Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

tăng trưởng kinh tế và đời sống vật chất , PLXH cho người dân ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.83 KB, 97 trang )


lời mở đầu
Trong sự phát triển đi lên của đất nớc ta, các doanh nghiệp luôn luôn
phải phấn đấu vơn lên để dứng vững trên thị trờng, Doanh nghiệp là một mắt
xích của quá trình tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế quốc dân. Doanh
nghiệp là nơi trực tiếp sản xuất hàng hoá, là nơi trực tiếp kết hợp lao động
của con ngời với các t liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Do
đó muốn đất nớc phát triển thì trớc tiên là phải phát triển doanh nghiệp, các
doanh nghiệp phải hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Sản xuất kinh doanh là một trình bao gồm từ khâu nghiên cứu, khảo
sát, nắm bắt nhu cầu thị trờng đến quyết định sản xuất, chuẩn bị tốt các điều
kiện sản xuất, tổ chức tiêu thụ những hàng hoá đó.
Muốn sản xuất kinh doanh đạt đợc hiệu quả thì doanh nghiệp luôn
phải có các thông tin bên ngoài và thông tin bên trong để ra các quyết định
sản xuất kinh doanh. hệ thống thông tin bên trong doanh nghiệp luôn phản
ánh chính xác thực trạng của doanh nghiệp tạo cho các nhà quản trị ra các
quyết định kinh doanh. Do đó trong doanh nghiệp có một bộ phận là kế toán
quản trị doanh nghiệp.
Kế toán quản trị có nội dung cơ bản là tính chi phí kinh doanh và kết
quả hay còn gọi là quản trị chi phí kinh doanh. Quản trị chi phí kinh doanh
cung cấp thông tin kinh tế bên trong cho bộ máy quản trị doanh nghiệp, làm
cơ sở cho việc ra các quyết định quản trị.
Qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
cơ khí 120, tôi xin đề cấp tới vấn đề:
Một số giải pháp Chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản trị chi phí
kinh doanh tại công ty cơ khí 120.
Nội dung luận văn này gồm 3 phần:
Chơng I: Nâng cao chất lợng công tác tính và quản trị chi phí kinh
doanh điều kiện cơ bản để tạo ra thông tin kinh tế bên trong chính xác làm
cơ sở cho các quyết định quản trị khoa học.
Chơng II: Thực trạng quản trị chi phí kinh doanh tại Công ty cơ khí


120.
Chơng III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị chi
phí kinh doanh tại Công ty cơ khí 120.
1

Chơng I
nâng cao chất lợng công tác tính và quản
trị chi phí kinh doanh- điều kiện cơ bản để
tạo ra thông tin kinh tế bên trong chính
xác làm cơ sở cho các quyết định quản trị
khoa học
1.1. Quản trị chi phí kinh doanh trong nền kinh tế thị
trờng
1.1.1. Khái niệm quản trị chi phí kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trờng, quản trị chi phí kinh doanh là công cụ
quan trọng phục vụ công tác quản lý kinh tế. Trong lĩnh vực kinh doanh và
quản trị doanh nghiệp, ngời quản lý phải hiểu biết, tổ chức, phối hợp, tiên
liệu và kiểm soát mọi vấn đề trong doanh nghiệp, nhằm chỉ đạo cũng nh h-
ớng dẫn doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu quả cao nhất. Muốn vậy các nhà
quản trị không chỉ cần nắm vững các thông tin kế toán đơn thuần phản ánh
sự kiện kinh tế tài chính đã xảy ra thông qua số liệu kế toán tài chính, đồng
thời cần phải có thông tin kế toán đã thu thập, xử lý, chọn lọc thành các
mang riêng biệt phục vụ cho công tác quản lý mà quản trị chi phí kinh
doanh- kế toán quản trị cung cấp. Do đó, có thể nói quản trị chi phí kinh
doanh là phơng pháp xử lý các dữ kiện kế toán đế đạt đợc các mục tiêu thiết
lập thông tin cho việc lập dự toán ngân sách về chi phí, doanh thu và kết quả
trong một thời kỳ hoạt động, cũng nh kiểm soát một cách có hiệu quả tình
hình hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp.
Theo Haberstock: Quản trị chi phí kinh doanh là tính toán hớng nội,
nó mô tả- về nguyên tắc đợc thực hiện hàng tháng- đờng vận động của các

nhân tố sản xuất trong quá trình kết hợp chúng và giới hạn ở việc tính toán
mọi hao phí nhằm tạo ra và thực hiện các kết quả của doanh nghiệp, đó
chính là chi phí kinh doanh.
2

Nh vậy quản trị chi phí kinh doanh là loại kế toán phục vụ cho các
nhà quản lý doanh nghiệp và nó đợc xem nh là hệ thống trợ giúp cho các
nhà quản lý trong quá trình ra quyết định.
1.1.2. Phân biệt kế toán tài chính và quản trị chi phí kinh doanh - kế
toán quản trị
Quản trị chi phí kinh doanh và kế toán tài chính(KTTC) đều là những
công cụ quản lý kinh tế rất hữu hiệu của mỗi doanh nghiệp.
Cả KTTC và QTCPKD cùng nghiên cứu quá trình sản xuất, cùng sử dụng
hệ thống ghi chép ban đầu và cùng thể hiện trách nhiệm của ngời quản lý.
Quản trị chi phí kinh doanh sử dụng rộng rãi các số liệu ghi chép
hàng ngày của KTTC mặc dù nó có triển khai và làm tăng số liệu này.
Ngoài ra KTTC và QTCPKD đều có khái niệm trách nhiệm và quản lý, với
KTTC đó là khái niệm quản lý trên toàn doanh nghiệp và QTCPKD là quản
lý từng bộ phận có trách nhiệm với chi phí. Mặc dù vậy giữa KTTC và
QTCPKD có nhữnh điểm khác biệt khá rõ, sở dĩ có những điều này là do
mục đích cung cấp thông tin của chúng cho những đối tợng sử dụng thông
tin khác nhau. Cụ thể phân biệt trên những điểm cơ bản sau:
- Kế toán tài chính và quản trị chi phí kinh doanh có đối tợng sử dụng
khác nhau, mục đích sử dụng thông tin khác nhau. Đối tợng sử dụng thông
tin của quản trị chi phí kinh doanh là những nhà quản trị ở bên trong doanh
nghiệp, còn đối tợng của kế toán tài chính là những ngời bên ngoài doanh
nghiệp, cơ quan chức năng.
- Thông tin của quản trị chi phí kinh doanh đặt trọng tâm chủ yếu cho
tơng lai, thông tin luôn cần phải linh hoạt, tốc độ và thích hợp với từng
quyết định, không buộc phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán cũng nh không

buộc phải có độ chính xác gần nh tuyệt đối và thông tin của quản trị chi phí
kinh doanh thì đợc biểu diễn dới hình thái giá trị lẫn hình thái vật chất (hiện
vật).
Đối với thông tin của kế toán tài chính thì chủ yếu phản ánh các
nghiệp vụ kinh tế đã xảy ra. Thông tin của kế toán tài chính phải tuân thủ
nguyên tắc kế toán, có tính phản ánh khách quan sự kiện kinh tế đã xảy ra,
phải có độ chính xác gần nh tuyệt đối và chủ yếu đợc biểu diễn dới hình thái
giá trị.
3

