Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Đề tài: " Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL " ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 87 trang )








Luận văn
Đề tài: " Phân tích và mô
phỏng hệ thống ADSL "
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 1 -
CHƯƠNG I

MẠNG TRUY NHẬP

1.1 Tổng quan:
Điện thoại được nhà khoa học người Mỹ Alexander Graham Bell phát minh từ
năm 1876. Tuy nhiên, phải khoảng từ năm 1890 mạng điện thoại mới bắt đầu được
triển khai tương đối rộng rãi. Cùng với sự xuất hiện của mạng thoại công cộng PSTN
là sự đột phá của các phương tiện thông tin liên lạc thời bấy giờ. Như vậy, có thể coi
mạng truy nhập ra đời vào khoảng năm 1890. Trong suốt nhiều thập kỷ đầu thế kỷ 20
mạng truy nhập không có sự thay đổi đáng kể nào, mặc dù mạng chuyển mạch đã thực
hiện bước tiến dài từ tổng đài nhân công đến các tổng đài cơ điện và tổng đài điện tử.
Mạng truy nhập thuê bao truyền thống được mô tả trên hình I.1






Hình I.1: Cấu trúc mạng truy nhập thuê bao truyền thống
Mạng truy nhập nằm giữa tổng đài nội hạt và thiết bị đầu cuối của khách hàng, thực
hiện chức năng truyền dẫn tín hiệu. Tất cả các dịch vụ khách hàng có thể sử dụng được
xác định bởi tổng đài nội hạt (chính là nút dịch vụ).
Mạng truy nhập có vai trò hết sức quan trọng trong mạng viễn thông và là phần tử
quyết định trong mạng thế hệ sau. Mạng truy nhập là phần lớn nhất của bất kỳ mạng
viễn thông nào, thường trải dài trên vùng địa lý rộng lớn. Theo đánh giá của nhiều
chuyên gia, chi phí xây dựng mạng truy nhập chiếm ít nhất là một nửa chi phí xây
dựng toàn bộ mạng viễn thông. Mạng truy nhập trực tiếp kết nối hàng nghìn, thậm chí
hàng chục, hàng trăm nghìn thuê bao với mạng chuyển mạch. Đó là con đường duy
nhất để cung cấp các dịch vụ tích hợp như thoại và dữ liệu. Chất lượng và hiệu năng
của mạng truy nhập ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cung cấp dịch vụ của toàn bộ
mạng viễn thông.
1.1.1 Các vấn đề của mạng truy nhập truyền thống:
Sau nhiều thập kỷ gần như không có sự thay đổi đáng kể nào trong cấu trúc cũng
như công nghệ, mạng truy nhập thuê bao đang chuyển mình mạnh mẽ trong nhiều năm
gần đây. Với sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ và dịch vụ viễn thông,
Mạng truy nhập
Phân phối
Thuê bao
Tủ/ hộp
cáp
Tổng đài
nội hạt
Giá đấu
dây chính
backbone Lối vào
Mạng truy nhập
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL



- 2 -
những tồn tại trong mạng truy nhập truyền thống ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Các
vấn đề này có thể tạm phân loại như sau:
Thứ nhất, với sự phát triển của các mạch tích hợp và công nghệ máy tính, chỉ một
tổng đài duy nhất cũng có khả năng cung cấp dịch vụ cho thuê bao trong một vùng rất
rộng lớn. Thế nhưng “vùng phủ sóng”, hay bán kính hoạt động của mạng truy nhập
truyền thống tương đối hạn chế, thường dưới 5 km. Điều này hoàn toàn không phù hợp
với chiến lược phát triển mạng là giảm số lượng, đồng thời tăng dung lượng và mở
rộng vùng hoạt động của tổng đài.
Thứ hai, mạng truy nhập thuê bao truyền thống sử dụng chủ yếu là tín hiệu tương
tự với giải tần hẹp. Đây là điều cản trở việc số hoá, mở rộng băng thông và tích hợp
dịch vụ.
Thứ ba, theo phương phức truy nhập truyền thống, mỗi thuê bao cần có một lượng
khá lớn cáp đồng kết nối với tổng đài. Tính trung bình mỗi thuê bao có khoảng 3 km
cáp đồng. Hơn nữa bao giờ cáp gốc cũng được lắp đặt nhiều hơn nhu cầu thực tế để dự
phòng. Như vậy tính ra mỗi thuê bao có ít nhất một đôi cáp cho riêng mình nhưng hiệu
suất sử dụng lại rất thấp, do lưu lượng phát sinh của phần lớn thuê bao tương đối thấp.
Vì vậy mạng truy nhập thuê bao truyền thống có chi phí đầu tư cao, phức tạp trong duy
trì bảo dưỡng và kém hiệu quả trong sử dụng.
1.1.2 Mạng truy nhập hiện đại dưới quan điểm của ITU-T:
1.1.2.1 Định nghĩa:
Theo các khuyến nghị của ITU-T(Liên minh viễn thông quốc tế phát triển các tiêu
chuẩn quốc tế), mạng truy nhập hiện đại được định nghĩa như trên hình I.2. Theo đó
mạng truy nhập là một chuỗi các thực thể truyền dẫn giữa SNI (Service Node Interface
– Giao diện nút dịch vụ) và UNI (User Network Interface – Giao diện người sử dụng -
mạng). Mạng truy nhập chịu trách nhiệm truyền tải các dịch vụ viễn thông. Giao diện
điều khiển và quản lý mạng là Q.







Hình I.2:Kết nối mạng truy nhập với các thực thể mạng khác

PSTN
ISDN
DDN

POTS
ISDN
V.24
V.35
Leased
Mạng
truy
nhập
Q
UNI – Giao
diện người
sử dụng -
mạng
SNI – Giao
diện nút
dịch vụ
Thuê bao
Thực thể mạng
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL



- 3 -
Thiết bị đầu cuối của khách hàng được kết nối với mạng truy nhập qua UNI, còn
mạng truy nhập kết nối với nút dịch vụ (SN – Service Node) thông qua SNI. Về
nguyên tắc không có giới hạn nào về loại và dung lượng của UNI hay SNI. Mạng truy
nhập và nút dịch vụ đều được kết nối với hệ thống TMN (telecom management
network) qua giao diện Q.
Để giải quyết các vấn đề tồn tại trong mạng truy nhập truyền thống, một trong
những giải pháp hợp lý là đưa thiết bị ghép kênh và truyền dẫn vào mạng truy nhập.

1.1.2.2 Mạng truy nhập ngày nay:
Sự thay đổi của cơ cấu dịch vụ là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến sự phát triển của
mạng truy nhập. Khách hàng yêu cầu không chỉ là các dịch vụ thoại/ fax truyền thống,
mà cả các dịch vụ số tích hợp, thậm chí cả truyền hình kỹ thuật số độ phân giải cao.
Mạng truy nhập truyền thống rõ ràng chưa sẵn sàng để đáp ứng các nhu cầu dịch vụ
này.
Từ những năm 90 mạng truy nhập đã trở thành tâm điểm chú ý của mọi người. Thị
trường mạng truy nhập đã thực sự mở cửa. Cùng với những chính sách tự do hoá thị
trường viễn thông của phần lớn các quốc gia trên thế giới, cuộc cạnh tranh trong mạng
truy nhập ngày càng gay gắt. Các công nghệ và thiết bị truy nhập liên tiếp ra đời với
tốc độ chóng mặt, thậm chí nhiều dòng sản phẩm chưa kịp thương mại hoá đã trở nên
lỗi thời.
Nhìn từ khía cạnh môi trường truyền dẫn, mạng truy nhập có thể chia thành hai
loại lớn, có dây và không dây (vô tuyến). Mạng có dây có thể là mạng cáp đồng, mạng
cáp quang, mạng cáp đồng trục hay mạng lai ghép. Mạng không dây bao gồm mạng vô
tuyến cố định và mạng di động. Dĩ nhiên không thể tồn tại một công nghệ nào đáp ứng
được tất cả mọi yêu cầu của mọi ứng dụng trong tất cả các trường hợp. Điều đó có
nghĩa rằng mạng truy nhập hiện đại sẽ là một thực thể mạng phức tạp, có sự phối hợp
hoạt động của nhiều công nghệ truy nhập khác nhau, phục vụ nhiều loại khách hàng

khác nhau trong khu vực rộng lớn và không đồng nhất.
Mạng truy nhập quang (Optical access network - OAN) là mạng truy nhập sử dụng
phương thức truyền dẫn quang. Nói chung thuật ngữ này chỉ các mạng trong đó liên
lạc quang được sử dụng giữa thuê bao và tổng đài. Các thành phần chủ chốt của mạng
truy nhập quang là kết cuối đường dẫn quang (optical line terminal - OLT) và khối
mạng quang (optical network unit - ONU). Chức năng chính của chúng là thực hiện
chuyển đổi các giao thức báo hiệu giữa SNI và UNI trong toàn bộ mạng truy nhập.
Người ta phân biệt ba loại hình truy nhập quang chính: Fiber to the curb (FTTC), Fiber
to the building (FTTB), Fiber to the home (FTTH) và fiber to the office (FTTO).
Cho tới nay trên thế giới có một khối lượng rất lớn cáp đồng đã được triển khai.
Theo một số nghiên cứu về mạng truy nhập, hiện nay cáp đồng vẫn là môi trường
truyền dẫn chính trong mạng truy nhập, chiếm tới khoảng 94%. Việc tận dụng cơ sở hạ
tầng rất lớn này là rất cần thiết và có lợi. Các công nghệ đường dây thuê bao kỹ thuật
số (DSL) chính là giải pháp cho vấn đề này.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 4 -
Ngoài các công nghệ truy nhập có dây, các phương thức truy nhập vô tuyến cũng
phát triển rất mạnh. Các mạng di động GSM, CDMA đã có tới hàng trăm triệu thuê
bao trên khắp thế giới. Các phương thức truy nhập vô tuyến cố định cũng ngày càng
trở nên thông dụng hơn, do những lợi thế của nó khi triển khai ở các khu vực có địa
hình hiểm trở hay có cơ sở hạ tầng viễn thông kém phát triển. Ở các đô thị lớn dịch vụ
vô tuyến cố định cũng phát triển, đặc biệt khi nhà khai thác cần tiếp cận thị trường một
cách nhanh nhất.
1.2 Các phương thức truy nhập mạng dữ liệu (Internet) hiện nay:
Lưu lượng dữ liệu, đặc biệt là lưu lượng IP đang tăng trưởng một cách chóng mặt.
Trong khi đó lưu lượng thoại có mức độ tăng trưởng khá khiêm tốn, từ 10-25% ở các
nước đang phát triển và gần như không tăng trưởng ở các nước tiến tiến. Chính vì vậy,
mạng truy nhập ngày nay phải được thiết kế xây dựng để đáp ứng tốt nhất nhu cầu các

dịch vụ dữ liệu của khách hàng. ISDN có thể nói là một nỗ lực rất lớn của toàn nghành
công nghiệp viễn thông, từ các nhà cung cấp thiết bị đến các nhà khai thác trên toàn
thế giới với mục tiêu tích hợp dịch vụ thoại và số liệu.
Phổ biến nhất hiện nay vẫn là modem tương tự, truy nhập mạng dữ liệu bằng dial-
up. Ngoài ra còn có các công nghệ khác, như kênh thuê riêng, luồng E1/T1, modem
cáp, MMDS, LMDS và các công nghệ sử dụng vệ tinh như DirectPC
1.2.1 ISDN và B-ISDN:
Tương lai của ISDN đã được dự báo từ bảy năm trước. Thị trường thiết bị ISDN
không năng động do giá thành thiết bị quá cao, trong khi đó số lượng bán ra rất hạn
chế.
ISDN (Integrated Service Digital Network) là mạng (số) đa dịch vụ. ISDN lần đầu
tiên được CCITT đề cập đến trong một khuyến nghị của mình vào năm 1977. Năm
1985 AT&T thử nghiệm ISDN lần đầu tiên tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ISDN phát triển
chậm ở Hoa Kỳ do sự không thống nhất trong cách triển khai theo CCITT của AT&T
và Nortel. ISDN phá sản ngốn của 20 quốc gia khoảng 50 tỷ đô-la Mỹ. Nguyên lý của
ISDN là cung cấp các dịch vụ thoại và số liệu chung trên một đường dây thuê bao kỹ
thuật số. Dùng ISDN ở tốc độ giao tiếp cơ sở ( BRI: Basic Rate Interface) cho phép
truyền dữ liệu và thoại trên 2 kênh B ( Binary channel) 64 kbps và 1 kênh D ( Digital
channel) 16 kbps. Mỗi đường dây ISDN ở BRI có thể bố trí tối đa 8 thiết bị đầu cuối
và cùng một lúc có thể thực hiện được nhiều cuộc gọi khác nhau.Dùng ISDN cho phép
khách hàng sử dụng các dịch vụ mới như dịch vụ khẩn cấp ( báo trộm, báo cháy, ),
dịch vụ ghi số điện -nước –gas, dịch vụ quay số trực tiếp vào tổng đài nội bộ, dịch vụ
địa chỉ phụ Các thiết bị cũ cuả mạng điện thoại PSTN (mạng chuyển mạch thoại
công cộng ) vẫn dùng được với ISDN qua một bộ thích ứng đầu cuối TA (Terminal
Adaptor). Giao tiếp tốc độ sở cấp (PRI: Primary rate interface) tương đương với các
đường truyền T1 và E1 với một kênh D là 64 kbps còn các kênh B còn lại cũng có tốc
độ 64 kbps. Ngoài ra người ta còn định nghĩa các kênh H trên PRI với H0 là 6B, H10
là 23B, H11 là 24B và H12 là 30B.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL



- 5 -
Vấn đề lớn nhất của ISDN là sau hơn 20 năm phát triển là nó đáp ứng được hay
không kịp nhu cầu của khách hàng. Tại châu Âu ISDN đã phát triển rộng rãi và các
văn phòng chi nhánh, những người làm việc xa công ty (telecommuter) đã sử dụng
ISDN hiệu quả trong nhiều năm. Dù sao ISDN vẫn không phải là dịch vụ tự động 128
kbps mà nó chỉ là hai kênh 64 kbps. Nếu muốn sử dụng đầy đủ dung lượng 128 kbps
của đường dây ISDN thì phải mua thêm phải mua thêm một bộ thích ứng đầu cuối để
nhập 2 kênh 64 kbps lại.
ISDN không phải là công nghệ có thể ứng dụng riêng cho thuê bao mà toàn bộ
tổng đài phải được lắp đặt thiết bị ISDN. Yêu cầu đầu tiên là tổng đài phải sử dụng kỹ
thuật chuyển mạch số. Nếu tổng đài sử dụng kỹ thuật tương tự sẽ không có ISDN. Như
đã nói có 3 phần tư tổng đài ở Mỹ là tổng đài số và dĩ nhiên là sẵn sàng cho ISDN. Các
tổng đài tương tự cũ hơn đang đuợc chuyển đổi sang kỹ thuật số khi nó giảm giá
nhưng đối với giá thành một vài triệu đô-la cho một tổng đài kỹ thuật số như hiện nay
thì việc chuyển đổi bị ràng buộc bởi nguồn tài chính đầu tư của các công ty khai thác
điện thoại. Ngay cả khi đã có tổng đài kỹ thuật số thì các phần cứng và phần mềm
thêm vào để nâng cấp lên ISDN rất đắt tiền. Điều này thực là một một sự đánh cược
của các công ty điện thoại trên sự chấp nhận của các thuê bao để điều chỉnh đầu tư.
Hình I.3: Cấu hình giao tiếp ISDN BRI.
ISDN cũng phải trải qua bài toán con gà và quả trứng. Để khắc phục giá thành
chuyển đổi ISDN để đối mặt với sự chấp nhận không mấy ấn tượng của khách hàng
NT-T
TE2
TE1 TE1
TA
Switch
ET
funct


