21
có thể đưa doanh nghiệp điến đỉnh cao của danh lợi cũng có thể
đưa doanh nghiệp diến bờ vực của sự phá sản, nó quyết định sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Người ta cho rằng doanh nghiệp
đạt cả danh và lợi khi sản phẩm có chất lượng cao, nó làm tăng tốc
độ tiêu thụ sản phẩm, tạo khả năng sinh lời cao. Tạo ấn tượng tốt,
sự tin tưởng của khách hàng đối với doanh nghiệp làm cho uy tín
của doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Mặt khác nó thể thu hút
thêm khách hàng, giành thắng lợi trong cạnh tranh.
22
1.4. Hoạt động nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp:
Thị trường tiêu thụ là yếu tố đầu ra ảnh hưởng trực tiếp tới sự
tăng trưởng của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu thị trường giúp
cho doanh nghiệp đưa ra quyết định đúng đắn về đầu tư sản phẩm,
giá cả và nắm bắt những thay đổi của thị trường. Thị trường đầu
vào ảnh hưởng đến giá thành, khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường. Vậy công tác nghiên cứu thị trường là quan
trọng, cần thiết nếu công tác nghiên cứu thị trường của doanh
nghiệp tốt sẽ tăng khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường tăng uy tín
cho doanh nghiệp.
1.5. Công tác tổ chức tiêu thụ:
Công tác tổ chức tiêu thụ bao gồm hàng loạt các khâu công
việc khác nhau như tổ chức mạng lưới tiêu thụ đến cácc hoạt động
hỗ trợ. Cuối cùng là khâu tổ chức thu hồi tiền hàng bán ra. Nếu như
công tác này tiến hành không ăn ý phối hợp không nhịp nhàng sẽ
làm gián đoạn hay làm giảm khối lượng hàng hoá tiêu thụ của
doanh nghiệp. Việc tổ chức mạng lưới bán hàng tốt sẽ giúp cho
doanh nghiệp thuận lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm của mình.
Nhưng nếu tổ chức không hợp lý thì sẽ làm tăng chi phí làm giảm
hiệu quả tiêu thụ.
Để thúc đẩy sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ với khối
lượng lớn thì các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cũng góp
phần không nhỏ, như những hoạt động này mà thu hút được nhiều
khách hàng đến với doanh nghiệp hơn. Sự phục vụ tận tình và chu
đoá các dịch vụ trước và sau khi bán hàng là nhằm tác động vào
khách hàng để họ tăng khả năng hiểu biết về sản phẩm của doanh
nghiệp. Nói tóm lại công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm tốt sẽ đem
lại cho doanh nghiệp số lượng tiêu thụ sản phẩm lớn và ngược lại.
1.6. Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm cả lao động
quản lý và công nhân. Do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
chi thức, Các doanh nghiệp ngày càng chú trọng đến năng lực,
chình độ chuyên môn, sức sáng tạo của người lao động, người lảnh
đạo đòi hỏiphải có trình độ tổ chức và quản lý, nắm vững nội dung
và nghệ thuật quản trị, có phương pháp quản trị hợp lý tạo ra sự hài
hoà giữa các bộ phận trong doanh nghiẹp thúc đẩy hoạt động sản
23
xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển. Người lao động đòi
hỏi phải có tay nghề cao, vững chuyên môn đảm bảo tạo ra những
sản phẩm có chất lượng cao và chi phí thấp. Từ đó tạo ra lợi thế
cạnh tranh cho sản phẩm và cho doanh nghiệp.
1.7. Tình hình tài chính của doanh nghiệp:
Tình hình tài chính của doanh nghiệp trong hiện tại là khả
quan hay khó khăn. Tình hình tài chính khả quan sẽ đảm bảo cho
qúa trình tái sản xuất diễn ra liên tục, có nghĩa là tạo thuận lợi cho
hoạt động tiêu thụ. Trường hợp tài chính trục trặc sẽ dẫn đến khó
khăn trong sản xuất và tiêu thụ, nó sẽ không cho phép doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động xúc tiến bán hàng và các hoạt động
nhằm làm tăng khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp.
2: Các nhân tố bên ngoài:
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước mỗi doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh, có tư cách pháp
nhân hay không có tư cách pháp nhân. Là một phân hệ mở trong
nền kinh tế quốc dân, do đó hoạt động của doanh nghiệp nói chung
và hoạt động tiêu thụ nói riêng vừa chịu sự hưởng cuả nhân tố nội
sinh xuất phát từ bản thân doanh nghiệp vừa chịu ảnh hưởng của
nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp. Việc xem xét
các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động
tiêu thụ của doanh nghiệp nhằm mục đích nhận biết các cơ hội và
nguy cơ có thể xảy ra trong tương lai từ dó xây dựng các chiến
lược tổng quát và cụ thể để tận dụng các cơ hội và tránh các nguy
cơ có thể xảy ra. Với các doanh nghiệp công nghiệp thường chịu
ảnh hưởng của một số các nhân tố sau.
