Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Lý luận XHCN và con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam - 1 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.35 KB, 7 trang )

Lời mở đầu
Năm 1975, giải phóng miền Nam, đất nước việt Nam hoàn toàn độc lập, hai miền Nam Bắc
thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, đó là cả nước xây dựng chủ
nghĩa xã hội (CNXH). Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở nước ta là sự lựa chọn đúng
đắn hay sai lệch? Vì sao không đi theo con đường TBCN mà kiên định đi theo CNXH ?
trong khi đây là giai đoạn phát triển kỳ diệu,là thành tựu của nhân loại.Bên cạnh đó lịch sử
thế giới đã cho thấy nhiều bài học kinh nghiệm về sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô đ• tồn tại hơn
70 năm,ở các nước Đông Âu hơn 40 năm kể từ 1945.Đó là những nước đều đạt những thành
tựu to lớn về khoa học kỹ thuật,về kinh tế xã hội.Trong khi,x• hội Việt Nam là một nước có
nền kinh tế nghèo nàn,lạc hậu ở Đông Nam á.Vốn là một x• hội phong kiến trong hơn 1000
năm,và chịu ách thống trị của thực dân Pháp trong gần 100 năm, cho nên xã hội Vệt Nam
mang tính chất thụôc địa nửa phong kiến. Sau khi dành độc lập, nền kinh tế ở trạng thái kiệt
quệ, bộ máy nhà nước cồng kềnh,kém năng động, sáng tạo, hệ thống vật chất kĩ thuật còn
thô sơ lạc hậu, đời sống người dân nghèo nàn Vậy vì sao đảng ta lại kiên quyết xây dựng
đất nước theo con đường CNXH mà không phải con đường nào khác?
Nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ triết học mà cụ thể là lý luận các hình thái kinh tế xã hội
nhằm khẳng định sự lựa chọn của đảng ta hoàn toàn đúng đắn. Thực tế hơn 15 năm đổi mới ,
những thành tựu về kinh tế ,chính trị , khoa học xã hội đã chứng minh một cách hùng hồn
nhất về sự lựa chọn của nhân dân ta , của đảng ta là đúng đắn và khẳng định sự lựa chọn con
đường xây dựng đất nước theo CNXH là một tất yếu khách quan.
Phần nội dung
Chương I: Lý luận hình thái kinh tế xã hội
1-Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ x• hội
ở từng nấc thang lịch sử nhất định , với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho x• hội đó,
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2- Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
X• hội đ• phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát
triển là một hình thái kinh tế – x• hội nhất định. Các hình thái kinh tế – x• hội vận động và
phát triển do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển.


C Mác viết : “ Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế – x• hội là một quá trình lịch
sử tự nhiên” , tức là muốn nói đến quy luật khách quan của lịch sử, quy luật đó được coi là
sự phát triển của quá trình sản xuất vật chất , xét đến cùng là do mâu thuẫn bên trong giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , do tính tất yếu kinh tế quy định. Các quy luật x• hội
chính là hiện thân của các quy luật tự nhiên được con người sử dụng nó để kiến tạo nên x•
hội loài người.
Tiến trình lịch sử là quá trình phát triển biện chứng vừa bao hàm sự phát triển đứt đoạn và
liên tục. Trong quá trình sản xuất , con người có những quan hệ với nhau, đó chính là quan
hệ sản xuất. Những quan hệ sản xuất đó do trình độ của lực lượng sản xuất quy định. đến
lượt nó quan hệ sản xuất lại quy định các quan hệ x• hội khác như : chính trị, luật pháp, đạo
đức… Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó thì những thay đổi về chất
mâu thuẫn gay gắt với những quan hệ sản xuất có, dẫn đến đòi hỏi khách quan là thay đổi
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới thông qua cuộc cách mạng x• hội. Quan hệ
sản xuất thay đổi thì toàn bộ các quan hệ sản xuất khác cũng thay đổi. Như vậy, phương
thức sản xuất thay đổi, các quan hệ x• hội, chính trị, tinh thần thay đổi dẫn đến sự thay đổi
của hình thái kinh tế – x• hội. Chính vì thế, V.I.Lênin viết:”Chỉ có đem quy những quan hệ
x• hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của
những lực lượng sản xuất thì người ta mới có thể có được những cơ sơ vững chắc để quan
niệm sự phát triển của những hình thái x• hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên.”
Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia ra thành những bậc thang lịch sử khác
nhau, ứng với một trình độ kinh tế, kỹ thuật nhất định trong từng phương thức sản xuất nhất
định. Thực tiễn đ• cho thấy, loài người đ•, đang và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế – x• hội
theo thứ tự từ thấp đến cao. Đó chính là quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện
tính liên tục của lịch sử. Tuy nhiên, đối với mỗi nước cụ thể, do những điều kiện khách quan
và chủ quan riêng thì một nước nào đó, một dân tộc nào đó có thể “ bỏ qua” những chế độ x•
hội nhất định. Sự khác nhau về trật tự phát triển ở phạm vi toàn nhân loại vẫn là quá trình
lịch sử – tự nhiên, còn đối với từng quốc gia, dân tộc cụ thể bỏ qua những “ nấc thang ”nhất
định. V.I.Lênin viết: “ …tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đ•
không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm
hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó”.

