Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Quá trình hình thành giáo trình phân tích hợp tác thương mại Việt Nam và liên minh Châu Âu trong ngành dệt may p2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.13 KB, 14 trang )



CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – EU
TRONG LĨNH VỰC DỆT – MAY

3.1. Định hướng của ngành dềt may Việt Nam
.
Phát triển ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ một ngành công
nghiệp chủ lực và sánh ngang trình độ phát triển của ngành dệt may
các nước trong khu vực và phát triển trên thế giới , ngành dệt may đã
xây dựng một quy hoạch phát triển đến năm 2010 . Trong đó mục tiêu
và những định hướng được xác định cụ thể như sau :
- Năm 2000 sản xuất được 800 triệu mét vải lụa thành phẩm kim
ngạch đạt khoảng 2 tỷ USD và tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao
động .
- Năm 2010 sản xuất được 2 tỷ mét vải tụa thành phẩm , kim ngạch
xuất khẩu đạt 4 tỷ USD và tạo việc làm cho khoảng 1,8 triệu lao
động .
- Các sản phẩm chủ yếu của ngành dệt may sẽ là hàng sợi bông
chiếm 40% vải P/C chiếm 30% vải sợi tổng hợp chiếm 30% . Các
sản phẩm của ngành dệt may là sản phẩm ở khâu cuối cùng chứ
không phải là sản phẩm gia công ở khâu trung gian . Quần áo may
sẵn và hàng dệt kim được tăng lên với tỷ lệ thích đáng .









MỤC TIÊU XUẤT KHẨU CÁC NĂM 2000 , 2005 , 2010

a- Mục tiêu giá trị xuất khẩu

Th
ực

2000

2005
2010

Chỉ tiêu

Hiệ
n
199
5
Kim
ngh
ạch
(tr
USD)
Tăng số
với
1995
(%)
Kim
nghạch

(tr
USD)
Tăng số
với
1995
(%)
Kim
nghạch
(tr
USD)
Tăng số
với
1995
(%)
Kim
nghạch
Xuất
khẩu


750


2000

166. 67


3. 000


50. 000


4. 000

33. 33
Hàng
may

500

1600 22000 2. 200 37. 50 3. 000 36. 36
Hàng
dệt

250

400 60. 00 800 100. 00

1. 000 25. 00

b- Mục tiêu sản phẩm xuất khẩu .


2000


2005

2010


Chỉ tiêu Hiệ
n
199
5
Số
lượng

Tăng số
v
ới
1995
Số
lượng
Tăng số
với
2000
Số
lượng
Tăng số
với
2005
Sản
phẩm
Xuất
khẩu

160



490

330

760

180

810

140
Sản
phẩm
may
125

400 275 550 150 750 200
Sản
phẩm dệt
35 90 55 120 30 160 40

c-Mục tiêu sản xuất phụ liệu phục vụ sản xuất hàng dệt may xuất khẩu

TT

Loại phụ liệu Đơn vị tính

1996 2000 2005 2010
1. Chỉ may Tấn 2788 5354 7550 10836
2. Nhãn dệt Triệu chiếc


600 1530 2230 3060
3. Bông tấm Triệu m
2
31 58,2 69,8 105
4. Mếch Triệu m
2
16,4 29,4 35,7 55,2
5. Cúc đính Triệu chiếc

1528 2582 3387 5237
6. Cúc đập Triệu bộ 134,5 310 357.3 587
7. Khoá kéo Triệu m 70 125,5 145,5 224