2.1. Môi trường chính trị- luật pháp:
Đây là nhân tố vừa có tác động thúc đẩy vừa có tác động kìm
hãm hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp, nó bao gồm cả hệ thống
chính trị, luật pháp trong nước và thế giới. Nhân tố này đóng vai
trò làm nền tảng, cơ sở để hình thành các nhân tố khác tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Nó được
thể hiện ở hệ tư tưởng chính trị mà các quốc gia áp dụng, các quy
định mà các chính sách của quốc gia và quốc tế. Doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển phải tự điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp với chính sách của nhà nước và quốc tế. Khi tham gia vào
24
một hoạt động kinh doanh cụ thể doanh nghiệp phải phân tích nắm
bắt những thông tin về chính trị luật pháp của nhà nước và quốc tế
áp dụng cho trường hợp đó. Những thay đổi về quan điểm, đường
lối chính trị của quốc gia và của thế giới có thể mở ra hoặc làm sụp
đổ thị trường làm cho hoạt động của doanh nghiệp bị gián đoạn,
đảo lộn.Sự xung đột về quan đểm chính trị của các quốc gia, khu
vực trên thế giới có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền
kinh tế và dẫn đến những khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp xuất khẩu.
2.2. Môi trường kinh tế-xã hội:
Đây là nhân tố có vai trò quan trọng nhất và quyết định nhất
tới hoạt động kinh doanh của doanh nhiệp nó bao gômf nhiêu nhân
tố: Trạng thái phát triển của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối
đoái, lãi suất ngân hàng, các chính sách kinh tế của nhà nước, su
hướng kinh tế của thế giới Các nhân tố này dù là ổn định hay
biến động đều ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của doanh nghiệp
bởi nó thể hiện nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng,
mặt bằng chung về cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế, tạo
điêu kiên thuận lợi hay khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động.
Mặt khác sự biến động của nền kinh tế thế giới và khu vực cũng
ảnh hưởng sâu sắc đối với nền kinh tế quốc gia nói chung và mỗi
doanh nghiệp nói riêng.
2.3. Khách hàng:
Khách hàng đó là những người mua sản phẩm hàng hoá hay
dịch vụ của doanh nghiệp và họ có ảnh hưởng rất lớn thậm chí là
lớn nhất tới kết quả hoạt động tiêu thụ hàng hoá tại doanh nghiệp.
Người tiêu dùng mua gì ? mua ở đâu? mua như thế nào ? luôn luôn
là câu hỏi đặt ra trước các nhà doanh nghiệp phải trả lời và chỉ có
tìm cách trả lời câu hỏi này mới giúp cho các nhà doanh nghiệp
đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Và khi trả lời
được câu hỏi này, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đã xác định
được khách hàng mua gì ? bán gì ? bán ở đâu và bán như thế nào
để đáp ứng khách hàng từ đó nâng cao hiệu quả tiêu thụ của doanh
nghiệp.
2.4. Nhà cung cấp (cung ứng ):
25
Nhà cung cấp cụ thể là các tổ chức hay cá nhân cung cấp các
yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp xản xuất kinh doanh như: Nguyên
vật liệu, tiền vốn, lao động và các dịch vụ cần thiết khác. Có vai trò
rất quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng giá cả, phương thức và các
dịch vụ trong việc tổ chức giao nhận các vật tư cần thiết do đó ảnh
hưởng tới hoạt động tiêu thụ.
