1
LỜI NÓI ĐẦU
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đất nước ta
bước ngoặt lớn. Khi nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết, quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện mở cửa và xu thế khu vực hoá,
quốc tế hoá, đời sống kinh tế ngày càng trở thành xu thế tất yếu vị
thế của các doanh nghiệp được xác định là một phân hệ mở trong
nền kinh tế quốc dân và ngày càng hội nhập, vào nền kinh tế thế
giới và trong khu vực. Điều này tạo cho các doanh nghiệp có cơ
hội tiếp cận các thị trường và mở rộng trị trường truyền thống.
Đồng thời cũng đặt doanh nghiệp trước các nguy cơ bị đào thải nếu
không thích ứng với sư biến động của thị trường .
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới làm cho các doanh
nghiệp phải thay đổi các quan điểm về quản trị kinh doanh. Nếu
các nhà quản trị kinh doanh truyền thống cho rằng hoạt động tiêu
thụ là hoạt động đi sau hoạt đông sản xuất thì ngày nay các nhà
quản trị kinh doanh hiện đại quan niệm tiêu thụ là hoạt động đi
trước hoạt động xản xuất cụ thể là công tác điều tra nghiên cứu thị
trường luôn phải đặt trước khi tiến hành các hoạt động sản xuất.
Các doanh nghiệp cho rằng: “doanh nghiệp bán những gì thị
trường cần chứ không bán những gì mình có ”. Do vậy trong nền
kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm là hoạt động cực kỳ quan
trọng.
Mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là theo đuổi lợi nhuận
vấn đề đặt ra là làm thế nào để các doanh nghiệp hoạt động thành
công. Làm ăn có lãi trong điều kiên môi trường cạnh tranh gay gắt
tài nguyên khan hiếm như hiện nay điều này hoàn toàn phụ thuộc
vào hoat động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và doanh
nghiệp có tiêu thụ đựơc sản phẩm mới thu hồi đươc vốn và thu
được lợi nhuận ngươc lại doanh nghiệp nếu không tiêu thụ được
sản phẩm doanh nghiệp không thu hồi được vốn không có lợi
2
nhuận, hoạt động tái sản xuất kinh doanh không được thực hiện
dẫn điến thua lỗ và phá sản.
Vễ thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường Việt nam hiện
nay ta thấy rằng. Mặc dù đã thoát khủng hoảng và từng bước phát
triển nhưng vẫn là một nền kinh tế yếu kém, chậm phát triển so với
thế giới và khu vực. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp nói
riêng và nhất là trong xu thế hội nhập với thế giới và khu vực. Các
doanh nghiệp phải đối mặt với một tình huống hết sức khó khăn
vừa phải tìm cách chiếm lĩnh thị trường trong nước vừa phải tập
chung các thời cơ để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, trong khi
tiềm năng về mọi mặt của các doanh nghiệp còn hạn chế. Để tồn tại
và phát triển được thì không vì ai khác mà chính các doanh nghiệp
phải tự tìm lấy hướng đi cho mình trong đó việc tìm kiếm thị
trường và thúc đẩy hoạt động tiêu thụ hoạt động tiêu thụ sản phẩm
mang tính chất quyết định. Thực tế chứng minh rằng cùng với sự
sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu thị trường tiêu thụ sản
phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp bị thu hẹp làm cho các
doanh nghiệp công nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, phá sản.
Và gần đây là cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ ở các nước
Đông nam á làm cho các doanh nghiệp xuất hàng sang các nước
này gặp không ít những khó khăn, cản trở. Hiệp định thương mại
Viêt-Mỹ mới được ký kết, là cơ hội lớn để các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường lớn đầy tiềm năng. Tuy nhiên
để tiếp cận thị trường đầy tiềm năng này các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam gặp rât nhiều kó khăn về môi trường pháp luật,
và những điều kiện khác. Do đó để có hiệu quả các doanh nghiệp
công nghiệp phải có chính sách, chiến lược để tiếp cận thị trường
thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm đối với các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp nói riêng
hiện nay chưa chú trọng và quan tâm đúng mức đến công tác tiêu
thụ sản phẩm, chưa tự xây dựng cho mìng một chiến lựơc thâm
nhập thị trường, thúc đẩy hoạt động tiêu thụ, do đó việc tiêụ thụ
sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn.