Thực tế lịch sử của một số nước đi theo con đường XHCNđ• chứng minh tính đúng đắn,
khoa học của hình thái kinh tế – x• hội và lý luận về khả năng “bỏ qua” một chế độ x• hội
nhất định.
Từ việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế – x• hội chúng ta có thể rút ra một số điểm
có ý nghĩa phương pháp luận sau:
• Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển x• hội, những nguyên
nhân và cơ sở của sự xuất hiện, biến đổi của các hiện tượng x• hội đ• biến đổi x• hội học
thành một khoa học thực sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử. Từ đó có một
cách nhìn đúng đắn, thấy được vai trò thực sự của LLSX, QHSX, mối quan hệ biện chứng
giữa chúng và các mối quan hệ khác trong quá trình phát triển x• hội.
• Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến đang tác động và
chi phối sự vận động của x• hội. Vũ trang cho chúng ta phương pháp khoa học để nghiên
cứu x• hội và chỉ đạo thực tiễn ở tầm vĩ mô và vi mô.
• Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản. là
cơ sở lý luận cho việc triển khai đường lối, chính sách ở tầm quốc gia và mỗi địa phương
nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
• Giúp chúng ta một cái nhìn biện chứng về sự phát triển liên tục của các hình thái kinh
tế – x• hội, của các giá trị văn hoá, khoa học , kĩ thuật và của chính bản thân thế hệ con
người. Từ đó giúp chúng ta không nóng vội chủ quan, không đốt cháy giai đoạn, biết kế thừa
những thành tựu chung của văn minh nhân loại.
• Học thuyết hình thái kinh tế – x• hội đòi hỏi chúng ta phải thấu triệt nguyên lý đó,
vận dụng một cách chủ động sáng tạo và kiến thức tổng quát của nhiều môn khoa học khác
vào công việc hàng ngày của mỗi người, mỗi địa phương phải nhìn nhận các vấn đề trong
dòng chảy liên tục của nó.
Chương II Sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa x• hội ở Việt Nam
I- Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta
Từ hình thái kinh tế – x• hội này chuyển sang hình thái kinh tế – x• hội khác có một giai
đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết cấu và hình thức biểu hiện khác nhau,
đó là “ thời kỳ quá độ”.
Tuỳ theo điều kiện tự nhiên kinh tế x• hội của mình mà các nước các dân tộc sẽ thực hiện sự