2.5. Các đối thủ cạnh tranh:
Đối thủ cạnh tranh có thể bao gồm nhiêu cá nhân và tổ
chức, trước hết là các tổ chức kinh doanh. Hoạt động cạnh tranh rất
đa dạng tư việc giành nhau thị trường khách hàng đến những phân
tích, nghiên cứu về các đặc điểm, về các lợi thế cũng như các điểm
yếu của từng đối thủ cạnh tranh trên thương trường. Vì vậy, kinh
doanh trong điêu kiện nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp phải quan tâm đến yếu tố cạnh tranh, nó ảnh hưởng rất lớn
đến khai thác cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Những chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa của tiêu thụ:
Để đánh giá chính xác hiệu quả của hoạt động tiêu thụ là
việc rất khó khăn, bởi hoạt động tiêu thụ không giống các hoạt
động khác của doanh nghiệp nó bao gồm nhiều hoạt động mà
doanh nghiệp không lượng hoá được những hoạt động này góp
phần tạo nên uy tín danh tiếng và sự phát triển lâu dài cho doanh
nghiệp. Tuy nhiên nếu đánh giá một cách tương đối thì hiệu quả
của hoạt độnh tiêu thụ có thể được xác định thông qua một số chỉ
tiêu sau :
Những chỉ tiêu định tính là những chỉ tiêu mà doanh nghiệp
đưa ra một cách chủ quan, chung chung, không có số liệu cụ thể,
không thể lượng hoá được như là thị phần kỳ thực tế tăng so với
kỳ kế hoạch. tỷ lệ đạt cách mục tiêu về tiêu thụ của công ty. Những
đánh giá của công ty về uy tín danh tiếng của doanh nghiệp triên
thị trường thông qua việc tiêu thụ sản phẩm.Thị phần của doanh
nghiệp trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh. Phần đóng góp
vào lợi nhuận do hoạt động tiêu thụ mang lại.
Những chỉ tiêu địng lượng là những chỉ tiêu mà doanh nghiệp
có thể lượng hoá được nó được biêu hiện băng các con số cụ thể
được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau.
26
Sản lượng bán ra hay doanh thu của doanh nghiệp kỳ thực tế
so với kỳ kế hoạch.
Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của bộ phận tiêu thụ.
Tỷ suất lợi nhuận tính trên chi phí của bộ phân tiêu thụ kỳ
thực tế so với kỳ kế hoạch và các doanh nghiệp trong ngành.
III. KINH NGHIỆM TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÁC
DOANH NGHIỆP TRONG VÀ NGOÀI NỨƠC:
Trong nền kinh tế thị trường các nhân tố luôn biến động tạo
ra những cơ hội mới đồng thời làm xuất hiện các nguy cơ, những
thách thức mới .Một doanh nghiệp thành công hay thất bại trên
thương trường phụ thuộc vào việc nhận thức và dự báo và nắm bắt
các thời cơ tránh các nguy cơ đó như thế nào, dù là thành công hay
thất bại thì nó cũng là bài học quý báu cho doanh nghiệp và các
doanh nghiệp khác trong những lần kinh doanh sau.
Doanh nghiệp và hàng và hang hoá do doanh nghiệp làm ra
bao giờ cũng là hai mặt của một chỉnh thể thống nhất, quan hệ qua
lại ràng buộc lẫn nhau.Nếuchỉ có hàng hoá mẫu mã, kiểu dáng đẹp,
chất lượng cao, giá cả thấp mà không biết cách quản lý tốt, tổ chức
tiêu thụ thì chưa hẳn đã bán chạy hàng nghĩa là chưa chắc đã đạt
lợi nhuận cao nhất. Ngược lại nếu công ty có bộ máy biết cách
quản lý, tổ chức tiêu thụ sản phẩm làm ra, nhưng những sản phẩm
ấy lại không bền đẹp, giá cả cao thì chưa chắc đã thuyết phục
khách hàng- nghĩa là khó lòng đã “ moi” được túi tiền của người
mua mang về cho doanh nghiệp để bảo toàn và phát triển hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình.
Mấy năm vừa qua nước ta nhiêu công ty, doanh nghiệp khốn
đốn vì hàng hoá làm ra không bán được, tồn đọng khá nhiều trong
khi đó sản phẩm nước ngoài thâm nhập vào thị trường nước ta qua
nhiều ngõ ngách khac nhau đã minh chứng cho hai mặt của một
chỉnh thể nói trên. Vì vậy em xin giới thiệu dưới đây kinh nghiệm
của một số công ty, doanh nghiệp ở nước ta và ngoài nước trong
việc chiếm lĩnh thị trường nhờ vào tiêu thụ sản phẩm.
1. Các doanh nghiệp trong nước:
Tạp chí “ doanh nghiệp thương mại” số139 năm 2001 có bài
viết "bí quyết thành công của haprosimex” là doanh nghiẹp đầu
tiên đạt cả năm chỉ tiêu chuẩn thưởng xuất khẩu với những thành
27
tích xuất sắc khiến không ít đồng nghiệp ngỡ ngàng ( Sản phẩm
mới, mặt hàng mới. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt20% trở lên.