Do nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề tiêu
thụ sản phẩm cùng với chuyên ngành được học “chương 7: Quản
3
trị tiêu thụ” và qua nghiên cứu các tài liệu, tạp chí, em đã chọn đề
tài :
“Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của
các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.”:
Đề tài này được xây dựng dựa triên phương pháp nghiên cứu
phân tính đánh giá tổng hợp, phương pháp duy vật biện chứng
phương pháp duy vật lịch sử phương pháp so sánh, triên cơ sở các
lý luận cơ bản từ các số liệu thu đựoc từ năm 1990 đến nay của các
doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam để tìm ra những điểm đã đạt
được và những vấn đề tồn tại trong hoạt động tiêu thụ của các
doanh nghiệp công nghiệp từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm
khắc phục và hoàn thiện công tác này .
Để thực hiện được nội dung nghiên cứu triên thì kết cấu của đề
án môn học gồm :
Chương1: Lý luận chung về công tác tiêu thụ sản phẩm
trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở các doanh
nghiệp công nghiệp nước ta hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản
phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
Giáo trình phân tích một số thực trạng tiêu thụ sản
phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp ở nước ta
4
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG
TIÊU THỤ SẢN PHẨM .
. Khái niệm:
Để quá trình tái sản suất diễn ra một cách liên tục, các doanh
nghiệp cần phải thực hiện hoạt động tiêu thụ sản phẩm mà mình
sản xuất ra, đây là một khâu quan trọng trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, là điều kiện quan trọng, sống còn
của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đầy biến động
hiện nay.Vậy tiêu thụ sản phẩm là gì ? Theo quan điểm hiện đại thì
tiêu thụ sản phẩm là một quá trình thực hiện tổng thể các hoạt động
có mối quan hệ lô gíc và chặt chẽ bởi một tập hợp các cá nhân,
doanh nghiệp phụ thuộc lẫn nhau nhằm thực hiện quá trình chuyển
hàng hoá từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng. Tiêu thụ thực hiện mục
đích của sản xuất và tiêu dùng nó là khâu lưu thông hàng hoá là
cầu nối trung gian một bên là sản xuất một bên là tiêu dùng .
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thi trường quan niệm về
tiêu thụ sản phẩm cũng dần được thay đổi cho phù hợp với sự xuất
hiện của các nhân tố mới. Quản trị truyền thống quan niệm tiêu thụ
sản phẩm là hoạt động đi sau hoạt động sản xuất và chỉ được thực
hiện khi quá trình sản xuất xản phẩm đã được hoàn thành có nghĩa
là hoạt động tiêu thụ là hoạt động thụ động phụ thuộc vào quá trình
sản xuất của doanh nghiệp. Ngày nay với sự phát triển của niền
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không thể bán cái mà mình có
như trước đây nữa mà chỉ có thể bán cái mà thị trường cần. Do vậy
quan niệm về tiêu thụ sản phẩm cũng thay đổi, quan điểm ngày nay
cho rằng tiêu thụ sản phẩm là hoạt động đi trước hoạt động sản
xuất, nó thực hiện công tác điều tra nghiên cứu thị trường ( khả
năng tiêu thụ ) làm cơ sở cho việc hoạch định các chiến lược sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chiến lược sản xuất kinh doanh
5
của doanh nghiệp có khả thi hay không đều phụ thuộc vào tính
đúng đắn, chính xác của việc điều tra nghiên cứu thị trường, đây là
điều kiện quan trọng để doanh nghiệp có thể thực hiện tái sản xuất
sản phẩm, như vậy theo quan điểm hiện đại thì tiêu thụ sản phẩm là
hoạt động cực kỳ quan trọng quyết định hoạt động sản xuất trong
thực tế chúng ta hay nhầm lẫn giữa tiêu thụ sản phẩm và bán hàng
đây là hai hoạt động riêng biệt nhau xét về bản chất là giống nhau
bởi đều là hoạt động nhằm chuyển hàng hoá tới tay người tiêu dùng
tuy nhiên hoạt động tiêu thụ rộng hơn hoạt động bán hàng. Bán
hàng chỉ là một khâu, một bộ phận của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
điều này sẽ được làm sáng tỏ ở phần nội dung của hoạt động tiêu
thụ .
