Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hình thành khái niệm về các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi ODA p3 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.39 KB, 10 trang )

thông vận tải 27,5 %, phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm
cả thuỷ sản, lâm nghiệp, thuỷ lợi 12,74% ngành cấp thoát nước
7,8%, các ngành y tế- xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học- công
nghệ- môi trường 11,78%. Ngoài ra, nguồn ODA cũng hỗ trợ
đáng kể cho ngân sách của chính phủ để thực hiện điều chỉnh cơ
cấu kinh tế và thực hiện chính sách cải cách kinh tế ( các khoản
tín dụng điều chỉnh cơ cáu kinh tế, điều chỉnh cơ cáu kinh tế mở
rộng, quỹ Miyazawa, PRGF,PRSC).
Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng vốn ODA đã
hoàn thành và đưa vào sử dụng góp phần tăng trưởng kinh tế, xoá
đói giảm nghèo như: nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, nhà máy thuỷ
điện Sông Hinh, một số dự án giao thông quan trọng như Quốc lộ
5, quốc lộ 1A, cầu Mỹ Thuận…, nhiều trường học đã được xây
dựng mới, cải tạo hầu hết ở các tỉnh, một số bệnh viện lớn ở các
thành phố, thị xã như Bệnh viện Bạch Mai( Hà Nội), bệnh vện
Chợ Rẫy( Thành phố Hồ Chí Minh), nhiều trạm y tế xã đã được
cải tạo hoặc xây mới, các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều
tỉnh, thành phố cũng như ở nông thôn, vùng núi. Các chương trình
dân số phát triển, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, tiêm chủng
mở rộng được thực hiện một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên, việc phân bổ vốn ODA theo vùng lãnh thổ còn nhiều
bất cập chưa đáp ứng được nhu cầu của những nơi cần được hỗ
trợ nhiều hơn, hiệu quả hơn. Theo UNDP, vùng duyên hải Bắc
trung bộ và Đồng bằng Sông cửu Long là những vùng đang bị
thiệt thòi nhất về sử dụng vốn ODA. Trong khi các vùng này
chiếm gần 70% số người nghèo của cả nước nhưng họ mới chỉ
nhận được 44% các khoản giải ngân ODA trực tiếp và đây là một
điều cần hết sức lưu ý khi phân bổ vốn ODA.
3) Tình hình giải ngân vốn ODA
Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam lần thứ
10 do chính phủ Việt Nam và ngân hàng thế giới tổ chức đã diễn


ra tại Hà Nội cuối năm 2002. Tại hội nghị này, theo số liệu thống
kê của Bộ Kế hoạch - Đầu tư thì đến hết năm 2001 tổng cộng số
vốn cam kết mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam là gần 20 tỷ
USD và theo số liệu của chính phủ những khoản cam kết này đã
được chuyển thành hiệp định ký kết với giá trị khoảng 16,4 tỷ
USD và nếu tính cả năm 2002 thì mức giải ngân lên tới 10,8 tỷ
USD. Điều này có nghĩa là còn khoảng 6,1 tỷ chưa được giải
ngân. Tốc độ giải ngân đạt bình quân hàng năm khoảng 49,2%.
Tình hình giải ngân qua các năm cụ thể như sau:
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Vốn cam kết
1.81
1.94
2.26
2.43
2.40
2.20
2.10
2.40
2.40

2.50

Vốn giải ngân
0.41
0.72
0.74
0.90
1.00
1.24
1.35
1.65
1.50
1.53
Tỷ lệ giải ngân
22.65%
37.11%
32.74%
37.03%
41.67%
56.36%
64.28%
68.75%
62.5%
61.2%
Tốc độ tăng



75.6%
2.77%

21.62%
11.11%
24%
8.87%
22.22%
-9%
2%

Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư.
Nhìn chung, trong thời gian vừa qua lượng ODA vào Việt Nam
không nhiều nhưng có ý nghĩa quan trọng và có tác động tích cực
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
- Đối với một số ngành, lĩnh vực kinh tế ODA đóng góp trực
tiếp vào quá trình phát triển thông qua các chương trình, dự
án đầu tư bằng vốn ODA
- ODA đã thực sự trở thành một nguồn vốn quan trọng đáp
ứng những nhu cầu cấp bách về cân đối ngân sách, cán cân
xuất nhập khẩu, đầu tư phát triển.
- Nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng đã và đang được
hình thành bằng nguồn vốn ODA.
- ODA tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế, xã
hội của các địa phương và các vùng lãnh thổ. Nguồn vốn
ODA cũng giúp cải thiện điều kiện về vệ sinh, y tế, cung
cấp nước sạch, bảo vệ môi trường, phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn, phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo v.v.
Tuy nhiên, trong quá trình vận động, tiếp nhận và sử dụng vốn
ODA vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể là:

Những tồn tại Nguyên nhân
1. Trong vận động tài trợ:

- thiếu chủ động trong vận
động.
- khả năng lập kế hoạch yếu.


2. Khi tiếp nhận:
- Sử dụng vốn đầu tư dàn trải.
- Phân bổ vốn thiếu công bằng.
- Triển khai dự án chậm.



3. Sử dụng:
- Không thoả mãn yêu cầu của
nhà tài trợ.
- Tỷ lệ giải ngân thấp.
- Tốc độ giải ngân chậm.




4. Đấu thầu:
- Không đủ khả năng dự thầu
cung cấp thiết bị cho các dự án
ODA.

- Chỉ là thầu phụ khi thi công
xây lắp.

-Năng lực kém nên tính thuyết

phục chưa cao.

- Không đón trước được mục
tiêu của nhà tài trợ.

- Do cơ chế quản lý chưa rõ
ràng, chồng chéo.

- Thiếu sự thống nhất giữa các
bên quản lý.

- Năng lực cán bộ thừa hành
yếu.


- Thiếu công khai, minh bạch.

- Khả năng điều hành của địa
phương và ban quản lý dự án
còn kém

- chưa hiểu rõ các qui định của
nhà tài trợ.

- Vốn đối ứng không đủ, công
tác giải phóng mặt bằng chậm.
III) MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THÀNH CÔNG,
HẠN CHẾ TRONG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ODA VÀ BÀI
HỌC RÚT RA.
1) Nguyên nhân thành công.

- Chính phủ luôn coi trọng việc hoàn thiện môi trường pháp
lý để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA.
- Việc chỉ đạo thực hiện ODA của chính phủ kịp thời và cụ
thể như đảm bảo vốn đối ứng, vấn đề VAT đối với các chương
trình, dự án ODA, nhờ vậy nhiều vướng mắc trong quá trình thực
hiện các chương trình, dự án đã được tháo gỡ.
- Công tác theo dõi và đánh giá dự án ODA đã đạt được nhiều
bước tiến bộ. Nghị định 17/2001/NĐ-CP đã tạo khuôn khổ pháp
lý tổ chức hệ thống theo dõi và đánh giá chương trình, dự án
ODA từ các Bộ, Ngành trung ương tới các địa phương và các ban
quản lý dự án.
- Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ nhằm
tăng cường quản lý ODA, làm hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và
các nhà tài trợ để thúc đẩy tiến trình thực hiện các chương trình,
dự án.
2) Nguyên nhân dẫn đến hạn chế.
Những nguyên nhân chung:

Thứ nhất, Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong việc tiếp nhận
vốn ODA, nhất là việc thực hiện các thủ tục có liên quan tới đấu
thầu, thanh toán, chế độ báo cáo định kỳ, bố trí vốn đối ứng kịp
thời.
Thứ hai, Công tác quản lý ODA còn bị chồng chéo, chưa tách
bạch rõ trách nhiệm của các cấp làm giảm hiệu lực điều hành,
quản lý vốn ODA.
Thứ ba, mỗi nhà tài trợ lại có những qui định riêng và hầu như
chưa hài lòng với những qui định của Việt Nam. Nhìn chung, các
bước thực hiện dự án đều phải trình phía đối tác từng giai đoạn
mất nhiều thời gian.
Thứ tư, Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai làm ảnh

hưởng đến tiến độ thực hiện dự án.
Thứ năm, Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà tài
trợ.

Nguyên nhân của việc giải ngân chậm:
Một là, Thời gian lựa chọn dự án, phát triển dự án và thẩm định
dự án thường kéo dài, đặc biệt là các thủ tục hành chính về phía
Việt Nam.
Hai là, Trình độ quản lý dự án, tư vấn dự án chung đặc biệt là
phía Việt Nam còn chưa đáp ứng được yêu cầu, tính chuyên
nghiệp của công chức Việt Nam còn thấp trong khi vai trò của các
tổ chức tư vấn tư nhân và phi chính phủ thường không được chấp
nhận.
Ba là, Yêu cầu về vốn đối ứng của một số chương trình viện trợ
chẳng những không có ý nghĩa như mong muốn mà còn gây trở
ngại cho việc thúc đẩy thực hiện các dự án. Trên thực tế, phần lớn
vốn đối ứng này đang trở thành gánh nặng cho ngân sách. Hơn
nữa các vấn đề kỹ thuật để xác định tài sản làm vốn đối ứng, thủ
tục chấp nhận vốn đối ứng thường rất phức tạp.
Bốn là, Một phần lớn vốn ODA được chính phủ cấp cho các
doanh nghiệp nhà nước thuộc khu vực sản xuất thay thế nhập
khẩu dưới hình thức cho vay lại nhưng các dự án này lại thường
được thẩm định một cách sơ sài, thời gian kéo dài nên hiệu suất
thấp.
Năm là, Phần lớn các dự án dành cho các dân tộc thiểu số thường
không tính đến các khía cạnh xã hội và văn hoá của họ. Các dự
án này thường không thất bại vì lý do kinh tế mà do khía cạnh xã
hội và văn hoá. Vì vậy họ tham gia các dự án một cách thụ động
và coi các khoản viện trợ như một thứ quà biếu không có giá trị
phát triển.

