạn thơ sau:

+ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
… mai lên”
+ “Ai về ai có nhớ không… các khu”

Đọc những đoạn thơ này ta bắt nhịp được với âm vang,
hình ảnh sống động của khúc ca hùng tráng về cuộc
kháng chiến


+ Đó là cuộc kháng chiến thể hiện thể trận của chiến tranh
nhân dân. Toàn dân đánh giặc, đánh giặc ngay tại chỗ,
đánh giặc bằng tất cả những gì có trong tay. Dựa vào
rừng núi để đánh giặc, quân dân đoàn kết:

Núi giăng thành luỹ sắt dây
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

+ Đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Đây là hình
ảnh trên đường ra trận:
“Những người Việt Bắc của ta
…mai lên”

Những hình ảnh so sánh: “Đêm đêm rầm rập như là đất
rung”. Những hình ảnh khẳng định đội ngũ “Quân đi điệp
điệp trùng trùng”;
Những hình ảnh đẹp trong chiến đấu “ánh sao đầu súng”;
Những hình ảnh khẳng định sức mạnh: “bàn chân nát đá”

Tin vui chiến thắng gắn liền với chiến dịch lớn:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Nhịp thơ sôi nổi, giọng thơ hào hùng, những hình ảnh gây
ấn tượng mạnh mẽ khác hẳn ở đoạn trên êm ả, ngọt
ngào, Tố Hữu đã truyền đến cho người đọc, người nghe
khí thế sôi động của chiến tranh toàn dân mà không phải

nhà thơ nào cũng có được. Ở đây Tố Hữu đã kết hợp
giọng điệu ngọt ngào của thơ lục bát với khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn.

+ Tố Hữu đã phản ánh cuộc chiến tranh toàn diện:

Ai về ai có nhớ không
Ngọn cờ đỏ thẳm gió ***g cửa hang
….
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu

Ta vừa đánh giặc vừa lo phát triển kinh tế, vừa đánh giặc
vừa chăm lo phát triển văn hoá. Có như vậy mới thực hiện
đúng đường lối kháng chiến trường kì gian khổ nhưng
nhất định thắng lợi. Ta nói vậy vì ta có niềm tin.

- Tin vào Đảng và Bác Hồ:

ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Ở đâu, ở đâu dù u ám do quân thù tàn phá, giày xéo, đốt
phá, chém giết hãy hướng về Việt Bắc. Nơi ấy có Trung
ương Đảng và Bác Hồ. Câu thơ đã gieo một niềm tin
tưởng. Nhịp thơ, lời thơ đã tạo ra giọng điệu trang trọng,
lắng sâu trong niềm tin tưởng vô bờ. Anh cán bộ kháng
chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc và cả chúng ta
nữa đều có niềm tin ấy.


+ Sử dụng thể thơ lục bát, một hình thức thơ ca dân tộc.
Nó phát huy đầy đủ tiếng Việt nhất là con người Việt Nam.
Đó là thuỷ chung tình nghĩa, đạo lí uống nước nhớ nguồn.

* Những suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của con người đất
nước gắn liền với đạo lí tình nghĩa cách mạng.

- Tình nghĩa thuỷ chung, son sắt với căn cứ địa cách
mạng

Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng chiến thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

- Tình nghĩa thuỷ chung gắn bó trong những ngày kháng
chiến gian khổ, ác liệt:

+ “Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”

+ “Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”

+ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt đầy

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”

- Thuỷ chung tình nghĩa, thơ diễn tả lối sống theo đạo lí
uống nước nhớ nguồn:

+ “Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”

- Thuỷ chung, son sắt với niềm tin vào Đảng, Bác Hồ:

+ “Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”

- Tình nghĩa thuỷ chung với nhân dân các dân tộc Việt
Bắc:

+ “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”

+ “Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đấy đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn xui đắp cùng”

+ “Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”


+ “Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre

×