quá độ lên CNXH dưới những hình thức, bước đi khác nhau, do trình độ xuất phát khác
nhau. Có thể khái quát thành 3 loại nước tương ứng với 3 kiểu quá độ:
• Những nước TBCN phát triển cao
• Những nứơc đạt trình độ phát triển TBCN ở mức trung bình thấp
• Những nước chưa trải qua giai đoạn TBCN của sự phát triển lịch sử
Nước ta thuộc loại nước thứ ba. Do toàn bộ những điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan quy định, nước ta đi theo con đường x• hội chủ nghĩa là một tất yếu của lịch sử. Để
“nhận dạng”con đường đi lên của nước ta, trước hết cần phân tích đầy đủ và chính xác điểm
xuất phát từ đó nước ta quá độ lên CNXH. Để xác định con đường đi lên của mình, cụ thể
trong điều kiện hiện nay chính là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thì điều cần thiết là phải xuất phát từ thực trạng kinh tế x• hội của đất nước, xuất phát
từ đặc điểm LLSX và QHSX ở nước ta để lựa chọn đúng hình thức kinh tế cho hiệu quả, xác
định rõ những bước đi cụ thể theo mục tiêu đ• chọn. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hoá và
Nghị quyết Trung ương 6(lần1) khoá VIII về kinh tế gần đây đ• khẳng định cần phải đẩy
mạnh việc phát huy nội lực kinh tế, tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị
trường tiêu thụ, mạnh dạn hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Đó chính là những
nghị quyết sát thực với cuộc sống, đ• khuyến khích QHSX phát triển trên cơ sở phù hợp với
trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay.
II- Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta
Định hướng XHCN ở nước ta: Đúng hay chệch?
Trước đây, sau mấy năm khôi phục kinh tế và thực hiện cải tạo XHCN, công cuộc xây dựng
CNXH trên đất nước ta có thể nói xuất phát từ khái niệm đơn giản, duy ý chí về CNXH.
Chúng ta tưởng rằng có thể thực hiện được ngay mọi đặc trưng của CNXH sau khi tiến hành
quốc hữu hoá, công hữu hoá những tư liệu sản xuất cơ bản mà không cần biết nền sản xuất
x• hội hoá ấy thực hiện như thế nào.
Dần dần từ thực tiễn khủng hoảng và trì trệ về kinh tế chúng ta mới hay rằng: không thể thực
hiện được ngay mọi đặc trưng của CNXH trên cơ sở một nền sản xuất x• hội hoá theo kiểu
hình thức, một nền sản xuất gọi là”x• hội hoá”nhưng trình độ của LLSX còn rất thấp, còn xa
mới đạt tới x• hội hoá được coi như một tất yếu kinh tế. Mức độ thực hiện những đặc trưng
của CNXH không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan mà phải căn cứ vào trình độ thực tế của

LLSX và năng suất lao động trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Nghĩa là: chỉ có thể thực hiện
từng bước những đặc trưng của CNXH.
Với ý nghĩa trên, định hướng XHCN chính là sự quay trở về với luận điểm sau của Lênin:”
… danh từ nước cộng hoà xô viết XHCN có nghĩa là chính quyền xô viết quyết tâm thực
hiện bước chuyển lên CNXH, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đ• thừa nhận chế độ kinh tế
mới là chế độ XHCN”. Bởi vậy, quá trình định hướng XHCN trên đất nước ta là quá trình
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH – cốt lõi của quá trình x• hội hoá sản xuất trong
thực tế. Để có được nền móng của CNXH, chúng ta chỉ có thể rút ngắn cái phải trải qua theo
quy luật lịch sử tự nhiên, chứ không thể bỏ qua cái phải trải qua. Cái phải trải qua ấy là gì?
Là phát triển mạnh LLSX , là x• hội hoá sản xuất trong thực tế thông qua các quá trình
chuyển hoá từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, từ mô hình nông thôn
sang mô hình đô thị, từ tổ chức cộng đồng xóm sang cộng đồng dân tộc, quốc tế…Cũng vì
vậy, quá trình định hướng XHCN ở nước ta tất yếu phải là một quá trình đan xen giữa nhiệm
vụ trực tiếp và gián tiếp xây dựng CNXH, là quá trình còn nhiều mâu thuẫn, nghịch lý, bất
công mà tạm thời phải chấp nhận, và cuộc vận động của lịch sử CNXH trên thực tế sẽ xoá
bỏ dần những mâu thuẫn, nghịch lý, bất công ấy. Sự định hướng XHCN còn chứa đựng một
vấn đề cơ bản không thể né tránh. Đó là thời kỳ “ai thắng ai”. Cho nên, không chỉ có khả
năng đi đúng hướng mà còn có khả năng đi chệch hướng. Chệch hướng là một nguy cơ có
thật. Quá trình đi theo con đường XHCN quyết không phải là sự chuyển động phẳng lặng
theo một chiều mong muốn, đặc biệt cơ chế thị trường được coi là phương tiện khách quan
để xây dựng CNXH. Nó là phương tiện để phát triển kinh tế, nhưng sự phát triển ấy lại tiềm
ẩn nguy cơ CNXH bị huỷ hoại.

×