Sáu là,Sự thiếu minh bạch về luật pháp, sự thiếu công khai về
thông tin trong hệ thống kế toán của Việt Nam và quốc tế, những
thủ tục phức tạp về giải ngân của các nhà tài trợ và tình trạng
tham nhũng, quan liêu đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam cũng
là những trở ngại lớn đối với việc giải ngân các nguồn tài trợ quốc
tế tại Việt Nam.

3) Một số bài học rút ra.
Qua thực tế quản lý các dự án ODA chúng ta thấy rằng cần phải
chú ý một số điểm sau:
Một điều kiện tiên quyết để triển khai thành công dự án và giải
ngân nhanh là phải tranh thủ được sự ủng hộ của người hưởng lợi
và phương pháp tốt nhất để tranh thủ được sự ủng hộ của họ là tạo
điều kiện và đưa họ tham gia vào dự án.
Trong quá trình triển khai các dự án ODA, chủ dự án không
những phải tuân thủ đầy đủ các qui định trong nước mà còn phaỉ
tuân thủ các qui định của phía nhà tài trợ. Vì vậy việc triển khai
các dự án này rất phức tạp. dự án cần được xây dựng và thiết kế
cẩn thận để khi đã ký kết hiệp định vay vốn thì có thể triển khai
được ngay.
Một vấn đề khác là vấn đề vốn đối ứng. Vốn đối ứng cho các dự
án chiếm một phần nhỏ trong tổng số vốn đầu tư nhưng lại là một
phần không thể thiếu nếu muốn triển khai dự án. Về phía chính
phủ, cần tiếp tục ưu tiên bố trí vốn đối ứng cho các dự án ODA.
Về phía chủ đầu tư cần quan tâm lập kế hoạch vốn đối ứng chính
xác và kịp thời trình các cơ quan tổng hợp xem xét và bố trí đầy
đủ.
Các dự án ODA sử dụng vốn nước ngoài nhưng ngân sách nhà
nước phải trả lại sau này nên thực chất vẫn là chi tiêu từ ngân
sách nhà nước. Vì vậy, phải sử dụng nguồn vốn này một cách có

hiệu quả nhất. Các dự án ODA phải được xây dựng phù hợp với
kế hoạch phát triển tổng thể của đất nước, của các ngành chủ quản
và các đơn vị hưởng lợi. Do vậy, để tiếp tục có vốn đầu tư phát
triển đất nước, Việt Nam cần có những biện pháp mạnh để cạnh
tranh thu hút nguồn vốn ODA và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
này.


CHƯƠNG III MỘT
SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG
ODA.


Tình hình huy động, quản lý và sử dụng ODA ở nước ta trong
thời gian qua cho thấy chúng ta đã đạt được những kết quả tích
cực góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc CNH, HĐH đất
nước. Song, chúng ta cũng thấy rằng còn có nhiều hạn chế trong
trong quá trình huy động, quản lý và sử dụng vốn ODA mà chúng
ta cần khắc phục để sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn ngoại lực
quí báu này. Sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng nguồn vốn ODA:

I) MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHUNG.
1) Về cơ chế chính sách
Thứ nhất, phải tiến hành xây dựng chính sách tổng thể về quản lý,
giám sát vay và trả nợ nước ngoài được hoạch định trong mối
tương quan chặt chẽ với các chính sách và mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô, việc quản lý vay và trả nợ
nước ngoài phải tính đến các chỉ tiêu cơ bản về nợ nước ngoài
như: khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài( tổng số nợ nước