Nguồn ( a, b, c ) Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành công
nghiệp
dệt may đến năm 2010 . Tổng công ty dệt may Việt Nam .
Để đạt được mục tiêu ngành dệt may cần phải phấn đấu :
Thứ nhất : Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành dệt
may phải đạt 10% và giải quyết các nhu cầu về nguyên liệu dự kiến :
Bông thiên nhiên 340.000 tấn , xơ PE là 90 nghìn tấn , sợi PETEX
hơn 1000 tấn . trong đó ngành dệt phảI phấn đấu sản xuất 50% sản
lượng bông thiên nhiên và 10% xơ PE.
Thứ hai : Đến năm 2010 toàn ngành dệt may sẽ phải cần tới 4,8 tỷ
USD để đầu tư cho các dự án mới . Trong đó khoảng 3,8 tỷ USD sẽ
được đầu tư cho thiết bị và khoảng 1 tỷ đầu tư cho xây dựng , phần
đầu tư cho thiết bị ngành dệt sẽ là 3,41 tỷ USD và ngành dệt may là
390 triệu USD.
Đầu tư vào ngành dệt may sẽ được thực hiện theo ba giai đoạn .
trước năm 2000 phảI đầu tư 668 triệu USD từ năm 2000 đến 2005 đầu

tư khoảng 2 tỷ USD phần còn laị dành cho giai đoạn thứ ba từ 2005 –
2010 .
Nguồn vốn này được qua nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như
qua đầu tư nước, trong đó nguồn vốn trong nước là chủ yếu.Ngoài ra
ngành dệt may cũng kiến nghị với nhà nước cấp qũy đất để phát triển
sản xuất và tham gia liên doanh liên kết với nước ngoài .
Thứ ba : Qui hoạch phát triển ngành dệt may thành các vùng chính
như sau :
- Về dệt : Vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long , tập
chung chủ yếu vào thành phố Hồ Chí Minh , Đồng Nai , An Giang
, Bình Dương , Đồng Tháp , Tây Ninh , Long An … Dự kiến sản
lượng 50%-60% và mức vốn các dự án mới của các doanh nghiệp
Việt Nam là 35% . Vùng đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh lân
cận gồm thành phố Hà Nội , tỉnh Hà Tây , Hải Hưng , Hải Phòng ,
Thái Nguyên … Dự kiến chiếm 30%-40% về sản lượng và 55% về
vốn vùng Duyên HảI miền Trung và một số tỉnh khu bốn cũ gồm
Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Thừa Thiên Huế … Dự kiến
10% sản lượng và 10% về vốn.
- Về may mặc: phân bố trên các địa phương để phục vụ nhu cầu
trong nước và tập trung tại 3 vùng phát triển dệt để tham gia xuất
khẩu ưu tiên các vùng địa bàn thuận tiện giao thông bến cảng.
-
3.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam- EU:
Trên cơ sở Hiệp định khung giữa Việt Nam và EU ký kết vào tháng
7 năm 1995: “các bên cam kết phát triển và đa dạng hoá trao đổi
thương mại giữa hai bên và cải thiện tiếp thị tới mức cao nhất có thể
được. Các bên trong khuôn khổ hiện hành của luật pháp và thể lệ của
mỗi bên cam kết thực hiện chính sách nhằm cải thiện cách thức thâm
nhập cho sản phẩm của mình vào thị trường của nhau, hai bên sẽ
dành cho nhau các điều kiện thuận lợi nhất về nhập khẩu và xuất

khẩu và thoả thuận xem xét cách thức biện pháp nhằm loại bỏ hàng
rào thương mại giữa hai bên, đặc biệt là hàng rào phi thuế quan …”
hai bên đã có rất nhiều cuộc gặp gỡ trao đổi nhằm thúc đẩy thương
mại ngành dệt may
Dựa trên sự phân tích thực trạng thương mại với EU trong lĩnh vực
dệt may và Hiệp định dệt may Viềt Nam – EU giai đoạn 1998- 2000 ,
hoạt động buôn bán hàng dệt may với EU trong thời gian tới sẽ được
tăng cường theo các hướng sau :
- Mục tiêu cơ bản của ngành dệt may Việt Nam đối với thị trường
EU vẫn là : phấn đấu nâng cao sản phẩm cải tiến mẫu mã đáp ứng
được đúng thị hiếu cuẩ người tiêu dùng tạo uy tín để chiếm lĩnh thị
trường EU tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu , hạn chế việc khai
thác sản phảm bằng hình thức gia công thuần tuý , gia tăng hình
thức mua nguyên vật liệu và bán thành phẩm .
- Việc xuất khẩu vào EU những sản phẩm liệt kê tại phụ lục II(Hiệp
định dệt may Việt Nam –EU giai đoạn 1998 – 2000) được tăng
cường , nhưng phải được hạn chế tốt số lượng đươc EU ấn định
cho hàng năm . Trong việc phân bố quota xuất khẩu vào EU , các
cơ quan hữu quan của Việt Nam sẽ không phân biệt đối xử với các
công ty do các nhà đầu tư EU sở hữu một phần hay toàn bộ đang
hoạt động tại Việt Nam .
- Việc quản lý hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường EU có những
điểm khác biệt so với các năm trước . Tổng lượng hạn ngạch do
EU ấn định sẽ được chia làm 3 phần được phân bố cho các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang EU làm bằng vải sản xuất
trong nước , phần còn lại sẽ cho đấu thầu nhằm giảm cơ chế xin
cho và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự vận động trong cơ
chế thị trường .
- Trong trường hợp cần thiết , Liên bộ Thương mại và Bộ công
nghiệp sẽ sử dụng trước một phần quota của năm kế tiếp ấn định

tại phụ lục II ( Hiệp định dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1993-
1997 ) cho mỗi chủng loại sản phẩm tới mức 5% quota của năm
thực hiện . Tất nhiên , phần sử dụng trước phải trừ vào lượng quota
ấn định cho năm kế tiếp đó , số lượng quota không sử dụng hết của
năm trước sẽ được chuyển sang cho năm kế tiếp đối với mỗi chủng
loại tới mức 7% quota cụ thể của năm thực hiện .
- Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường EU
được phép chuyển giao giữa các chủng loạI 4,5,6,7,8 nhưng chỉ
giới hạn ở mức 7% quota của chủng loại được chuyển đổi . Có thể
chuyển sang bất kỳ loại nào thuộc các nhóm 2, 3, 4, 5 từ bất kỳ
chủng loại
nào thuộc các nhóm 1, 2, 3, 4, 5 tới mức 7% quota của chủng loại
được chuyển tới .

3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại Việt Nam-EU
trong lĩnh vực dệt may .

Tăng cường khai thác thị trường EU là một trong những mục tiêu
của ngành dệt may Việt Nam góp phàn làm cho ngành dệt may phát
huy vai trò là những công nghiệp xuất khẩu chủ lực . Tuy nhiên qua
phân tích thực trạng thương mại Việt Nam – Eu trong lĩnh vực dệt may
cho thấy quá trình thâm nhập thị trường EU gập rất nhiều khó khăn .
Nười tiêu Châu Âu rất khó tính đối với hàng may mặc liên kết giữa các
quốc gia Châu Âu rất chặt chẽ cạnh tranh trên thị trường găy gắt …
trong khi khả năng của chúng ta lại có hạn chế : Thiếu vốn , công nghệ
lạc hậu … do đó sản phẩm của chúng ta chất lượng chưa cao , mẫu mã
không phong phú . Vì vậy ngành dệt may Việt Nam cần phảI có hệ
thống biện pháp phù hợp từ tầm vĩ mô đến vi mô thì mới có thể khai
thác được thị trường EU .


3.3.1.Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại :

Trong các thể chế của Liên minh Châu Âu, Uỷ ban Châu Âu l
à cơ
quan phụ trách kinh tế đối ngoại . Chính vì thế muốn mở rộng quan hệ
với Eu nói chung và trong lĩnh vực dệt may nói riêng, chúng ta cần
tăng cường quan hệ với Uỷ ban Châu Âu. Mặt khác, để hoà nhập vào
thị trường EU, đIều quan trọng là chúng ta cần phảI xác định được
“cầu nối” trong quan hệ với EU. Trong tất cả các mối quan hệ giữa
chúng ta với các quốc gia thành viên của EU thì mối quan hệ Việt-
Pháp là lâu dàI và sâu sắc nhất. Với những tiềm năng kinh tế và ảnh
hưởng của Pháp trên thị trường quốc tế, thực sự là “cầu nối” Việt Nam
và EU. Pháp có ảnh hưởng lớn lạI nằm trong nhiều khối liên minh, vì
vậy, chúng ta cần có các mối quan hệ Việt- Pháp ngày càng có hiệu
quả hơn. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phảI có những chính sách riêng
đối với Pháp.
Một cầu nối khác không kém phần quan trọng là thông qua
ASEAN. Với tư cách là một thành viên đầy đủ ASEAN, chúng ta cần
khai thác những lợi ích của các phương tiện và các hoạt động hợp tác
trong khuôn khổ hợp tác EU-ASEAN. NgoàI ra, để hàng dệt may Việt
Nam có đủ sức cành tranh với các đối thủ khác thị trường EU, Việt
Nam cần xúc tiến mạnh mẽ việc gia nhập WTO, đặc biệt là khi Hiệp
định đa sợi đã được thay thế bằng Hiệp định về hàng dệt may. Để thấy
được sự cần thiết của việc gia nhập WTO đối với hoạt động xuất khẩu
hàng dệt may sang thị trường EU.
Theo MFA, các nước nhập khẩu có thể thông qua các thoả thuận
song phương hoặc trong trường hợp không đI đến thoả thuận song
phương có thể đơn phương thiết lập hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt
may đối với từng nước xuất khẩu và mức tăng của hạn ngạch thay đổi
tuỳ theo mỗi nước. Như vậy, MFA đIều tiết buôn bán hàng dệt may

không tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử và loạI bỏ hạn chế
số lượng của GATT.
Người ta cho rằng MFA đã làm biến dạng hình thức buôn bán và
sản xuất các sản phẩm dệt may, các nước được hưởng lợi trong buôn
bán quốc tế hàng dệt may là các nước công nghiệp phát triển.
Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Urugoay của WTO.
Hiệp định về hàng dệt may (ATC) ra đời. Theo ATC hàng dệt may sẽ
được hội nhập dần dần theo các quy tắc thông thường của GATT,
chấm dứt trường hợp ngoạI lệ trong kinh doanh các sản phẩm dệt may
như quy định của MFA. Các thoả thuận về hạn chế số lượng trước đây
giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu sẽ được hạn chế loạI bỏ dần
dần, thời gian cho việc này kéo dàI trong 10 năm, được chia thành các
giai đoạn: Từ ngày 1/1/1995 đến 31/12/1997: 16% tổng khối lượng
hàng dệt may nhập khẩu trong năm 1990, sẽ không bị hạn chế về số
lượng trong buôn bán hàng dệt may giữa các nước xuất khẩu và nhập
khẩu. Từ ngày 1/1/1998 đến 31/12/2000, tương tự là 17%. Từ 1/1/2001
đến 31/12/2004 là 18%. Từ 1/1/2005 là tất cả các số lượng hàng còn
lại.
Trong từng giai đoạn, mỗi nước nhập khẩu có quyền chọn bất kì
một sản phẩm nào trong 4 loạI: sợi, vảI, sản phẩm dệt và quần áo may
sẵn để đưa vào danh mục buôn bán không hạn chế số lượng. Đối với
những sản phẩm buôn bán , theo hạn chế về số lượng các nước áp dụng
phảI chứng minh được các sản phẩm này đang làm thiệt hạI nghiêm
trọng đến sản xuất các sản phẩm tượng tự ở trong nước. ACT là một
kết quả rất quan trọng của vòng đàm phán Urugoay. Hiệp định ACT sẽ
làm tăng khả năng tiếp cận thị trường nước ngoàI cho các nhà sản xuất
hàng dệt may, hứa hẹn tăng việc làm và cơ hội kinh doanh cho các
nước đang phát triển. Chính vì thế, Việt Nam cần xúc tiến việc gia
nhập WTO để được hưởng các tiến bộ của ATC và có đủ sức cạnh
tranh với các đối thủ khác trên thị trường EU.