Đối với nước ta trong niền kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi
mà ba vấn đề trung tâm của doanh nghiệp là: sản xuất cái gì ? sản
xuất cho ai? sản xuất như thế nào? đều do nhà nước quyết định thì
việc tiêu thụ sản phẩm chỉ là việc tổ chức bán sản phẩm hàng hoá
sản xuất ra theo kế hoạch và giá đã được nhà nước ấn định từ trước
còn trong niền kinh tế thị trưòng hiện nay các doanh nghiệp phải tự
mình quyết định ba vấn đề trọng tâm đó cho nên việc tiêu thụ sản
phẩm được hiểu một cách rộng hơn theo đúng nghĩa cuả nó
. Vị trí, vai trò, và nội dung của hoạt động tiêu thụ sản
phẩm:
.
. Vị trí, vai trò của họat động tiêu thụ:
Tiêu thụ sản phẩm là một trong 6 chức năng hoạt động cơ bản
của doanh nghiệp: tiêu thụ, sản xuất, hậu cần kinh doanh, tài chính,
kế toán và quản trị kinh doanh mặc dù sản xuất là trức trực tiếp tạo
ra xản phẩm, song tiêu thụ sản phẩm lại đóng vai trò là điều kiện
tiền đề không thể thiếu để sản xuất có hiệu quả chất lượng của
hoạt động tiêu thụ sản phẩm, phục vụ khách hàng quyết định hiệu
quả của hoạt động sản xuất hoặc hoạt động chuẩn bị dịch vụ.
Như đã được trình bày ở trên, theo quan niệm truyền thống thì
các nhà quản trị cho rằng tiêu thụ là hoạt động đi sau hoạt động sản
suất chỉ được thực hiện khi sản suất được sản phẩm. Ngày nay tiêu
thụ sản phẩm là điều kiện tiền đề, là cái phía trước gắn với phía cầu
và quyết định hoạt động sản xuất. Một doanh nghiệp hiện đại trước
6
khi quyết định ba vấn đề cơ bản sản xuất cái gì ? sản xuất cái gì ?
sản xuất cho ai ? Do đó cần phải thực hiện việc nghiên cứu thị
trường cụ thể là việc nghiên cứu cầu của thị trường khả năng thanh
toán và quy mô của thị trường trong hiện tại và cũng như trong
tương lai. Kết quả của hoạt động nghiên cứu thị trường sẽ là cơ sở
để, doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất tối ưu, khi doanh
nghiệp thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh thì nhịp độ của tiêu
thụ sản phẩm sẽ quyết đến nhịp độ sản xuất sự quay vòng vốn của
doanh nghiệp là nhanh hay chậm đều thuộc vào thời gian tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp. Vậy, trong nền kinh tế thị trường tiêu
thụ sản phẩm là cực kỳ quan trọng, quyết định hoạt động sản xuất.