ngoài/ GDP), chỉ tiêu khả năng vay thêm từng năm, chỉ tiêu khả
năng hoàn trả nợ( tổng nghĩa vụ trả nợ/thu nhập xuất khẩu).
Thứ hai, phải nhanh chóng hoàn chỉnh các chính sách, chế độ về
vay và quản lý vay nợ nước ngoài nói chung và nguồn vốn ODA
nói riêng.
Thứ ba, Rà soát lại các định mức, xoá bỏ các định mức lạc hậu,
xây dựng các định mức đảm bảo tiên tiến, khoa học phù hợp với
thực tiễn và xem xét lại qui trình đấu thầu, xét thầu, giao thầu để
giảm sự khác biệt giữa trong và ngoài nước, tuy nhiên phải phù
hợp với điều kiện của Việt Nam.
Thứ tư, quản lý vay nợ cần xác định rõ trách nhiệm của người vay
và người sử dụng vốn vay, chống ỷ lại vào nhà nước. Đồng thời
phải quản lý chất lượng các khoản vay ODA đặc biệt là khâu xây
dựng dự án. Cụ thể:
- Ban hành các thông tư hướng dẫn thật cụ thể để thực hiện tốt các
nghị định của chính phủ về quản lý vay, trả nợ nước ngoài , hoàn
chỉnh hình thành quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài nhằm tạo nguồn
trả nợ cho chính phủ, đảm bảo trả nợ đúng hạn, không rơi vào
chồng chất không có khả năng thanh toán.
- Ban hành qui chế chung cho vay lại các nguồn vốn vay nước
ngoài, khuyến khích sự tham gia của các ngành, các địa phương,
các cơ sở vào khai thác nguồn vốn ODA nhằm khắc phục tình
trạng lộn xộn hiện nay trong xác định các điều kiện cho vay lại.

2) Giải pháp trong huy động vốn ODA.
Một là, Tăng cường cơ quan chỉ đạo quốc gia chỉ đạo thực hiện
ODA.Như đã phân tích ở trên, việc triển khai ODA ở nước ta còn
chậm và điều này sẽ kéo theo việc huy động ODA sau này gặp
khó khăn phải chăng một phần là do ta chưa có cơ quan chuyên
trách mạnh về lĩnh vực này. Không phải chỉ dành cho một vài cơ

quan hay tổ chức đặc quyền nào tham gia vào các dự án hay
chương trình ODA mà đó phải là quyền lợi và nghĩa vụ của toà
dân, của xã hội. Phải làm sao cho mọi người, mọi vùng trên đất
nước ta đều được hưởng thành quả của sự hỗ trợ về tài chính mà
cộng đồng quốc tế dành cho chúng ta. Nhưng muốn như vậy, phải
có cơ quan chuyên trách mạnh và công khai đủ sức và đủ uy tín
để đề xuất chủ trương, cính sách với Đảng, nhà nước và hướng
dẫn các tổ chức xã hội, các địa phương trong nước xây dựng và
thực hiện các dự án vừa phù hợp với đường lối chiến lược của ta
vừa phù hợp với mục tiêu ODA.
Hai là, Mở rộng các quan hệ phi nhà nước. Viện trợ phát triển
chính thức bao gồm ba phương thức: viện trợ không hoàn lại(
song phương), cho vay với điều kiện ưu đãi( song phương) và các
hiệp định đa phương. Nếu như phần cho vay với điều kiện ưu đãi
thường dành cho các dự án nhà nước về xây dựng cơ sở hạ tầng,
cải thiện môi trường … thì phần viện trợ không hoàn lại thường
dành cho mục tiêu phát triển con người như y tế, cung cấp nước
sạch, cải thiện điều kiện giáo dục ở nhà trường, bảo tồn khai thác
các di sản văn hoá dân tộc… Trong những lĩnh vực này không chỉ
có vai trò của các tổ chức nhà nước mà còn có vai trò của các tổ
chức xã hội, đoàn thể, các địa phương, các tổ chức từ thiện và các
tổ chức phi chính phủ. Vì thế, việc mở rộng quan hệ phi nhà nước
là một điều kiện quan trọng để tìm kiếm được nhiều hơn các
nguồn ODA cũng như các nguồn viện trợ khác.
Ba là, Hướng dẫn lập dự án và triển khai dự án ODA. Để nhận
được tài trợ ODA của các nhà tài trợ thì các địa phương phải xây
dựng được các dự án có tính thuyết phục và có khả năng thực
hiện được dự án một cách hiệu quả nhưng thường các dự án hỗ
trợ loại này thì đối tượng nhận hỗ trợ thường không đủ khả năng
để làm những việc như trên. Do đó, sự hướng dẫn, giúp đỡ của

các cơ quan chuyên trách là hết sức cần thiết và quyết định đến
hiệu quả của chương trình, dự án.
2) Về tổ chức thực hiện dự án.
Thứ nhất, Xác định rõ hơn nữa trách nhiệm của từng cơ quan
quản lý và của người vay vốn ODA trong việc huy động vốn vay
và sử sụng, quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại phải được đồng
bộ, thống nhất qua đầu mối là Bộ tài chính thực hiện cho vay lại
hoặc uỷ quyền cho ngân hàng thương mại cho vay theo quy định.

×