Sử dụng nhiêu lao động và vật tư trong nước. Sản phẩm đạt tiêu
chuẩn quốc tế. Đạt kim ngach xuất khẩu trên 50 usd / năm ) là điều
tất cả các doanh nghiệp đều mong muốn bởi không chỉ đơn thuần
là danh tiếng mà qua đó còn tạo niềm lạc quan về sự phát triển của
một doanh nghiệp. Bí quyết thành công của doanh nghiệp, yếu tố
quyết định vẫn là con người và chữ tín trong kinh doanh. Điều
đánh chú ý là công ty luôn bám sát chiến lược phát triển đã được đề
ra là đẩy mạnh công tác khai thác và mở rộng thị trường, đa dạng
hóa mặt hàng và sản phẩm xuất khẩu, giữ vững chữ tín trong kinh
doanh tạo được nhiều khách hàng truyền thống. Bên cạnh đó công
ty có nhiêu hướng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đó là
không đầu tư tràn lan mà thường tìm đến những mặt hang ít đối thủ
canh tranh, những thị trường tương đối ổn định, nhất quyết không
để rơi vào tình trạng mạo hiểm, phưu lưu. Quy mô xây dựng cơ sơ
vật chất cũng rất linh hoạt tùy theo từng mặt hàng và khu vực thị
trường tiêu thụ và công nghệ, trang thiết bị máy móc phải tiên tiến,
đảm bảo năng suất cao, giá thanh hạ để tăng sức cạnh tranh khi gia
nhập thị trường.
Tạp chí thương mại số 8 năm 2000 có bài viết “ chất lượng
yếu tố giảm chi phí tăng sức canh tranh” để nói về kinh nghiệm
thanh công của công ty cổ phần ngoại thương và phát triển đầu tư
fdEco là một doanh nghiệp sản uất và kinh doanh các mặt hàng
xuất nhập khẩu. Công ty đang tự đổi mới để hội nhập, tồn tại và
phat triển trong xu thế tự do hóa toàn cầu. Để đủ sức xạnh tranh khi
Việt Nam thực hiện afta và apec, một trong những yếu tố quyết
định với fdEco là phải có chất lượng sản phẩm và dịch vụ cao, giá
thấp. Con đường tất yếu để thực hiên điền này là xây dựng và vận
hành một hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với đặc thù của
doanh nghiệp. Sau khi áp dụng hệ thống tiêu chuẩn iso và được cấp
chứng nhận vao năm 1998, chi phí bình quân mỗi năm của công ty
đã dảm đáng kể, uy tín của doanh nghiệp ngày càng tăng lên, các
khiếu nại hàng năm của khách hàng giảm đáng kể hoặc nếu có
khiếu nại thì có quy trình sử lý nhanh chóng, chính xác. điều đó
28
làm tăng sức cạnh tranh của công ty trên thương trường, phát triển
bạn hàng trong và ngoài nước, từng bước hội nhập vững chắc.
Cần tạo ra cho sản phẩm một nhãn hiệu đặc trưng đễ khẳng
định chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp với người tiêu dùng.
Tránh tình trạng núp dưới nhãn hiệu của các tập đoàn kinh tế có uy
tín khác và khi quan hệ bị dạn nứt người tiêu dùng không đánh giá
được khả năng và chất lướngản phẩm của doanh nghiệp, hiện
tượng này có thể nhận thấy được ở hầu hết các doanh nghiệp, các
cơ sở chế biến, gia công hàng may mặc, giầy dép, chế biến thủy hải
sản Tuy nhiên cũng có một số các doanh nghiệp tạo dựng được
uy tín cho nhãn hiệu riêng cho sản phẩm như công ty may 10 sữa
VINAMILK gần đây nhất là bánh kẹo kinh đô, hai châu trong lĩnh
vực cơ khí có công ty VINAPRO một doanh nghiệp xuất khấu sản
phẩm cơ khí vao loại cao nhất của nước ta.
Ngoài ra còn nhiều các doanh nghiệp khác nhưng trong phạm
vi bài viết này có hạn em chỉ nêu ra một vài doanh nghiệp tiêu biểu
trong nước.
