Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bản chất thuế VAT và VAT ở Việt Nam - 5 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.31 KB, 7 trang )


29

giamt thuế xuất khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Cùng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu
như cho phép doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, thành lập quĩ hỗ trợ xuất khẩu thì việc
thực hiện Luật thuế GTGT có tác dụng rõ nét nhất, trực tiếp đến khuyến khích xuất khẩu.
Theo qui định của luật thuế GTGT hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được
hoàn toàn bộ số thuế GTGT đ• nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với hàng
hoá thực chất là Nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu nên đ• giúp cho doanh nghiệp
xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có lợi thế hơn trước do
giảm được giá vốn hàng xuất khẩu và vì thế góp phần tăng khả năng cạnh tranh với hàng hoá
trên thị trường quốc tế. Trong năm 1999 số tiền đ• hoàn thuế, tăng vốn cho các doanh nghiệp
xuất khẩu khoảng 1.800 tỉ đồng.
Vì vậy trong điều kiện thị trường xuất khẩu bị hạn chế, giá xuất khẩu giảm nhưng với sự cố
gắng của các nghanh, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và tác động của cơ chế chính
sách nên tổng trị giá xuất khẩu của nước ta năm 1999 vẫn tăng so với năm 1998 là 23.18%.
Trong đó những mặt hàng được hoàn thế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998
như: cao su 37,7%, gạo 21,4%, thuỷ sản 14,4%, rau quả 39,6%, dệt may 16%, giày dép
36,4%, thủ công mỹ nghệ 48,6% điện tử 17,5%.
Ngoài việc khuyến khích xuất khẩu, thuế GTGT cà thuế tiêu thụ đặc biệt vào hàng hoá xuất
nhập khẩu đ• có tác dụng cùng với thuế nhập khẩu bảo hộ có hiệu quả sản xuất trong nước.
Nhất là khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại đa phương, song phương phải cắt
giảm thuế quan, thực hiện thuế suất ưu đ•i hoặc phải cắt bỏ hàng rào phi thuế quan thì việc
bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế GTGT và thuế tiêu thụ đặc biệt là biện pháp cực kỳ

30

quan trọng. Tính đến năm 1999, đ• giảm thuế theo chương trình CEPT là 3591 dòng hàng,
trong đó riêng năm 1999 là 1872 dòng hàng. Đồng thoèi nân thuế nhập khẩu của 132 mặt
hàng chủ yếu là hàng tiêu dùng trong nước đ• sản xuất được để bảo hộ sản xuất trong nước.
2./ Về thị trường giá cả.


Trong hai tháng đầu năm 1999, giá một số mặt hàng như: lương thực, thực phẩm, công nghệ
phẩm, dược phẩm, y tế có nhích lên so với tháng 12/1998 là do ảnh hưởng của Tết nguyên
đán và một phần do một số doanh nghiệp, hộ tư nhân chưa hiểu rõ về thuế GTGT hoặc lợi
dụng đ• cộng thêm thuế GTGT vào giá cả để bán. Nhưng Chính phủ đ• chủ động chỉ đạo về
việc chuẩn bị hàng hoá phục vụ Tết, có quyết định miễn thuế GTGT trong 6 tháng đối với
các cơ sở kinh doanh thương mại kinh doanh các mặt hàng lương thực, thực phẩm tươi sống
và rau quả tươi. Đồng thời chỉ đạo các nghành, các cấp từ trung ương đến địa phương tăng
cường quản lý tốt giá cả, thực hiện niêm yết giá cả và bán đúng giá niêm yết. Vì vậy, thị
trường, giá cả đ• trở lại ổn định và không có biến động lơn.
như vậy, tình hình giá cả thị trương trong năm qua đ• cho thấy rằng giá cả là do qui luạt
cung cầu quyết ddịnh và do Nhà nước đ• có biện pháp quản lý giá kịp thời đối với những
mặt hàng có sự khan hiếm giả tạo.
3./ Về thu ngân sách Nhà nước.
Triển khai các luật thuế mới được thiết kế trên cơ sở số thuế GTGT đảm bảo tương đương số
thuế doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp giảm gái 2000 tỷ để thực hiện chính sách ưu đ•i
về thuế suất, về miễn giảm thuế để khuyến khích đầu tư. Thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao giảm để nâng mức khởi điểm chịu thuế và biể thuế của người trong nước và người

31

nước ngoài. Phí, lệ phí giảm do thực hiện Nghị đinh 04 của Chính phủ nhiều khoản thu về
phí, lệ phí phải cắt bỏ hoặc điều chỉnh giảm mức thu. Để đảm bào thực hiện số dự toán thu
năm 1999, Quốc hội giao, đảm bảo yêu cầu chi của Ngân sách Trung ương cũng như Ngân
sách địa phương, Chính phủ đ• báo cáo Quốc hội cho áp dụng cơ chế điều hanh ngân sách
năm 1999. Đối với những địa phương bị hut thu phần điều tiết cho ngân sách địa phương do
tác động của thuế GTGT thì được Trung ương bù đủ, nếu thu vượt được hưởn 50% đối với
số thu so với dự toán. Nguồn hoàn thuế do ngân sách Trung ương bố trí, không lấy từ ngân
sách địa phương.
Cơ chế trên cũng tạo sự yên tâm và quan tâm tích cực của các địa phương trong công tác chỉ
đạo đieèu hành ngân sách nói ching, thu nói riêng. Mặt khác, do cơ chế chính sách được điều

chỉnh, sửa đổi phù hợp hơn cũng góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh đối với các doanh
nghiệp. Công tác chỉ đạo quản lý thu cũng chặt chẽ và tiến bộ nên kết quả thu năm 1999 đạt
được dự toán Quốc hội thông qua. Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 106,8% so với dự
toán. Số thu từ thuế và phí đạt 105,7% dự toán năm. Riêng số thu từ thuế GTGT thu đợc
16.590 tỷ đồng sau khi trừ số thuế phải hoàn, số còn lại tương đương với doanh thu tính theo
mặt hàng năm 1999.
Xét theo địa phương thì có 61/61 tinh, thành phố đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự
toán năm nên khả năng các địa phương được thưởng lơn. Trong đó có 22/61 địa phương
hoàn thành toàn diện cả ba chỉ tiêu chủ yếu là thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh. Số địa phương hụt về thuế

32

GTGT ngân sách Trung ương phải bù thêm chỉ có 14 địa phương và số phải bù cung không
lơn.
Tuy nhiên, tỷ lệ động viên thuế cà phí trên GDP của năm 1999 thấp (17,6%) chưa đạt mức
độ động viên theo Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc đ• đề ra la 20% đến 21% GDP.
4./ Về công tác quản lý hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp.
Để từng bước thực hiện chính sách công bằng về thuế, đ• điều chỉnh lại từ 11 mức thuế suất
thuế lợi tức xuống còn 1 mức thuế suât thu nhập doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp
phải phấn đấu sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý
để thực hiện được các mức thuế suất mới. Do yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ
thuế GTGT đầu vào. Tính đúng thuế thu nhập doanh nghiệp trên nguyên tắc phải có hoá
đơn, chứng từ, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp người kinh doanh chú trọng tổ chức thực
hiện tốt hơn công tác mở sổ sách kée toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ.
Trong năm 1999, số lượng hoá đơn các doanh nghiệp sử dụng tăng gần gấp đôi so với năm
1998 và mức sử dụng hoá đơn tăng thể hiện sự chuyển biến một bước tiến mới trong công
tác sử dụng hoá đơn và quản lý của doanh nghiệp. Sự chuyển biến nầy thể hiện rõ nhất trong
các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đ• thực hiện chế độ
kế toán, hoá đơn chứng từ nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hơn 200.000 hộ kinh

doanh cá thể đ• thực hiện chế độ kế toán hoá đơn chứng từ chuyển từ hình thức nộp thuée
khoán trước đây sang nộp thuế GTGT thep phương pháp kê khai trực tiếp.

33

Đối với 6000 doanh nghiệp Nhà nước và hơn 2400 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đ• được củng cố, có nhiều tiến bộ so với các năm trước
đây.
Do làm tốt hơn công tác kế toán, hoá đơn chứng từ, các đối tượng nộp thuế đ• chủ động khai
lập và nộp tờ khai thuế hàng tháng tương đối đầy đủ và đúng thời hạn. Nếu như trong quí
I/1999 chỉ có 75% số doanh nghiệp nộp tờ khai thuế GTGT thì đến quí IV/1999 đ• tăng lên
khoảng 97% đến 98% số doanh nghiệp nộp tờ khai thuế (trong đó 100% doanh nghiệp Nhà
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp tờ khai đầy đủ và đúng hạn) chỉ còn 2
đến 3% là chưa lập và nộp toè khai hoặc nộp toè khai chậm, cơ quan thuế phải ấn định số
thuế phải nộp hàng tháng.
Cũng do làm tôt công tác kế toán, hoá đơn chứng từ mà các đối tượng nộp thuế đ• quyết toán
tài chính, quyết toán thuế nhanh hơn so với các năm trước đây. Đến hết quí I/2000 đ• có hơn
75% số doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp tự kê khai nộp báo cáo quyết toán tài
chính, quyết toán thuế của năm 1999 cho cơ quan thuế. Như vậy có thể khẳng đinh chính
sách thuế mới găn nộp thuế với hoàn thuế đ• găn với nghĩa vụ quyèen lợi của người nộp
thuế, khuyến khích người nộp thuế chủ động thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước.
II./ những yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế GTGT đạt được những kết quả trên.
1. Chính phủ, Ban chi đạo triển khai các luật thuế mới của Chính phủ, các Bộ, các
Ngành, các địa phương đ• bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Bộ chính trị, Quốc
hội, của UBTVQH để tổ chức triển khai thực hiện các luật thuế mới.