- Báo cáo của kế toán tài chính phản ánh tình hình của doanh nghiệp
nói chung, còn báo cáo của quản trị chi phí kinh doanh đi sâu vào từng bộ
phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp. Các báo cáo kế hoạch tài
chính chủ yếu là bảng cân đối tài sản, báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, báo cáo lu chuyển tiền tệ của toàn doanh nghiệp. Báo cáo quản trị
chi phí kinh doanh là các báo cáo thực hiện của từng bộ phận, từng khâu
công việc trong doanh nghiệp.
- Về nguyên tắc, kế toán tài chính đề cập đến mối quan hệ tài chính
giữa doanh nghiệp và môi trờng xung quanh thì quản trị chi phí kinh doanh
chỉ tập hợp các quá trình liên doanh đến sự vận động của quá trình sản xuất
ở bên trong doanh nghiệp.
- Trong khi kế toán tài chính tiến hành theo định kỳ thì quản trị chi
phí kinh doanh chi phí kinh doanh tiến hành thờng xuyên liên tục. Quản trị
chi phí kinh doanh là nhằm phục vụ thông tin cho chức năng ra quyết định
của nhà quản trị và thờng không có sẵn nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi
chép ban đầu của kế toán, quản trị chi phí kinh doanh còn phải kết hợp với
nhiều ngành khác nh thống kê, quản lý để tổng hợp, phân tích và xử lý
thông tin thành dạng có thể sử dụng đợc.
- Kế toán tài chính có tính pháp lệnh, nghĩa là sổ sách, báo cáo của kế
táon tài chính ở mọi doanh nghiệp đều mang tính bắt buộc. Trái lại, sổ sách,

báo cáo của quản trị chi phí kinh doanh là riêng biệt, hoàn toàn tùy thuộc
vào cách thiết kế của nhà quản trị từng doanh nghiệp sao cho phù hợp và có
tác dụng giúp nhà quản trị ra đợc các quyết định đúng đắn.
Ta có thể mô phỏng cơ sở phân biệt kế toán tài chính và kế toán quản
trị qua bảng sơ đồ sau:
4

5
Kế toán Quản
trị
kế toán tài
chính
Nhà quản trị bên
trong DN
Thành phần bên
ngoài DN
hướng về tương lai
linh hoạt tốc độ,
thích hợp biểu diễn
bằng giá trị và hiện
vật
Phản ánh quá khứ
chính xác. Tuân thủ
nguyên tắc kế toán
biểu diễn dưới mọi
hình thái giá trị
Từng bộ phận khâu
công việc
Toàn Doanh nghiệp
Căn cứ phân

biệt
Đối tượng phục
vụ
Đặc điểm của
thông tin
Phạm vi báo
cáo
thường xuyên
Thường là một năm
Kỳ báo cáo
không có tính pháp
lệnh
có pháp lệnh
Tính pháp lệnh

1.1.3. Nhiệm vụ của quản trị chi phí kinh doanh
* Nhiệm vụ 1: Quản trị chi phí kinh doanh là một công cụ đắc lực
cung cấp những tài liệu phục vụ cho quản trị.
Đây là nhiệm vụ có tính chất bao trùm của công tác Quản trị chi phí
kinh doanh. Nhờ quản trị chi phí kinh doanh mà toàn bộ hao phí đợc tập hợp
và hạch toán không phụ thuộc vào việc chúng có gắn liền với các dòng vận
động của tiền tệ hay không và cũng không phụ thuộc vào việc liệu có dẫn
đến giá trị chi phí tài chính tơng đơng hay không? Nhờ đó các thông tin chi
phí kinh doanh khác nhau đợc tập hợp lại, chế biến, lu trữ và tiếp tục đa vào
sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Vì hệ thống thông tin phục vụ cho
toàn bộ quá trình điều khiển doanh nghiệp đóng vai trò cực kỳ quan trọng,
nên nhiệm vụ chủ yếu của quản trị chi phí kinh doanh doanh nghiệp.
*Nhiệm vụ 2: Nhiệm vụ kế hoạch hoá.
Để điều khiển có kết quả và hiệu quả các quá trình kinh tế diễn ra bộ
máy quản trị doanh nghiệp phải luôn tìm cách để xác định trớc đợc quá trình

kinh doanh của doanh nghiệp có thể và cần phải diễn ra trong tơng lai nh thế
nào? Để hoàn thành nhiệm vụ đó quản trị doanh nghiệp cần phải có các
thông tin vừa phải đa dạng vừa phải đầy đủ. Nhờ có nhiệm vụ kế hoạch hoá
của quản trị chi phí kinh doanh mà có thể xác định đợc các phơng án hành
động có thể và dự đoán trớc đợc kết quả cũng nh hậu quả của phơng án đó.
Nhiệm vụ này luôn gắn chặt với mục tiêu kinh doanh và phù hợp với mục
tiêu đã đề ra. Nó tạo ra một cơ sở để lựa chọn và ra quyết định lựa chọn ph-
ơng án kinh tế tối u.
* Nhiệm vụ 3: Nhiệm vụ kiểm tra.
Quản trị chi phí kinh doanh phải trả lời cho bộ máy quản trị doanh
nghiệp các vấn đề cần thiết để bộ máy quản trị doanh nghiệp có thể điều
khiển đợc các quá trình kinh doanh, kết hợp các yếu tố kinh tế với nhau để
thực hiện mục tiêu kinh doanh với thời hạn gắn nhất. Nhờ có nhiệm vụ kiểm
tra mà có thể loại bỏ nhanh nhất những khuynh hớng phát triển không may mắn
và từ đó có thể lái quá trình kết hợp các yếu tố trở lại theo kế hoạch vạch ra.
Bộ máy quản trị doanh nghiệp và các đơn vị sản xuất có các tính toán kiểm tra
phục vụ các cơ quan kiểm tra nhờ việc trớc hết chúng mô tả chân thực các hiện
tợng và quá trình xảy ra trong kinh doanh.
6

Ngoài ra còn kiểm tra tính hiệu quả kinh tế của mỗi lợng chi phí: chi
phí kinh doanh đợc quy định từ kế hoạch, đợc dựa trên cơ sở các phân tích
có tính chất kinh tế kỹ thuật. Các lợng chi phí nàyđợc so sánh với các chi
phí thực tế.
1.2. Sự cần thiết phải tính chi phí kinh doanh một
cách chính xác ở các doanh nghiệp
Cơ chế thị trờng hình thành và phát triển ở Việt Nam đã đẩy các
doanh nghiệp từ chỗ đợc bao cấp hoàn toàn sang việc hạch toán độc lập lời
ăn lỗ chịu theo đúng qui luật của thị trờng. Từ chỗ chỉ lo làm theo kế hoạch
không phải lo đầu vào, đầu ra cũng không phải trả lời câu hỏi sản xuất kinh