2. Các doanh nghiệp nước ngoài:
Trong nền kinh tế đầy sôi động nay không ít các doanh
nghiệp nước ngoài đạt được những thành công và sau đây em xin
giới thiệu kinh nghiệm tìm kiếm thị trường của các doanh nghiệp
Nhật bản. Các doanh nghiệp Nhật Bản đạt được những thành công
lớn trong tìm kiếm thị trường nước ngoài do họ mất nhiều thời gian
và tiền của để nghiên cứu, phân tích cơ may của thị trường nhằm
đưa các giải pháp chính xác và kịp trời hỗ trợ cho hoạt động kinh
doanh. Họ luôn tìm ra các khả năng tiềm tàng rồi phân tích cụ thể
của thị trường, đưa hàng hóa để kinh doanh thử, thu thậm thông tin
về số liệu thị trường cho công tác Marketing để tìn ra các cơ hội tốt
nhất bước vào thị trường và sau đó để đứng vững thị trường
Tập đoàn sony tiến hành các hoạt động trước khi thâm nhập
thị trường nước ngoài bằng các gửi các chuyên gia về kiểu dáng,
mẫu sang các thị trường mới để nghiên cứu tìm hiểu thị trường của
người tiêu dùng. Nhiêu công ty khác lại chọn cách làm việc thử với
một hay nhiêu đối thủ canh tranh trong một trời gian ngắn hoặc dài
tùy theo tình hình thực tế. Tập đoàn Matsushita là một ví dụ họ cử
nhân viên sang Mỹ với nhiệm vụ thu thập thông tin và nghiên cứu
29
kỹ thị trường, các nhân viên này trực tiếp công tác với các đối thủ
canh tranh đang họat động tại thị trường Mỹ và Châu ÂU, họ còn
thuê chuyên gia về công nghệ, các cố vấn điều hành của Mỹ
chuyên nghiên cứu về các biện pháp thâm nhập thị trường, thậm
chí còn hợp tác với các đối thủ canh tranh để sản xuất ra hàng hóa
mang nhãn hiệu nước ngoài.
Khi bước vào thị trường Mỹ, tập đoàn Toyota chắc chắn họ
không tránh khỏi những thách thức gê gớm, do đó họ đã thuê một
công ty chuyên nghiên cứu thị trường của Mỹ đến phỏng vấn chủ
hãng ô tô Volswagen đang hoạt động tại đây, qua cuộc phỏng vấn
này công ty Toyota đã đưa ra các kiểu xe của mình với các ưu điểm
vượt trội so với xe xủa Volswagen, có chất lượng tốt hơn và có gía
bán rẻ hơn. Bên cạnh đó Toyota còn tang cuờng dịch vụ phân phối
và dịch vụ sau bán. Nhờ đó Toyota đã chiếm lĩnh thị trường và dần
thay thế vị chí của Volswagen. Nguyên nhân thành công của
Toyota là biết chọn đúng mục tiêu là thị trường xe con, tìm đúng
đối thủ cạnh tranh, biết được điểm mạnh, điểm yếu của họ, tìm ra
phương thức cạnh tranh thích hợp.
Sau khi nghiên cứu thị trường và có các chính sách Marketing
phù hợp, các doanh nghiệp Nhật Bản tiến hành thâm nhập thị
trường bằng các hoạt động cụ thể
Chính sách về sản phẩm
Chính sách về giá cả
Chính sách về tiêu thụ
Chính sách vễ xúc tiến và hổ trợ kinh doanh
30
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÁC DOANH
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP NƯỚC TA HIÊN NAY.
I: TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÁC DOANH
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HIỆN NAY.
1: Khái quát tình hình kinh tế xã hội trong thòi kỳ1991-
2001.
Trải qua 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng và bước đầu tạo ra những ra những tiền đề kinh tế
phục vụ cho giai đoạn phát triển sau. Về cơ bản đã có bước phát
triển mới về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, hội nhập kinh
tế quốc tế, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải
thiện rõ rệt. Thế và lực của đất nước đã vượt hơn hẳn trước đây,
khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Tổng sản phẩm trong nước ( gdp) không ngừng tăng lên
27% năm 2000 tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt 27,2% năm 2000.Từ
tình trạng khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được
nhu cầu khách hàng và của nền kinh tế, đã có sản phẩm xuất khẩu
và dự trữ. Kết cấu hạ tầng phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế có bước
chuyển dịch tích cực.
Quan hệ kinh tế được thiết lập với nhiều nước trên thế giới,
chủ động từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nhịp độ
tăng trưởng xuất khẩu gấp 3 lần nhịp độ tăng gdp. Đời sống vật
chất tinh thần củangười lao động được cải thiện rõ rệt, trình độ chất
lượng của người lao động, nguồn nhân lực được nâng lên đáng kể.
Năng lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, áp dụng nhiêu
công nghệ vào sản xuất.
Tuy nhiên nước ta vẫn là nước nghèo, kém phát triển, lạc
hậu so với các nước trong khu vực và trên trế giới nhiều tiền năng
của đất nước chưa được khai thác. Thức trạng kinh tế xã hội còn
nhiêu mặt yếu kém chủ yếu là.
Nền kinh tế kém hiệu qủa và sức cạnh tranh còn yếu, tích
lũy nội bộ và sức mua còn yếu, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm
theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị