Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Lý luận thực tiễn vào xây dựng nền kinh tế tại Việt Nam - 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.85 KB, 6 trang )

thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ
cho yêu cầu của thực tiến.
b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô
sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó
được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận
là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận,
không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức
đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới
có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là
thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần
tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng
sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một
trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu
thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi
đường lối, chính sách x• hội trở nên lạc hậu và phản động.
*ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với x• hội, đặc biệt là
lý luận x• hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như
không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí
của con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đ• ”cố gạt thực tiễn
ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về
mặt nhận thức luận, đ• ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người


phân biệt được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý
luận nhận thức để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đ• khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối
với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt
động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của
đời sống x• hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế
tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một
vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ
có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới
nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không
tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý
luận vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần
ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi
nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đ• nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý
luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách
mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận
luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh
động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác _ Lênin cho
thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”-
1996)
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận

động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện
chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến
thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức
thực tại khách quan”.
+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá
trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình
thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu
tượng
+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình
nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa
phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải
trở về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải
trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện
thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức,
phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với
thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến
thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho
nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản
chất, quy luật của thế giới khách quan.




Chương II

Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam
I,Vị trí địa lý
-Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam
á, có một vùng biển rộng, giàu tiềm năng.
-Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nước ta có thể dễ dàng
giao lưu với các nước trên thế giới.
+Trên đất liền, nước ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các tuyến
giao thông (đường bộ, đường sắt ) với các cửa khẩu quan trọng, Việt Nam có thể
liên hệ với nhiều nước trên thế giới.
+ Nước ta nằm gần các tuyến đường biển quốc tế. Thông qua đường biển, có thể
quan hệ với nhiều quốc gia.
+Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển.
-Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp phần làm
giàu bản sắc văn hoá.
-Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của thế
giới. Từ đó cho phép nước ta có thể dễ dàng hội nhập với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Ta có thể tiếp thu và chọn lọc những bài học, kinh nghiệm thành
công cũng như thất bại về phát triển kinh tế của các nước và vận dụng vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
II, Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam
1.Tình hình:
- Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước x• hội
chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập
trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất
và dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác x• được tổ
chức rộng r•i ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập
thể, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng
với quốc doanh, hợp tác x• được tổ chức rộng r•i vì ta đ• học tập được mô hình tổ
chức kinh tế của Liên Xô cũ. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự
giúp đỡ tận tình của các nước x• hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập

trung đ• phát huy được những tính ưu việt đó.
- Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ kế
hoạch hóa, ta đ• tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan trọng về
cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc,
tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đ• có những chuyền biến về
kinh tế, x• hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đ• tỏ ra phù hợp
với nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và
chiến đấu trong chiến tranh lúc đó.
- Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng kinh
tế Việt Nam đ• thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình:
+Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
+Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)
+Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục
xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước. Đó
là sự áp đặt rất bất lợi.
2. Hậu quả:
Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đ• không quản lý được hiệu quả các
nguồn lực dẫn tới việc sử dụng l•ng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nước.
- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường bị ô nhiễm.
- Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm trọng cho nền
kinh tế.
+ Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ.
+Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu trong
nước.
+Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng tăng và không
có khả năng cho chi trả.
+Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như không có.
+Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ nước

ngoài.
- Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và x• hội.
- Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó
khăn, nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.
- Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị tiêu
diệt hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của
các thành phần kinh tế này không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung
của nền kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế quốc doanh đ• phát triển ồ ạt, tràn
lan trên mọi lĩnh vực trở thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các ngành công nghiệp,
xây dựng, dịch vụ (trừ ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ
yếu).Thời điểm cao nhất, thànhphần kinh tế quốc doanhđ• cõ gần 13 nghìn doanh
nghiệp với số tài sản cố định chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế.
Thời kỳ này, kinh tế nước ta tuy có đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng
sự tăng trưởng đó không có cơ sở để phát triển vì đ• dựa vào điều kiện bao cấp,
bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài.
- Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung nên
nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp quốc
doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản xuất không
được giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu.
3.Nguyên nhân

×