3.3.2. CảI cách hệ thống để đẩy mạnh xuất khẩu.

Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu vừa qua
của Nhà nước đã tạo ra một môI trường bình đẳng giữa các doanh
nghiệp. Thuế doanh thu đánh trùng lặp nhiều lần đối với giá trị sản
phẩm. Ví dụ, doanh nghiệp may phảI chịu thuế doanh thu trên giá trị
mà doanh nghiệp phảI từ doanh nghiệp khác để sản xuất, trong khi đó,
phân xưởng may của một doanh nghiệp dệt dùng vảI của doanh nghiệp
mình thì không phảI tính thuế. Do đó, nhiều doanh nghiệp dệt đã mở
thêm phân xưởng may ngoàI mục đích tạo công ăn việc làm cho công
nhân còn vì lí do tránh bị đánh thuế trùng lặp như doanh nghiệp may.
Vì vậy chi phí sản phẩm may mặc của doanh nghiệp may cao hơn phân
xưởng may của doanh nghiệp dệt, gây ra tình trạng cạnh tranh không
bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì
khắc phục được đIều này, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sẽ
giảm do nỗ lực của từng doanh nghiệp chứ không phảI do cơ chế tính
thuế.
Tuy nhiên chính sách thuế đối với sản phẩm dệt may của chúng ta
cũng còn rất nhiều bất cập. Cách đánh thuế vào nguyên liệu là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trong kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU, tỉ lệ sản phẩm gia công chiếm
80%. Đối với doanh nghiệp may, nếu dùng vảI nội, phảI bỏ vốn ra để
mua vảI vừa phảI chịu mấy lần tính thuế ( thuế sợi, vảI mộc, vảI thành
phẩm…), còn trong phương pháp gia công, hiện nay doanh nghiệp may
dùng tất cả các nguyên liệu phụ của đối tác EU và không phảI chịu
thuế (tạm nhập, táI xuất).
Trước tình hình đó, nên miễn giảm thuế cho các sản phẩm dùng
nguyên liệu trong nước giảm thuế với vảI sản xuất bằng thiết bị mới…
NgoàI ra cần phảI xem xét lạI thời hạn 90 ngày đối với nhập nguyên

vật liệu và táI xuất của ngành may. Bởi lẽ từ khâu kí kết hợp đồng,
mua nguyên liệu, sản xuất và xuất khẩu khó thực hiện trong thời gian
đó, tuy nhiên nếu kéo dàI thời hạn với hàng tạm nhập và táI xuất thì
nước có thể bị thất thu về thuế nhưng thời hạn này cũng phảI đủ để
không gây khó khăng cho các doanh nghiệp gia công. Theo các chuyên
gia thì thời hạn lí tưởng là tư 120 ngày đến 180 ngày.

3.3.3. Đẩy mạnh phát triển nguyên liệu trong nước.

Để thực hiện được mục tiêu về diện tích và sản lượng các loạI
nguyên liệu. Đến năm 2010, diện tích trồng bông là 100.000 hécta, dâu
tằm là 40.000 hecta, sản lượng bông xơ là 60.000 tấn, trong khi diện
tích trồng các loạI cây nguyên liệu này đang có sự suy giảm nghiêm
trọng năng suất thấp do không có giống mới, thiết bị cộng nghệ để thu
hoạch và chế biến lạc hậu thì quả là khó khăn. Để mục tiêu này mang
tính khả thi, Tổng công ty dệt may Việt Nam cần phối hợp các bộ
ngành tổ chức hội nghị với các địa phương để xác định quỹ đất thực có
cho sự phát triển của cây bông, cây dâu nhằm gắn kết quy hoạch ngành
với quy hoạc vùng lãnh thổ, xây dựng và đIều hành kế hoạch giữa
bông nhập khẩu và bông sản xuất trong nước.
Nhà nước cần phảI có những chính sách tiến dụng ưu đãI để tạo
nguồn vốn cho người nông dân để họ đầu tư cho giống mới và các máy
móc thiết bị trong khâu thu hoạch. Mặt khác, các doanh nghiệp dệt cần
có kế hoạch thu mua bông, tơ cụ thể nhằm đảm bảo sự ổn định giá cả
và thị trường cho người sản xuất. NgoàI ra cho đến năm 2005, nhu cầu
về tơ sợi tổng hợp cũng rất lớn: xơ PE 90.000 tấn, sợi PETEX hơn
1000 tấn trong khi đó cho tới nay mới chỉ có nhà máy dệt Hualon do
Malaysia đầu tư ở Đồng Nai sản xuất được tơ sợi tổng hợp và khi nhà
máy lọc dầu Dung Quất đI vào hoạt động thì việc sản xuất xơ PE có
triển vọng. Nhưng nhìn chung vẫn rất thấp, chính vì thế chúng ta cần