doanh cái gì? Nh thế nào? Cho ai? Các doanh nghiệp hiện nay đã phải trả lời
câu hỏi này và phải xem xét, phân tích đánh giá vấn đề này một cách kỹ l-
ỡng. Muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trờng với sự cạnh tranh
quyết liệt thì doanh nghiệp phải tự khẳng định chính bản thân mình. Cơ chế
thị trờng bán khó hơn mua thì sự cạnh tranh quyết liệt để bán đợc hàng là
điều tất yếu. Để có sức cạnh tranh trên thị trờng doanh nghiệp cần phải đổi
mới, cải tiến sản xuất kinh doanh, mở rộng nâng cấp trang thiết bị cũ, tổ
chức lại bộ máy quản trị và điều quan trọng hơn là doanh nghiệp cần phải
hạch toán thu chi một cách chính xác và có các quyết định đúng đắn kịp
thời. Để đạt đợc các điều kiện trên doanh nghiệp cần phải có các thông
tin kinh tế cần thiết. Thông tin kính tế này có hai loại:
+ Thông tin phục vụ bên ngoài.
+ Thông tin phục vụ bên trong .
Các thông tin phục vụ bên ngoài chủ yếu phục vụ các cơ quan quản lý
vĩ mô của nhà nớc, cơ quan chủ quản do đó nó mang tính bắt buộc thống
nhất và kiểm tra đợc. Ngoài ra các thông tin phục vụ bên ngoài còn phục vụ
cho nhiều đối tợng khác nh bạn hàng; khách hàng... Tuy nhiên các doanh
nghiệp cũng phải hiểu biết hết sức rõ ràng về bản thân mình thì mới có các
quyết định đúng đắn. Về bản chất thì hoạt động quản trị chi phí kinh doanh
là quá trình chuẩn bị và ra các quyết định quản trị do vậy bộ máy quản trị
cần nắm rất rõ các thông tin hết sức quan trọng ảnh hởng trực tiếp tới các
quyết định quản trị.
Nh vậy có thể nói thông tin bên trong đặc biệt quan trọng hay quản trị
chi phí kinh doanh là công cụ chủ yếu cung cấp thông tin kinh tế bên trong
7

cho bộ máy quản trị doanh nghiệp làm cơ sở cho việc ra quyết định quản trị
nên nó trở thành một công cụ chủ yếu không thể thiếu của quản trị doanh
nghiệp. Quản trị là quan trọng do vậy khi ra các quyết định nhà quản trị phải
đảm bảo tính chính xác và có hiệu quả của quyết định đề ra.

Muốn làm đợc điều đó cần phải tính đến các vấn đề chi phí kinh
doanh mà bản chất của nó là mô tả các quá trình có ý nghĩa kinh tế diễn ra
trong kinh doanh.
Trong các doanh nghiệp nớc ta hiện nay nâng cao hiệu quả sản xuất
để giảm lỗ trong kinh doanh (đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nớc) đang
hết sức đợc quan tâm chủ yếu đến. Nguồn thu chủ yếu của doanh nghiệp là
bán các sản phẩm dịch vụ vì thế bất cứ nghành nào cũng phải tính đến các
chi phí bỏ ra để tính toán xem lỗ hay lãi. Hơn thế nữa phải còn biết rõ khối
lợng sản phẩm hàng hoá là bao nhiêu và giá cả của nó nh thế nào là phù
hợp. Khi giá cả của thị trờng đang cao hơn thì điều chỉnh giá cả và số lọng
để hạn chế thua lỗ. Việc tính chi phí không chính xác sẽ dẫn tới định giá
bán không chính xác do đó không thể đa ra một quyết định chính xác đợc.
Hạch toán giá thành tuân theo nguyên tắc bắt buộc và đợc qui định thống
nhất nên nó mang bản chất của kế toán tài chính và nó mang ít thông tin
không thể đáp ứng đợc nhu cầu thông tin một cách chính xác mà cần phải
tính chi phí kinh doanh thông qua các số liệu thông tin từ kế toán tài chính.
Hạch toán giá thành mang trong đó quá nhiều nhợc điểm và sự lạc hậu. Tự
bản thân nó không thể tự hoàn thiện thành tính toán chi phí kinh doanh đợc
mà nó phải xây dựng nên QTCPKD-KTQT (kế toán quản trị).
Qua phân tích lý thyết và thực tế tính giá thành có thể đi đến kết luận
là việc xây dựng công tác quản trị chi phí kinh doanh không đợc phép xem
nhẹ ngay từ khâu đầu tiên mà cần phải xây dựng các cơ sở lý luận nkhoa
học làm nền tảng cho sự phát triển một cách vững chắc.
Do vậy tính chi phí kinh doanh là một khâu không thể thiếu trong
hoạt động sản xuất kinh doanh cuả bất kỳ một xí nghiệp, doanh nghiệp kinh
doanh nào. Tính và quản trị chi phí kinh doanh một cách chính xác- đảm
bảo nguyên tắc vừa đủ tức bảo đảm đợc bí mật trong thông tin kinh
doanh, nó sẽ tạo ra cho doanh nghiệp các điều kiện nắm bắt các cơ hội mới
và tránh đợc nguy cơ có thể xảy ra. Ngoài ra tính chi phí kinh doanh còn
cung cấp thông tin một cách nhanh chóng, liên tục và thờng xuyên cho bộ

8

máy quản trị doanh nghiệp. Giúp cho nhà quản trị luôn có thông tin cập nhật
về tình hình doanh nghiệp để đa ra các quyết định quản trị chính xác.
Vì vậy tính chi phí kinh doanh một cách chính xác và quản trị chi phí
kinh doanh là một công cụ quan trọng không thể thiếu đối với mỗi doanh
nghiệp.
1.3. Công cụ kế toán quản trị với các doanh nghiệp
Kế toán là một công cụ cung cấp thông tin kinh tế cần tiết để quản trị
doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, nhiệm vụ của kế toán là phản ánh một cách
liên tục toàn bộ các quá trình kinh tế diễn ra trong doanh nghiệp bằng đơn vị
tiền tệ. Tuy nhiên, hiện này việc sử dụng công cụ này có khác nhau giữa các
nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển và nớc ta. ở các nớc này kế toán
trong các doanh nghiệp đợc tiến hành theo hai phơng pháp cụ thể hoàn toàn
khác nhau cả về mục đích, nguyên tắc, nội dung, phơng pháp tiến hành là kế
toán tài chính và kế toán quản trị. Về lý thuyết, dới đây có thể đề cập đến
một vài luận cứ chủ yếu để hình thành hai phơng pháp kế toán tài chính và
kế toán quản trị doanh nghiệp.
Thứ nhất, nhu cầu cung cấp thông tin của kế toán doanh nghiệp. Ngời
ta phân các đối tợng cần nhận thông tin của doanh nghiệp thàn
h hai loại là đối tợng bên ngoài và đối tợng bên trong. Đối tợng bên
ngoài trớc hết phải kể đến các cơ quan quản lý Nhà nớc. ở các nớc cơ quan
tài chính luôn là cơ quan cần có thông tin để xác định và kiểm tra nghĩa vụ
nộp thuế của doanh nghiệp. Ngoài ra, tuỳ theo từng nớc mà ngời ta quy định
doanh nghiệp có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý khác
của Nhà nớc, các viện nghiên cứu kinh tế... Các thông tin loại này phải
phản ánh các tình trạng tài sản, tài chính và sản lợng của doanh nghiệp, phải
đảm bảo tính pháp lý, phải đợc tính toán từ hệ thống tài khoản với chế độ
hạch toán kép, vì thế mọi nớc đều gọi phơng pháp tạo ra nguồn thông tin
loại này là kế toán tài chính. Nh thế kế toán tài chính luôn có đặc điểm: chỉ

phản ánh quá trình tài chính diễn ra trong doanh nghiệp theo các quy định
thống nhất của Nhà nớc.
Đối tợng nhận thông tin bên trong là bộ máy quản trị doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trờng, mọi doanh nghiệp đều phải tự mình nắm bắt thị
trờng và thật am hiểu về thực trạng kinh tế - kỹ thuật bên trong của mình để
9

ra các quyết định quản trị đúng đắn. Các thông tin về quá trình bên trong
của doanh nghiệp không thể là các thông tin đối ngoại ở trên bởi lẽ thứ nhất,
nh trên đã trình bày, các thông tin đối ngoại chỉ đề cập đến các quá trình vận
động tài chính giữa doanh nghiệp và môi trờng chứ không phản ánh một
cách cụ thể quá trình bên trong của doanh nghiệp: thứ hai, vì thông tin đối
ngoại mang tính thống nhất và pháp lý nên chỉ có thể phản ánh theo nguyên
tắc trung bình, chỉ trên cơ sở nguyên tắc bình quân này thì các quy định
mới dễ đợc chấp nhận nhất. Mặc dù vậy, mức bình quân này không phải
lúc nào cũng phản ánh đợc thực tế ở từng doanh nghiệp. Điều này có nghĩa
là mối quan hệ giữa các đối tợng nhận thông tin là mối quan hệ mâu thuẫn:
nếu các thông tin đã đợc tạo ra theo nguyên tắc thống nhất sẽ phù hựp và
đáp ứng đợc tốt nhất yêu cầu của các đối tợng bên ngoài doanh nghiệp, lại
không phản ánh đúng thực trạng của từng doanh nghiệp cá biệt và do đó
không đáp ứng đợc nhu cầu thông tin nội bộ. Đối lập với kế toán tài chính,
kế toán quản trị doanh nghiệp phản ánh quá trình kinh tế tạo ra kết quả của
doanh nghiệp, tức là nó dựa trên cơ sở số liệu của kế toán tài chính để tiếp
tục tính toán và phản ánh chi tiết các quá trình kinh tế sản xuất diễn ra trong
doanh nghiệp. Hoàn toàn khác về bản chất với kế toán tài chính, kế toán
quản trị doanh nghiệp đợc tiến hành xuất phát từ nhu cầu thông tin và tình
hình thực tế từng doanh nghiệp, không có khuôn mẫu bắt buộc và quy định
chung.
Thứ hai, xét trên giác độ bảo toàn vốn của doanh nghiệp lý thuyết kế
toán đã đề cập đến hai nguyên tắc bảo toàn vốn là bảo toàn vốn về mặt giá

trị và bảo toàn vốn về mặt hiện vật. Phản ánh quá trình tài chính diễn ra giữa
doanh nghiệp và môi trờng kinh doanh kế toán tài chính đã tuân thủ nguyên
tắc bảo toàn vốn về mặt giá trị. Nguyên tắc bảo toàn vốn về mặt hiện vật lại
không chú ý đến việc xác định xem với các kết quả thu đợc bảo đảm về mặt
hiện vật trong điều kiện giá cả hoàn toàn ổn định. Cũng vì thế bên cạnh kế
toán tài chính không thể không xây dựng kế toán quản trị doanh nghiệp theo
nguyên tắc riêng, nguyên tắc bảo toàn tài sản doanh nghiệp về mặt hiện vật.
Từ nhiều năm chúng ta chỉ duy trì chế độ kế toán thống nhất mà nếu
xét về bản chất đó là kế toán tài chính. Song nếu xét cụ thể hơn về nội dung,
chế độ kế toán của nớc ta đã quy định vợt qua khỏi giới hạn của kế toán tài
chính, tức là nó không dừng ở việc phản ánh quá trình diễn ra giữa doanh
10

nghiệp và môi trờng kinh doanh mà còn quy định phải phản ánh cả nội dung
kinh tế thuộc về quá trình tạo ra kết quả của doanh nghiệp, ví dụ điển hình
là chế độ hạch toán giá thành. Quan niệm và cách làm này đến nay không
phù hợp bởi trong cơ chế kinh tế mới bí mật về thông tin kinh tế ở từng
doanh nghiệp phải đợc bảo vệ nếu để lọt các thông tin quan trọng của doanh
nghiệp ra ngoài các đối thủ cạnh tranh sẽ tiêu diệt doanh nghiệp. Điều này
không những gây thiệt hại tài sản của bản thân doanh nghiệp mà còn gây
thiệt hại trực tiếp đến nền kinh tế.
Từ sự phân tích trên chúng ta thấy: thứ nhất, trong cơ chế kinh tế mới
tất yếu phải hình thành và duy trì ở các doanh nghiệp hai phơng pháp kế
toán là kế toán tài chính và kế toán quản trị, thứ hai, kế toán quản trị hoàn
toàn đối lập với kế toán tài chính ở chỗ nó không mang tính bắt buộc mà
do doanh nghiệp tự xác định; trong khi kế toán tài chính lấy bảo toàn vốn
của doanh nghiệp về mặt giá trị thì kế toán quản trị lấy bảo toàn vốn về mặt
hiện vật làm nguyên tắc; trong khi kế toán tài chính đề cập chủ yếu đến các
quá trình tài chính diễn ra giữa doanh nghiệp và môi trờng kinh doanh thì kế
toán quản trị đề cập chủ yếu đến các quá trình kinh tế diễn ra bên trong quá

trình tạo ra kết quả của doanh nghiệp và trong khi các báo cáo của kế toán
tài chính chỉ thực hiện ở những mốc thời gian nhất định thì kế toán quản trị
tiến hành thờng xuyên.
Kế toán quản trị là một phạm trù hoàn toàn mới. Mặc dù nội dung cơ
bản là tính chi phí kinh doanh và kết quả song kế toán quản trị hoàn toàn
không phải là hạch toán giá thành cũng nh tính chi phí sản xuất mà chúng ta
vẫn áp dụng cho tới nay xét trên mọi phơng diện nh: Về nguyên tắc; về mục
đích; nội dung và phơng pháp. Trong nội dung và phơng pháp tiến hành tính
chi phí kinh doanh cũng hoàn toàn khác với hạch toán giá thành. Tính chi
phí kinh doanh chỉ sử dụng số liệu ban đầu của kế toán tài chính và từ đó nó
đợc tiến hành theo nội dung và phơng pháp phù hợp với đặc điểm, ý đồ của
từng doanh nghiệp; trớc kia nó cũng có thể đợc tiến hành bởi hệ thống kế
toán kép song ngày nay ngời ta đã phát triển sang phơng pháp mới đơn giản
hơn.
Bên cạnh kế toán tài chính, việc thực hiện kế toán quản trị là đòi hỏi
của công tác quản trị doanh nghiệp hiện đại bởi chỉ có nh thế kế toán mới
vừa đáp ứng đợc nhu cầu thông tin để các đối tợng liên quan kiểm tra và
11

kiểm soát doanh nghiệp lại vừa đáp ứng đợc nhu cầu thông tin đầy đủ, để bộ
máy quản trị doanh nghiệp ra các quyết định kinh doanh. ở các nớc có nền
kinh tế thị trờng phát triển, doanh nghiệp không thể không chú ý tới kế toán
quản trị. Kế toán quản trị mang nội dung tính chi phí kinh doanh và kết quả
và vì thế thờng đợc gọi là tính chi phí kinh doanh. Mặc dù đến nay kế toán
quản trị ở nhiều nớc khác rất phát triển, bao hàm nhiều nội dung và phát
triển nhiều phơng pháp khác nhau song luôn tuân thủ một nguyên tắc cơ bản
là tự nguyện. Các doanh nghiệp áp dụng công tác kế toán quản trị ở phạm vi
rộng hay hẹp, nông hay sâu còn tuỳ thuộc vào các đặc điểm kinh tế - kỹ
thuật riêng cũng nh mục tiêu và phơng pháp tổ chức công tác kế toán quản
trị ở doanh nghiệp mình. Đặc điểm này hoàn toàn tạo điều kiện thuận lợi để