34

Trong quá trình triển khai Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương đ• bám sát cơ
sở sản xuất kinh doanh, phát hiện những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các

luật thuế mới, nghiên cứu, đề xuất những giải phấp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp như: bổ xung vào danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT:
máy bay, giàn khoan, tàu biển, thuê phim nhựa, phim video, sách báo, tạp chí nhập khẩu
Điều chỉnh giảm mức thuế suất cho 18 nhóm hàng hoá, dịch vụ Mở rộng việc khấu trừ
đầu vào đối với phế liệu, đá, cát sỏi mua của người tự khai thác, hàng chịu thuế TTĐb mua
của cơ sở sản xuất và các hàng hoá khac nếu có hoá đơn bán hàng, giảm thuế nhập khẩu cho
các mặt hàng là nguyên liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước. Xử lý thuế đối với công
trình xây dựng cơ bản hoàn thành năm 1999 Các ban chỉ đạo đ• quản lý tốt thị trường, giá
cả, đặc biệt là trong thời gian đầu áp dụng các luật thuế mới.
Một số Ban chỉ đạo các Bộ, địa phwong hoạt động tương đối tốt như: Ban chỉ đạo thuộc Bộ
công nghiệp, Bộ xây dựng, Bộ thương mại, Ban vật giá Chính phủ, Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn, Ban chỉ đạo thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Hải
Dương, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai, Cần Thơ.
2. Công tác tuyên truyền, phổ biến luật về thuế, tập huấn nghiệp vụ có nhiều tiến bộ hơn
so với các đợt triển khai các luật thuế trước đây. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương và các
địa phương đ• phối hợp chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, các đài báo Trung ương và địa
phương đ• phối hợp khá chặt chẽ với cơ quan thuế, để đẩy mạnh tuyên truyền giải thích các
luật thuế mơi, phản ánh kịp thời những gương điển hình thực hiện tốt các luật thuế mới cũng
như những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện các luật thuế mới.

35

3. Các cơ sở kinh doanh và mọi tầp lớp nhân dân đều hưởng ứng và đồng tình thực hiện
các luật thuế mới do nhận thức được các luật thuế mới tiến bộ hơn và có nhiều ưu điểm hơn
các luật thuế cũ. Có quyết tâm cao trong thực hiện luật thuế mới. Đồng thời phản ánh kịp
thời những nhược điểm và vướng mắc để Chính phủ kịp thời điều chỉnh, chỉ đạo thực hiện.
4. Sự phấn đấu nỗ lực của ngành Thuế quan và ngành Hải Quan từ việc chuẩn bị triển
khai đến việc tổ chức thực hiện các luật thuế mới, cụ thê:
- Đã triển khai việc cấp mã số cho 1.105.560 đơn vị doanh nghiệp có vố đầu tư nước
ngoài là 2.461 đơn vị. Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân

là 36,680 đơn vị. Hợp tác xã. 15.970 đơn vị. Hộ cá thể là 1.024.456 hộ. Qua việc cấp m• số
đã nắm chắc được số lượng đối tượng nộp thuế.
- In và cung cấp đủ hoá đơn, chứng từ cho các doanh nghiệp. Đến ngày31/12/1999 số
lượng hoá hơn đã phát hành là 1.456.300 quyển (tương ứng với 73.065.000 số hoá đơn).
Trong đó, có 1.061.300 quyển hoá đơn GTGT và 404.000 quyển hoá đơn bán hàng thông
thường. Ngoài ra còn có cho phép gần 1.000 Tổng công ty, công ty tự in hoá đơn để sử dụng
riêng.
- Đ• cải tiến qui trình kê khai nộp thuế theo hướng nâng cao trách nhiệm của doanh
nghiệp trong việc tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp thuế theo thông báo thuế. Thực tế cho
thấy, các doanh nghiệp thực hiện chế độ tự kê khai và tính nộp thuế tương đối đầy đủ, đúng
hạn. Đến nay, chỉ còn khoảng 2 đến 3% số đối tượng nộp thuế theo phương pháp kê khai là
chưa nộp tờ khai, cơ quan thuế phải ấn định số thuế phải nộp hàng tháng.

×