phảI có những biện pháp để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này.

3.3.4. Nghiên cứu triển khai và đào tạo nhân lực.

Biện pháp này chú trọng đến các hướng chính sau:
+ Chú trọng công tác đào tạo cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân
lành nghề. Lập kế hoạch và triển khai việc đào tạo lạI và cập nhập
thông tin cho các cán bộ chủ chốt. Có cơ chế gắn kết Viện- Trường-
Doanh nghiệp trong nghiên cứu- đào tạo và triển khai một cách có
hiệu quả.
+ Củng cố Viện mẫu thời trang thành một cộng cụ mạnh và nghiên
cứu ứng dụng phát triển ngành. Trang bị phòng thí nghiệm cho Viện
và phân viện kinh tế- kĩ thuật dệt- may để xin nhà nước bổ sung chức
năng kiểm định quốc gia về hàng dệt may.

3.3.5. Đẩy mạnh phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm.

Như đã trình bày ở những phần trước, kim ngạch xuất khảu hàng dệt
may sang EU trong những năm qua rất khả quan, nhưng phương thức
gia công thuần tuý lạI chiếm một tỉ lệ rất lớn 80% trong kim ngạch
xuất khẩu. Mặc dù trong giai đoạn đầu phương thưvs này đac giảI
quyết một số lượng lao động lớn, giúp doanh nghiệp dệt may Việt
Nam bước đầu tập dượt tìm hiểu về thi trường EU, đưa về cho đất
nước một số lượng ngoạI tệ ít ỏi, nhưng đổi lạI uy tín sản phẩm (giá
cả, sức mua, tâm lí tiêu dùng, sự biến đổi sở thích…) ta không nắm
được. Phương thức này cũng hạn chế sự năng đọng của các doanh
nghiệp dệt may kinh doanh theo kiểu “ ngồi buôn” chứ không phảI
“đI buôn”. Các doanh nghiệp ngồi tạI chỗ chờ khách đến rồi chạy đI
xin hạn ngạch tương đối phổ biến ở các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam.

Vì thế, để ngành dệt may Việt Nam phát triển bền vững, để khai
thác hiệu quả thị trường EU chúng ta phảI dần tỉ lệ gia công, nâng
dần phương thức “mua đứt bán đoạn” trong kim ngạch xuất khẩu
hàng
dệt may sang EU. Để làm được đIều này cần có sự hỗ trợ của nhà
nước thông qua một hệ thốnh chính sách: chính sách đầu tư, tín dụng,
thuế, tỉ giá hối đoáI, nguyên liệu… đặc biết là các doanh nghiệp dệt
may cần phảI nâng cao chất lượng sản phẩm, cảI tiến mẫu mã đáp
ứng
đúng thi hiếu của người tiêu dùng, tạo uy tín để chiếm lĩnh thị trường
để có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trương EU.































KẾT LUẬN

Liên minh Châu Âu như đã phân tích là tổ chức duy nhất có mục
tiêu cơ bản và lâu dàI là thống nhất cả một châu lục về cả kinh tế và
chính trị dựa trên các nguyên tắc vừa linh hoạt vừa thực dụng và mang
tính quốc gia ngày càng rõ rệt. Trong hơn 40 năm qua, EU đã tồn tạI
không ngừng phát triển và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời
sống quốc tế nói chung và các nước trong khối EU nói riêng.
Trước những thành công mà EU đã đạt được trong tiến trình nhất thể
hoá kinh tế- tiền tệ về chính trị Việt Nam đang ngày càng chú trọng tới
việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với EU, đặc biệt là
trong lĩnh vực dệt may
Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ khi Hiệp định dệt may giai đoạn
1993 đến 1997 được kí kết đến nay quan hệ thương mạI Việt Nam- EU
trong lĩnh vực dệt may đã có những bước phát triển khả quan. Kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU không
ngừng tăng lên. Nhiều mặt hàng cao cấp của ngành dệt may Việt Nam
đã đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của người châu Âu “đẹp nhưng
phảI rẻ”. Ngược lạI, ngành dệt may Việt Nam cũng đã tiêu thụ một số

lượng lớn thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu và hoá chất nhập từ
EU. Hiệp định dệt may Việt Nam- EU được kí kết vào ngày 10/9/1998
với thiện chí của hai bên đã hứa hẹn một tương lai sáng sủa cho sự hợp
tác trong lĩnh vực này.
Những năm tới, ngành dệt may Việt Nam cần phảI có những chính
sách, biện pháp phù hợp để khắc phục những khó khăn, phát huy các
lợi thế của mình nhằm khai thác các thị trường EU hiệu quả hơn. góp
phần phát triển ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ- ngành công
nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với việc tiếp tục duy trì quan
đIểm phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả quốc gia khác
như trên thế giới vì lợi ích trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ
quyền của mỗi dân tộc do Đảng ta đề ra sẽ tạo đIều kiện cho sự hội
nhập và phát triển kinh tế Việt Nam. Với thiện chí và tiềm năng to lớn
của Việt Nam và EU chúnh ta tin tưởng rằng quan hệ hợp tác Việt
Nam- EU nói chung và trong lĩnh vực dệt may ngày càng phát triển tốt
đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Kim Ngọc - Chiến lược đầu tư của EU đối với các nước trong
khu vực và Việt Nam - Tạp chí nghiên cứu Châu Âu tháng 1/1995
2. TS. Kim Ngọc - Việt Nam EU hợp tác kinh tế và thương mại. Tạp
chí những vấn đề kinh tế thế giới số 4/1996.
3. Trần Kim Dung - Chiến lược mới của Liên minh Châu âu đối với
Châu á. Tạp chí nghiên cứu Châu âu số 3 + 4 năm 1996.
4. Trần Kim Dung năm 1997 - Một bước tiến mới vững chắc trong
quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam EU. Tạp chí nghiên cứu Châu
Âu tháng 1/1998.
5. Nguyễn Thị Quế - Việt Nam EU. Tạp chí nghiên cứu Châu âu số
2/1998.
6. Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành dệt may đến năm 2000 -

2010 của Tổng công ty dệt may Việt Nam.
7. Vũ Hà Quang - Hiệp định dệt may Việt Nam EU những sửa đổi mới
tạp chí Thương mại số 15/1998.
8. Đỗ Thúy Loan - Lối thoát cho hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường phi hạn ngạch - Báo thương mại ngày 27/2/1999.





MỤC LỤC

Trang
Lời mở đầu 1
Chương 1. Một vài nét về liên minh Châu Âu (EU) 2
1.1. Sự hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu 2
1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu Á 5
Chương 2. Thực trạng thương mại Việt Nam - EU trong
lĩnh vực dệt may
8
2.1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam 8
2.2. Cơ cấu thị trường ngành dệt may Việt Nam 9
2.3. Cơ cấu ngành dệt may Việt Nam 10
2.4. Một số đánh giá về thực trạng thương mại dệt may Việt
nam - EU
12
Chương 3. Các giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam -
EU trong lĩnh vực dệt may
16
3.1. Định hướng của ngành dệt may Việt Nam 16

3.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam - EU 18
3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại Việt
Nam - EU trong lĩnh vực dệt may
20
Kết luận 26
Tài liệu tham khảo 27



×