Những nguyên tắc cơ bản trong tiêu thụ sản phẩm là nhận
thức và thoả mãn đầy đủ nhu cầu của khách hàng và các sản phẩm,
đảm bảo tính liên tục trong quá trình tiêu thụ sản phẩm sản xuất,
tiết kiệm, nâng cao trách nhiệm của các bên trong giao dịch thương
mại ở các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm
của doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng
chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp thể hiện uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản
phẩm, sự thích ứng vơí nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện
của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác tiêu thụ sản phẩm phản
ánh đầy đủ điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp.
Công tác tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng
nó giúp các nhà sản xuất hiểu rõ về kết quẩ sản xuất của mình và
nhu cầu và mong muốn của khách hàng .
Về phương diện xã hội, tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong
việc cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dân là một thể
thống nhất với những cân bằng và những tương quan theo một tỷ lệ
nhất định. Sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ tức là sản xuất được
diễn ra một cách bình thường, chôi chảy, tránh được sự mất cân
đối, giữ được bình ổn trong xã hội, đồng thời tiêu thụ sản phẩm
giúp cho các đơn vị định được phương hướng và bước đi của kế
hoạch sản xuất cho các giai đoạn tiếp theo của mình.
2.2 Nhiệm vụ của hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
7
Tiêu thụ sản phẩm có mục tiêu chủ yếu là bán hết các sản phẩm với
doanh thu tối đa và chi phí kinh doanh cho hoạt động tiêu thụ sản
phẩm là tối thiểu. Với mục tiêu đó, tiêu thụ sản phẩm không phải là
hoạt động thụ động, chờ bộ phận sản xuất tạo ra sản phẩm mới tìm
cách tiêu thụ chúng mà tiêu thụ phải có nhiệm vụ chủ động từ việc
nghiên cứu thị trường, xác định đúng đắn cầu của thị trường về sản
phẩm và khả năng doanh nghiệp đang hoặc sẽ có khả năng sản xuất
để quyết định đầu tư tối ưu. Chủ động tiến hành các hoạt động
quảng cáo cần thiết nhằm giới thiệu và thu hút khách hàng.Tổ chức
công tác bán hàng cũng như các hoạt động yểm trợ nhằm bán được
nhiều hàng hoá với chi phí kinh doanh cho hoạt động bán hàng là
thấp nhất cũng như đáp ứng tốt nhất các dịch vụ sau bán hàng.Từ
đó tạo ra cho doanh nghiệp một lượng khách hàng truyền thống,
trung thành với doanh nghiệp.
2.3. Nội dung của hoạt dộng tiêu thụ sản phẩm.
Tuỳ theo quy mô đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của sản xuất,
kinh doanh và tầm quan trọng của hoạt động tiêu thụ mà các doanh
nghiệp tổ chức các hoạt động tiêu thụ sản phẩm khác nhau. Còn đối
với các doanh nghiệp công nghiệp thường được tổ chức thành các
hoạt động sau:
Nghiên cứu thị trường.
Kế hoạch hoá tiêu thụ.
Chính sách maketing – mix.
Tổ chức hoạt động tiêu thụ.
2.3.1. Nghiên cứu thị trường.
2.3.1.1. Khái niệm và vai trò.
Thị trường là tổng hợp càc mối quan hệ phát sinh liên quan
đến hoạt động mua và bán hàng hoá, dịch vụ.
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu nhập, xử lý và phân
tích các số liệu về thị trường một cách có hệ thống. Làm cơ sở cho
các quyết định quản trị đó chính là quá trình nhận thức một cách
khoa học có hệ thống mọi nhân tố tác động của thị trường mà
doanh nghiệp phải tính đến trong khi ra các quyết định quản trị
kinh doanh, phải điều chỉnh các mối quan hệ của doanh nghiệp với
thị trường và tìm cách ảnh hưởng tới chúng.
8
Nghiên cứu thị trường là chức năng liên hệ với người tiêu
dùng, công chúng và các nhà Marketing thông qua các công cụ thu
thập và xử lý thông tin nhằm phát hiện ra các cơ hội thị trường để
quản lý Marketing như một quá trình.
Nghiên cứu thị trường cung cấp thông tin cho việc ra quyết
định Marketing trong quá trìng quản trị kinh doanh, giúp cho việc
quản lý Maketing hoặc giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó của thị
trường.
Nghiên cứu thị trường là yếu tố cơ bản để tạo ra sản phẩm
mới giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện,
tồn tại và đứng vững triên thị trường .
2.3.1.2. Nội dung cơ bản của nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường có thể được thực hiện ở từng doanh
nghiệp hoặc trong phạm vi toàn bộ nghành kinh tế –kỹ thuật nào đó
theo schafer nghiên cứu thị trường quan tâm dến ba lĩnh vực lớn là
cầu về sản phẩm, cạnh tranh về sản phẩm và nghiên cứu mạng lưới
tiêu thụ sản phẩm.
- Nghiên cứu cầu về sản phẩm .
Cầu về sản phẩm là một phạm trù phản ánh một bộ phận nhu
cầu có khả năng thanh toán của thị trường về một loại sản phẩm
nào đó. Nghiên cứu cầu nhằm xác định được các dữ liệu về cầu
trong hiện tại và khoảng thời gian trong tương lai xác định nào đó.
Nghiên cứu cầu thông qua các đối tượng có cầu các doanh nghiệp,
gia đình, và các tổ chức xã hội khác.
Để nghiên cứu cầu có thể phân thành hai loại là sản phẩm và
dịch vụ triên cơ sở đó lại tiếp tục phân thành vật phẩm tiêu dùng
hay tư liệu sản xuất, dịch vụ thành nhiều loại dịch vụ khác nhau.
Trong xác định cầu về vật phẩm tiêu dùng cần chú ý đến đối tượng
sẽ trở thành người có cầu, những người có cầu phải được phân
thành các nhóm theo các tiêu thức khác nhau, như độ tuổi,giới tính
đối vớ nhiều loại vật phẩm tiêu dùng mức thu nhập là nhân tố có
ý nghĩa quan trọng bậc nhất.Việc nghiên cứu cầu còn dựa trên cơ
sơ phân chia cầu theo khu vực tiêu thụ, mật độ dân cư
Với cầu là tư liệu sẽ phải nghiên cứu số lượng và qui mô của
các doanh nghiệp có cầu, tính chất sử dụng sản phẩm hiện tại và
khả năng thay đổi trong tương lai.
9
Nghiên cứu thị trường nhằm xác định những thay đổi của cầu
do tác động của những các nhân tố như mốt sự ưa thích, sản phẩm
thay thế, thu nhập và mức sống người tiêu dùng đồng thời nghiên
cứa cầu cũng phải giải thích phản ứng cụ thể của người tiêu dùng
trước các biện pháp quảng cáo, các phản ứng của đố thủ cạnh tranh
trước những chính sách bán hàng mới của doanh nghiệp. Ngoài ra
nghiên cứu cầu còn nhằm giải thích những thay đổi do phân tích
của toàn bộ ngành kinh tế_kĩ thuật, nguyên nhân mùa vụ hay suy
thoái kinh tế.
- Nghiên cứu cung để hiểu rõ các đối thủ cạnh tranh hiện tại
và trong tương lai. Sự thay đổi trong tương lai gắn với khả năng
mở rộng (thu hẹp) quy mô của doanh nghiệp cung như sự thâm
nhập mới ( rút khỏi thị trường ) của các doanh nghiệp hiện có.
Nghiên cứu cung phải xác định được số lượng đối thủ cạnh tranh,
phân tích các nhân tố có ý nghĩa đối với chính sách tiêu thụ của đối
thủ như thị phần, chương chình sản suất, đặc biệt là chiến lược và
chính sách khác biệt hoá sản phẩm, chính sách giá cả, phương pháp
quảng cáo và bán hàng, chính sách phục vụ khách hàng cũng như
các điều kiện thanh toán và tín dụng. Mặt khác phải làm rõ khả
năng phản ứng của đối thủ trước các biện pháp về giá cả quảng
cáo, xúc tiến bán hàng của doanh nghiệp. Trong thực tế, trước hết
phải quan tâm nghiên cứu các đối thủ mạnh chiếm thị phần cao
trong ngành
Nghiên cứu cung không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu các đố
thủ cạnh tranh mà còn quan tâm nghiên cứu đến các doanh nghiệp
sản xuất những sản phẩm thay thế cũng như những ảnh hưỡng này
đến thị trường tương lai của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu mức
độ ảnh hưởng của sản phẩm thay thế gắn với việc xác định hệ số co
giãn chéo của cấu theo gía.
-Nghiên cứu mạng lưới tiêu thụ.
Tốc độ tiêu thụ sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào quan hệ
cung cầu triên thị trường mà còn phụ thuộc rất lớn ở việc tổ chức
mạng luới tiêu thụ.Việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ cụ thể thường
phụ thuộc vào các đặc điểm kinh tế-kỹ thuật, chiến lược kinh
doanh, chính sách và kế hoạch tiêu thụ của doanh nghiệp. Khi
nghiên cứu mạng lưới tiêu thụ phải chỉ rõ các ưu điểm, nhược điểm
10
của từng kênh tiêu thụ của doanh nghiệp và của các đối thủ cạnh
tranh phải biết lượng hoá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố điến
kiết quả tiêu thụ cũng như phân tích cách hình thức tổ chức bán
hàng cụ thể của từng doanh nghiệp củng như của các đối thủ cạnh
tranh .
Để nghiên cứu thị trường doanh nghiệp cần tiến hành theo
một quy trình nhất định nhằm giúp cho doanh nghiệp ra quyết định
của người quản lý. Hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh
nghiệp công nghiệp được tiến hành theo phương pháp gián tiếp hay
trực tiệp là phụ thuộc vào việc doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì ?
mục đích nghiên cứu như thế nào ? .
2.3.2: Kế hoạch hoá tiêu thụ:
2.3.2.1: Khái niệm và vai trò:
Kế hoạch hoá là việc dự kiến trước cách phương án sử dụng
nguồn lực để thực hiện những hoạt động cụ thể nào đó trong
khoảng thời gian nhất định nào đó nhằm đạt được những mục tiêu
đã đặt ra trước đó.
Vai trò của kế hoạch hoá.
Kế hoạch hoá là cơ sở để thực hiện các chức năng quản lý
khác .
Kế hoạch hoá đi liền với phân tích và dự báo nhu cầu thị
trường và những biến động của môi trường kinh do đó lập kế hoạch
sẽ cho phép doanh nghiệp phản ứng linh hoạt trước những thay đổi
của môi trường kinh doanh .
Trong một thời gian dài nước ta đã duy trì một cơ chế kế
hoạch hoá tập chung quan liêu bao cập từ triên xuống dưới dẫn đến
cuộc khủng hỏang toàn diện, sâu sắc vào những năm đầu của thập
kỷ 80 và hậu quả của nó kéo dài nhiều năm sau đó. Do đó trong
hiện tại khi nhắc đến kế hoạch hoá thường làm cho con người e
ngại và nghi ngờ hiệu quả của nó, tuy nhiên kế hoạch ở đây không
phải là kế hoạch hoá tập trung cứng nhắc như trước đây mà là linh
hoạt mềm dẻo, giữa chúng có sự khác nhau cơ bản về nội dung và
phương pháp lập kế hoạch. Về phương pháp lập kế hoạch , kế
hoạch hoá tập trung lập kế hoạch theo phương pháp từ triên xuống,
còn kế hoạch hoá linh hoạt lập kế hoạch theo phương pháp từ dưới
lên hoặc theo phương pháp hỗn hợp tức là phương pháp kết hợp