từng bớc tổ chức và phát triển kế toán quản trị ở các doanh nghiệp nớc ta.
Bên cạnh đó, nguyên tắc hiệu quả cũng phải đợc chú ý tới khi tổ chức kế
toán quản trị doanh nghiệp.
Tuy không đợc công bố và không ai ngoài bộ máy quản trị doanh
nghiệp đợc biết song kế toán quản trị cũng không thể đồng nghĩa với việc
lập sổ đen bởi vì nguyên tắc của nó là phải dựa vào hệ thống số liệu của
kế toán tài chính và chỉ thực hiện làm cơ sở cho việc ra các quyết định quản
trị.
Vì kế toán tài chính và kế toán quản trị hoàn toàn khác nhau nên
nhiều phạm trù đợc sử dụng trong từng lĩnh vực cũng không giống nhau,
chẳng hạn chi phí tài chính và chi phí kinh doanh... Điều này đòi hỏi phải có
sự nghiên cứu và phát triển ngay từ các cơ sở lý thuyết của khoa học kế toán
để từ đó có thể xây dựng và phát triển kế toán quản trị doanh nghiệp. Đồng
thời nguyên tắc hiệu quả cũng đòi hỏi kế toán quản trị phải sử dụng số liệu
của kế toán tài chính mà điều này chỉ có thể thực hiện đợc ngay từ khi hình
thành hệ thống tài khoản kế toán.
1.4. Kế toán quản trị với chức năng quản lý
Để điều hành các mặt hoạt động của một doanh nghiệp, trách nhiệm
thuộc về các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp đó. Các chức năng cơ
bản của nhà quản trị giúp họ quản trị điều hành hoạt động của doanh nghiệp
để đạt đợc mục tiêu đã đề ra, chúng đợc khái quát trong sơ đồ sau đây:
Sơ đồ 1 - 1 Sơ đồ chu kỳ kế hoạch và kiểm tra
12
Lập kế hoạch
Đánh giá
Ra quyết định
Thực hiện
Kiểm tra

Qua sơ đồ trên ta thấy sự liên tục của hoạt động quản lý từ khâu lập

kế hoạch đến thực hiện, kiểm tra, đánh giá rồi sau đó quay trở lại khâu lập
kế hoạch cho kỳ sau, tất cả đều xoay quanh trục ra quyết định. Để làm tốt
các chức năng này đòi hỏi nhà quản trị phải đề ra những quyết định đúng
đắn nhất cho hoạt động của doanh nghiệp. Muốn có những quyết định có
hiệu quả và hiệu lực, nhà quản trị có nhu cầu về thông tin rất lớn. KTQT là
nguồn chủ yếu, dù không phải là duy nhất, cung cấp nhu cầu thông tin đó.
1.4.1. Lập kế hoạch và dự toán
Lập kế hoạch xây dựng các mục tiêu phải đạt và vạch ra các bớc thực
hiện để đạt đợc những mục tiêu đó. Các kế hoạch này có thể dài hay ngắn
hạn. Kế hoạch mà nhà quản trị phải lập thờng có dạng là dự toán. Dự toán là
sự liên kết các mục tiêu lại với nhau và chỉ rõ cách huy động và sử dụng
những nguồn lực sẵn có để đạt đợc các mục tiêu đã đề ra. Trong số các ban
dự toán thì ban dự toán về lu chuyển tiền tệ là quan trọng nhất vì nếu thiếu
tiền do không đợc dự trù đầy đủ, doanh nghiệp sẽ không có khả năng tạo ra
lợi nhuận theo kế hoạch, dù kế hoạch xây dựng rất hợp lý.
1.4.2. Tổ chức thực hiện
Với chức năng tổ chức thực hiện, nhà quản trị phải biết cách liên kết
tốt nhất giữa tổ chức, con ngời với các nguồn lực lại với nhau sao cho kế
hoạch đợc thực hiện có hiệu quả nhất. Để thực hiện tốt chức năng này, nhà
quản trị cũng có nhu cầu rất lớn đối với thông tin kế toán, nhất là thông tin
KTQT. Nhà quản trị cần đợc kế toán cung cấp thông tin để đề ra quyết định
kinh doanh đúng đắn trong quá trình lãnh đạo hoạt động hàng ngày, phù
hợp với mục tiêu chung.
13

1.4.3. Kiểm tra và đánh giá
Nhà quản trị sau khi đã lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý, tổ chức thực
hiện kế hoạch đòi hỏi phải kiểm tra và đánh giá việc thực hiện nó. Phơng
pháp thờng dùng là so sánh số liệu kế hoạch hoặc dự toán với số liệu thực hiện,
để từ đó nhận diện các sai biệt giữa kết quả đạt đợc với mục tiêu đã đề ra. Để

làm đợc điều này, nhà quản trị cần đợc các kế toán viên cung cấp các báo cáo
thực hiện, có tác dụng nh một bớc phản hồi giúp nhà quản trị nhận diện ra
những vấn đề còn tồn tại và cần có tác động của quản lý.
1.4.4. Ra quyết định
Phần lớn thông tin do KTQT cung cấp nhằm phục vụ chức năng ra
quyết định của nhà quản trị. Đó là một chức năng quan trọng xuyên suốt các
khâu quản trị doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến
kiểm tra đánh giá. Chức năng ra quyết định đợc vận dụng liên tục trong suốt
quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Một số quyết định khác đợc lập không thờng xuyên nh quyết định về
việc có nên xây dựng thêm phân xởng mới hay không, hay có nên thâm
nhập vào thị trờng mới hay không.
Để có thông tin thích hợp, đáp ứng cho nhu cầu thích hợp của quản
lý. KDQT sẽ thực hiện các nghiệp vụ phân tích chuyên môn vì những thông
tin này thờng không có sẵn. KDQT sẽ chọn lọc những thông tin cần thiết,
thích hợp rồi tổng hợp, trình bày chúng theo một trình tự dễ hiểu nhất, và
giải thích quá trình phân tích đó cho các nhà quản trị.
KDQT giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định không chỉ
bằng cách cung cấp thông tin thích hợp, mà còn bằng cách vận dụng các kỹ
thuật phân tích vào những tình huống khác nhau, để từ đó nhà quản trị lựa
chọn, ra quyết định thích hợp nhất.
14

1.4.5. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý với quá trình kế toán
Sơ đồ cho thấy mối quan hệ giữa các chức năng quản lý với quá trình
kế toán.
Sơ đồ: Mối quan hệ giữa các chức năng và quá trình kế toán
Đối với mỗi doanh nghiệp, sau khi đã xác định các mục tiêu chung
chúng sẽ đợc chính thức hoá bằng chỉ tiêu kinh tế, thí dụ: doanh thu tăng
10% lợi tức tăng 12%...Các chỉ tiêu này trở thành căn cứ để lập kế hoạch

chính thức. Trên cơ sở đó, kế toán soạn thảo và triển khai bản dự toán chung
và các bản dự toán chi tiết để làm căn cứ tổ chức thực hiện theo dõi, và đánh
giá quá trình thực hiện kế hoạch. Sau đó kế toán thu nhập kết quả thực hiện
và soạn thảo báo cáo thực hiện, cung cấp cho nhà quản trị để anh ta đánh
giá, kịp thời phát hiện và khắc phục các điểm yếu kém.
Chu kỳ quản lý và quá trình kế toán vận động liên tục, lập đi lập lại
không ngừng, điều này đỏi hỏi cải tiến nâng cao chất lợng công việc để
ngày càng quản lý tốt hơn và doanh nghiệp ngày càng làm ăn phát đạt.
15
Xác định mục tiêu
Lập kế hoạch
Tổ chức thực hiện
Kiểm tra, đánh giá
Chính thức hoá thành các
chỉ tiêu kinh tế
Triển khai bản dự toán chung
và các bản dự toán chi tiết
Thu nhập kết quả thực hiện
Soạn thảo báo cáo và thực
hiện
Các chức năng quản trị Quá trình kế toán

1.5. Chi phí kinh doanh và một vài nguyên tắc tính
cơ bản
1.5.1 Khái niệm chi phí, chi phí kinh doanh
*Khái niệm chi phí
Trong sổ sách kế toán - tài chính - giá thành đã định nghĩa: " Chi phí
là một thớc đo bằng những khoản tiền của một số các nguồn đợc sử dụng
cho một mục đích"
Còn có khaí niệm: " Chi phí là một khái niệm của kế toán có chi phí

giới hạn trong xí nghiệp, gắn với các mục tiêu của xí nghiệp và chi phí ngoài
xí nghiệp, có cơ sở ở các hoạt động khác hoặc các nguyên nhân khác".
Nh vậy, chi phí là một khái niệm mang tính khái quát cao, trong quá
trình phát triển của kế toán doanh nghiệp, khái niệm chi phí đã đợc phát
triển thành các khái niệm cụ thể là chi ra, chi phí kinh doanh và chi phí tài
chính.
* Khái niệm chi phí kinh doanh
" Chi phí kinh doanh là sự tiêu phí ( thông thờng) giá trị cần thiết có
tính chất xí nghiệp về vật phẩm và dịch vụ để sản xuất sản phẩm của xí
nghiệp" Từ khái niệm trên cho thấy chi phí kinh doanh phải là sự hao phí về
vật phẩm và dịch vụ. Sự hao phí về vật phẩm và dịch vụ phải liên quan đến
kết quả. Do đó, không phải mọi sự hao phí về vật phẩm đều là đối tợng của
tính chi phí kinh doanh mà chỉ hao phí nào có liên quan đến mục tiêu tạo ra
và thực hiện kết quả hoặc duy trì năng lực sản xuất cần thiết của xí nghiệp
mới nằm trong khái niệm chi phí kinh doanh.
Hơn nữa, những hao phí vật phẩm có liên quan đến kết quả xí nghiệp
phải đợc đánh giá, nghĩa là phải đợc đo bằng đơn vị tiền tệ .
* Phân biệt chi phí kinh doanh với chi ra và chi phí tài chính
16

Vì quản trị chi phí kinh doanh đợc xây dựng trên cơ sở sử dụng số
liệu của kế toán tài chính do đó nó có quan hệ chặt chẽ với chi ra và chi phí
tài chính.
Chi ra là mọi khoản tiền đã trả của xí nghiệp. Do vậy, chi ra là sự
giảm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tăng tổn thất dới dạng nợ, vay ngắn hạn,
giảm phơng tiện thanh toán, giảm nợ của ngời khác. Chi ra là một khái niệm
hoàn toàn mang bản chất tài chính, nó mô tả hành động phải bỏ tiền ra dới
mọi hình thức nhằm một mục đích nào dó. Ta có sơ đồ thể hiện mối quan hệ
giữa chi ra và chi phí tài chính.
Chi ra nhng không là chi

phí tài chính
Chi ra là chi phí tài chính
Chi phí tài chính là chi ra
Chi phí tài chính nhng
không phải là chi ra
Chi phí (thời kỳ) = giảm tài sản
Bảng: Quan hệ giữa chi ra và chi phí tài chính
Chi phí tài chính bao gồm những hao phí vật phẩm theo thực tế và qui
định liên quan đến việc tạo ra kết quả của một thời kỳ gắn với việc chi ra.
Chi phí tài chính của một thời kỳ xác định là sự chi gắn với kết quả của thời kỳ
đó. Nó là sự hao phí hoặc tiêu phí giá trị của một thời kỳ tính toán nhất định đợc
tập hợp ở kế toán tài chính và có mặt trong tính lỗ lãi cuối năm.
Có thể phân biệt chi phí kinh doanh và chi phí tài chính ở bảng sau:
Tổng chi phí tài chính của một thời kỳ
Chi phí
tài chính
của thời
kỳ ở các
lĩnh vực
hoạt
động
phụ
Chi phí tài chính xí nghiệp của thời kỳ
Chi phí kinh doanh không
trùng chi phí tài chính
Chi phí tài chính
xí nghiệp có tính
chất dặc biệt
Không
bình th-

ờng
Ngoài
kỳ tính
toán
Cho phí tài
chính khác
( ví dụ :
khấu hao
có tính
chất tài
chính)
chi phí tài
chính của
thời kỳ
bằng chi
phí quản
trị của kỳ
Chi phí kinh
doanh khác
( ví dụ: Khấu
hao có tính
chất quản trị)
Chi phí
doanh bổ
sung
(ví dụ: Tiền
công của
chủ doanh
nghiệp)
Chi phí tài chính trung tính của kỳ Toàn bộ chi phí kinh doanh của kỳ

17

B¶ng: Quan hÖ gi÷a chi phÝ tµi chÝnh vµ chi phÝ kinh doanh
18

1.3.2. Một vài nguyên tắc tính cơ bản
* Nguyên tắc phân bổ theo quan hệ nhân quả
Nguyên tắc này đòi hỏi trớc hết khi phân bổ chi phí gián tiếp phải
tuân thủ: Chỉ tính cho các điểm chi phí hoặc đối tợng chi phí ( kết quả)
những chi phí đợc xác định rõ ràng xảy ra cho điểm hoặc đối tợng đó. Đây
là nguyên tắc đáp ứng tốt nhất tính chính xác của việc tính chi phí kinh
doanh trong quản trị chi phí kinh doanh nên chỉ áp dụng nguyên tắc khác
khi không thể áp dụng nguyên tắc này.(Không đáp ứng đợc yêu cầu của
nguyên tắc này)
* Nguyên tắc khả năng "chứa" hay lợi nhuận thô
Vì các chi phí kinh doanh cố định không có quan hệ tỷ lệ với kết quả
tạo ra nên phải áp dụng nguyên tắc lợi nhuận thô. Với nguyên tắc này thì chi
phí kinh doanh đợc phân bổ theo một quan hệ tỷ lệ với mức lợi nhuận thô.
Ngời ta gọi hiệu số giữa giá bán sản phẩm và chi phí kinh doanh biến đổi
của đơn vị sản phẩm là lợi nhuận thô hay lợng bù đắp.
* Nguyên tắc trung bình
Nguyên tắc này đợc sử dụng khi mối quan hệ giữa chi phí kinh doanh
và điểm chi phí hoặc chi phí theo đối tợng không chặt chẽ hoặc không xác
định đợc. ở đây, ngời ta phân bổ chi phí kinh doanh vào các đối tợng nhận
chi phí kinh doanh một cách bình quân.
* Nguyên tắc thống nhất
Nguyên tắc này phải có sự thống nhất giữa kế toán tài chính và quản
trị chi phí kinh doanh mà thể hiện là chi phí kinh doanh sử dụng số liệu ban
đầu do kế toán tài chính cung cấp.
* Nguyên tắc tính hiệu quả

Đây là nguyê tắc cao nhất đối với tổ chức quản trị chi phí kinh doanh
và luôn phải trả lời câu hỏi: có đem lại hiệu quả kinh tế không?
1.6. Một số nội dung và phơng pháp chủ yếu của
quản trị chi phí kinh doanh
1.6.1. Một số nội dung chủ yếu
Ta đã biết do QTCPKD là tính toán hớng nội, nó mô tả đờng vận
động của các nhân tố sản xuất kinh doanh trong quá trình kết hợp chúng và
19

giới hạn ở việc thanh toán mọi hao phí trong việc tạo ra và thực hiện các kết
quả của doanh nghiệp đó là chi phí kinh doanh QTCPKD của tất cả các
nghành nói chung đều bao gồm một số nội dung chủ yếu sau và dựa trên cơ
sở ba bớc.
+ Tính chi phí kinh doanh theo loại.
+ Tính chi phí kinh doanh theo điểm.
+ Tính chi phí kinh doanh theo đối tợng.
* Bớc 1: tính chi phí kinh doanh theo loại.
Tính chi phí kinh doanh theo loại là tính CPKD mô tả và tập hợp các
hao phí xuất hiện xác định chi phí cho yếu tố sản xuất nhất định. Tuỳ thuộc
vào môi trờng kinh doanh mà có các cách phân loại khác nhau. Một sự phân
chia khoa học các chi phí kinh doanh phát sinh theo loại phải tạo điều kiện
thúc đẩy sự phát triển tiếp tục của tính chi phí kinh doanh. Phân chia loại
CPKD luôn phụ thuộc vào hình thức mục và tiêu của cả hệ thống toàn doanh
nghiệp.
Căn cứ phân loại chi phí kinh doanh.
- Căn cứ vào đặc điểm của các nhân tố tiêu dùng trong sản xuất ta có
thể một vài tiêu thức.
+ Tính chi phí kinh doanh về lao động.
+ Tính chi phí kinh doanh về vật t.
+ Tính chi phí kinh doanh không trùng chi phí tài chính.

+ Tính chi phí kinh doanh về dịch vụ thuê ngoài và các khoản phải nộp.
- Căn cứ vào chức năng của hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ CPKD trong lĩnh vực mua sắm
+ CPKD trong lĩnh vực chế biến.
+ CPKD quản trị.
20
Tính chi phí kinh doanh theo loại
Tính chi phí kinh doanh theo điểm
Tính chi phí kinh doanh theo đối tượng
Chi phí trực tiếp Chi phí gián tiếp

+ CPKD trong lĩnh vực tiêu thụ.
Ngoài ra còn nhiều cách phân loại khác nh: CPKD trực tiếp và gián tiếp...
Tập hợp chi phí kinh doanh quan trọng.
* Tập hợp các chi phí kinh doanh về lao động
Bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất đó là tiền lơng và các đóng góp
bảo hiểm liên quan trực tiếp đến ngời lao động đợc qui định theo luật. Căn
cứ để xác định nó là dựa vào bảng lơng và các hình thức trả lơng (Có thể trả
lơng thời gian hay theo sản phẩm). Ta nhận thấy rằng căn cứ để xác định chi
phí kinh doanh về lao động và chi phí tài chính về lao động là nh nhau. Từ
các căn cứ đó tập hợp đợc các chi phí kinh doanh với nội dung là tiền lơng
của công nhân viên chức. Còn bảo hiểm đã đợc qui định bằng pháp luật của
nhà nớc.
Tập hợp chi phí kinh doanh khác liên qun trức tiếp và gián tiếp đến
việc sử dụng lao động. Đó là các loại chi phí cho thể thao văn hoá, nhà trẻ,
th viện, nhà ăn... và cho các loại chi phí liên quan đến việc bồi dỡng và đào
tạo nghề nghiệp. Việc xác định các loại chi phí này căn cứ vào các chứng từ
liên quan để tập hợp.
Đối với một số loại phí không thể tập hợp trực tiếp vì nếu tập hợp trực
tiếp sẽ dẫn đến sai lệch về kết quả nh tiền nghỉ phép, lễ tết, tiền nghỉ ốm đau

đó phải tập hợp nh nhau:
- Ước tính cho cả năm.
- Ước tính cho mỗi tháng bằng1/2 tổng số cả năm.
- ở tháng cuối cùng thì điều chỉnh lại.
* Tập hợp chi phí kinh doanh về vật t.
(đợc tiến hành theo hai bớc)
- Bớc 1: Tập hợp vật t cần dùng.
Có thể tiến hành một trong ba phơng pháp sau:
+ Phơng pháp 1: Phơng pháp này thực hiện qua chứng từ kế toán
(ghi chép liên tục). Phơng pháp này cũng tơng tự nh hạch toán giá thành.
Trong phơng pháp này chứng từ cần phải đề cập đợc một số nội dung cơ bản
sau:
- Ngày tháng xuất kho.
- Loại vật t.
- Điểm sử dụng vật t.
21

- Đối tợng sử dụng vật t.
Phơng pháp này rất chính xác những nó đòi hỏi chi phí kinh doanh
lớn. Phơng pháp này có thể áp dụng trong ngành cơ khí.
- Phơng pháp 2: Phơng pháp tính theo mức chênh lệch.
Phơng pháp này không sử dụng các chứng từ xuất nhập vật t nên
không cần ghi chép một cách liên tục.
Nội dung của phơng pháp này là xác địng lợng vật t sử dụng ở cuối
kỳ căn cứ:
- Số lợng vật t khi kiểm kê (đầu vào cuối kỳ)
- Chứng từ nhập vật t.
Việc tính toán đợc sử dụng theo công thức:
NVL
tdi

= NVL
đki
+NVL
ni
- NVL
cki
Trong đó NVL
tdi
: Lợng nguyên vật liệu tiêu dùng thứ i.
NVL
đki
: Lợng nguyên vật liệu ở đầu kỳ của loại nguyên vật liệu i.
NVL
ni
: Lợng nguyên vật liệu nhập (tăng) trong kỳ của loại nguyên vật
liệu i.
NVL
cki
: Lợng nguyên vật liệu có ở cuối kỳ của loại nguyên vật liệu i.
- Ưu điểm của phơng pháp này: đơn giản nên tốn ít chi phí trông kho
theo dõi vật t.
- Nhợc điểm: Không theo dõi đợc các nguyên nhân gây hao hụt, mất
mát vật t, việc kiểm kê theo qui định thờng chỉ tiến hành vào cuối năm trong
kỳ, khi tính chi phí kinh doanh thờng phải ngắn hơn và không xác định chi
phí vật t trực tiếp và chi phí chung về vật t. Do vậy, phơng pháp không áp
dụng đợc cho các doanh nghiệp lớn, sản xuất nhiều loại sản phẩm.
+ Phơng pháp 3: Phơng pháp tính ngợc (định mức)
Nguyên tắc tính là xuất phát từ lợng sản phẩm (dịch vụ) đã/ sẽ sản
xuất ra để tính ngợc lại số vật t mỗi loại cần sử dụng theo các tiêu chuẩn
định mức có sẵn và theo qui trình ngợc từ vật mang chi phí đến điểm chi phí

và cuối cùng là chi phí theo loại:
Việc tính toán sử dụng theo công thức:
NVL
tdi
= S
pj
x NVL
đmi
(J=1,m)
Trong đó:
S
pj
: Lợng sản phẩm thứ j sản xuất ra trong kỳ.
NVL
đmi
: định mức tiêu dùng nguyên vật liệu i cho một đơn vị sản phẩm J.
22

- Phong pháp này có u điểm: Cần ít chi phí cho công việc tính toán.
- Nhợc điểm: Không đem lại kết quả chính xác, kết quả tính không rõ
ràng vì không thể tính trực tiếp cho chi phí vật t chung đợc và không thể xác
định đợc sự giảm kho vật t do các nguyên nhân khác nếu không bổ xung
bằng phơng pháp kiểm kê kho.
Phơng pháp này chỉ nên sử dụng với các doanh nghiệp có cơ cấu sản
xuất đơn giản.
- Bớc 2: Tính giá trị vật t tiêu hao.
Nguyên tắc của tính giá trị vật t hao phí là phải bảo vệ tài sản của
doanh nghiệp về mặt hiện vật.
Trong công tác hạch toán giá thành, ngời ta chỉ sử dụng giá trị trung
bình của kỳ tính toán để xác định chi phí vật t. Giá trị trung bình của kỳ tính

toán chỉ có thể đợc xác định vào cuối kỳ nên trong quá trình tính toán phải
sử dụng một loại giá tạm thời là loại giá tạm tính. Đến cuối kỳ tính toán ng-
ời ta mới xác định đợc chênh lệch giữa giá tạm tính và giá trị trung bình kỳ
tính toán để điều chỉnh phù hợp. Giá trị trung bình này thực chất là giá mua
trung bình của kỳ tính toán.
Những trong tính chi phí kinh doanh có thể có rất nhiều loại giá khác
nhau.
Tính chi phí kinh doanh sử dụng các loại giá nh:
- Giá mua vào.
- Giá mua lại: là giá đảm bảo mua lại lợng vật t đã đa vào sử dụng
trong sản xuất kinh doanh.
- Giá cập nhật: Giá tính theo ngày xuất vật t, ngày xuất kho sản phẩm,
ngày thu tiền.
- Giá tính toán: giá tính toán phải đảm bảo mục đích duy trì tài sản
của doanh nghiệp về mặt hiện vật, ngời ta còn gọi là giá bù đắp, giá tính
toán sử dụng trong CPKD khác về bản chất cách tính trong hạch toán giá
thành. Giá tính trong hạch toán giá thành là giá tính toán trên cơ sở các yếu
tố thực tại còn giá tính trong CPKD phải dựa trên cơ sở các dữ liệu tơng lai
(dữ liệu kế hoạch).
Tính chi phí kinh doanh về vật t.
Cp
nvli
= NVL
tdi
x G
ĐGi
23

Trong đó:
Cp

nvli
: CPKD về loại nguyên vật liệu i.
G
ĐGi
: Giá trị đơn giá cho một nguyên vật liệu i.
Kết quả xác định chi phí kinh doanh về vật t không nhất thiết phải
truìng với chi phí vật t trong hạch toán giá thành do đó việc sử dụng nó
trong kế toán doanh nghiệp là rất cần thiết. Nhằm ghi chép sự sai khác giữa
giá trị vật t tài chính và giá trị vật t chi phí kinh doanh. Đơn giản nhất là sử
dụng một tài khoản riêng trong hệ thống tài khoản kế toán cho phép làm đợc
điều đó.
Tập hợp chi phí kinh doanh không trùng với chi phí tài chính.
Những CPKD không trùng với chi phí tài chính gồm:
- Khấu hao quản trị.
- Lãi về vốn sản xuất.
- Các thiệt hại rủi ro trong kinh doanh.
- Tiền thuê mợn.
- Tiền công của chủ doanh nghiệp.
- Tập hợp khấu hao trong quản trị.
Trong thực tế do nguyên tắc không bắt buộc của quản trị chi phí kinh
doanh do đó tuỳ tình hình môĩ doanh nghiệp, tuỳ theo đặc điểm của từng
máy móc thiết bị khác nhau mà doanh nghiệp có thể lựa chọn áp dụng các
phơng pháp khấu hao khác nhau cho thích hợp. Có các phơng pháp khấu hao
nh: phơng pháp khấu hao theo đờng thẳng; khấu hao giảm dần; khấu hao
theo kết quả sử dụng.
+ Phơng pháp khấu hao theo đờng thẳng: đậy là phơng pháp đã đợc
sử dụng rất lâu trong hạch toán giá thành nhng có điểm khác là hạch toán
giá thành sử dụng giá mua sắm ban đầu thì (giá nguyên thuỷ hay giá điều
chỉnh) còn chi phí khấu hao kinh doanh sử dụng giá mua lại tài sản thiết bị.
Do đó nó đáp ứng tốt đợc nguyên tắc duy trì tài sản về phơng diện hiện vật

vì nó luôn đảm bảo mua sắm lại đợc tài sản cố định dù giá cả thị trờng thay
đổi và có thể tránh đợc rủi ro về tài chính trong suốt quá trình sử dụng
chúng. Khi sử dụng giá mua lại tài sản thiết bị thì chỉ có thể sử dụng đợc các
24

tài liệu của kế toán tài chính về số lợng và hiện trạng tài sản cố định, từ đó
quản trị chi phí kinh doanh xác định chi phí khấu hao kinh doanh phù hợp.
+ Tính khấu hao giảm dần:
Ph ơng pháp I: Giữ tỷ lệ khấu hao không đổi ngời ta tiến hành tính
khấu hao nh sau:
P = 100 (1- )
P: Tỷ lệ khấu hao theo tỷ lệ %
n: số năm sử dụng tài sản cố định theo ớc tính.
R: giá trị tài sản cố định sau khi thanh lý.
B: giá trị tài sản cố định sau khi trích khấu hao.
Ph ơng pháp 2: Giữ cơ sở tính khấu hao không đổi.
D =
D: giá trị khấu hao.
N: Tổng của dãy số liên tiếp số năm sử dụng tài sản cố định.
Tính mức khấu hao:
a = D.T
a: lợng khấu hao của năm cuối
T: số năm sử dụng còn lại tính từ năm đầu tiên.
Phơng pháp 3: Khấu hao theo kết quả đạt đợc.
Phơng pháp này không đề cập đến số năm sử dụng và đề cập đến kết
quả và thiết bị đạt đợc theo óc tính để tính khấu hao.
a =
a: Lợng khấu hao của năm.
L: Tổng kết quả mà tài sản cố định có thể tạo ra.
Lp: Kết quả mà thiết bị tạo ra trong kỳ tính khấu hao.

- Tiền trả lãi vốn kinh doanh
+ Tiền trả lãi vốn kinh doanh
+ Vốn sản xuất cần thiết của doanh nghiệp: vốn sản xuất này không
phải là vốn nằm trong bảng tổng kết tài sản của doanh nghiệp vì vốn nằm
trong bảng tổng kết tài sản của doanh nghiệp chứa đựng cả yếu tố vốn không
cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Giá trị của vốn đợc đánh giá trong bảng
tổng kết tài sản không trùng với mục tiêu của tính chi phí kinh doanh. Vốn sản
xuất cần thiết này không bao gồm vốn chiếm của ngời khác.
+ Xác định và tập hợp tiền lãi của vốn sản xuất
- Vốn cố định: Thờng sử dụng một trong hai phơng pháp sau;
25

×