Switch
LT
funct

Thiết bị ở chuyển mạch
của công ty điện thoại
Switch
Được sử dụng để kết nối
các thiết bị TE2 với
đường dây ISDN
Thiết bị PSTN tiêu chuẩn có
một giao tiếp R
Thiết bị ISDN không thể
kết nối trực tiếp với
đường dây ISDN
Thiết bị ISDN có thể
kết nối trực tiếp vào
đường dây ISDN
V
U S/T
R
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 6 -
ISDN đã trở nên rất đắt tiền. Và dĩ nhiên một dịch vụ đắt tiền không thể dễ dàng phổ
biến trên diện rộng. Cho tới năm 1997, chỉ có khoảng hơn một triệu đường dây thuê
bao tại Hoa Kỳ. Vì ít được sử dụng nên thiết bị ISDN như bộ thích ứng đầu cuối để kết
nối máy tính cá nhân với mạng trở nên rất đắt tiền. Kết quả là ISDN cần một sự đầu tư
tài chính lớn làm cho hầu hết các người sử dụng đều thờ ơ. Trong trường hợp ISDN

dành cho các người làm việc xa công ty hay từ các chi nhánh thì chi phí có thể chấp
nhận được nhưng với các văn phòng gia đình hay các văn phòng nhỏ (SOHO: Small
Office Home Office) thì ISDN quá đắt.
Càng ngày ISDN càng trở nên không có lối thoát. Trong thời đại mà modem tương
tự chỉ đạt tới tốc độ 1200 bit/s thì tốc độ dữ liệu 64 kbps cho mỗi kênh ISDN quả thật
rất ấn tượng. Ngày nay, khi mà tốc độ dữ liệu của modem tương tự lên đến 56 kbps với
giá thành không quá 10 USD thì giá thành thiết bị ISDN lên đến hàng ngàn USD trở
nên không đáng để đầu tư. Một sự kiện nữa đang ngày càng cho ISDN ra rìa là
Internet. ISDN là dịch vụ có chuyển mạch cho phép thực hiện các kết nối 64 kbps qua
quay số như gọi điện thoại. Trong những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ trước, lúc
đang phát triển ISDN tất cả các cuộc gọi số liệu đều chỉ cho mục đích chuyển dữ liệu
giữa các máy tính qua việc kết nối bằng cách quay số gọi nhau. Trong khi đó khi đó
hiện nay với một kết nối Internet có thể chuyển dữ liệu cho bất cứ máy tính nào khác
chỉ bằng cách đơn giản là gởi E-mail. Điều này được thực hiện mà không cần mạng
chuyển mạch. Internet thực hiện e-mail bằng định tuyến. Mặt khác ISDN là một dịch
vụ có giá phụ thuộc vào đường dài trong khi modem dial-up chỉ quay số đến một ISP
nội hạt và tốn cước phí thuê bao Internet.
Vấn đề cuối cùng của ISDN trong thời kỳ suy thoái là ISDN góp phần tăng thêm
gánh nặng vào sự quá tải của mạng PSTN. Khi ISDN mới xuất hiện thì chưa có công
nghệ Web và các nhà thiết kế nghĩ là người sử dụng chỉ đơn thuần gọi một máy tính,
chuyển dữ liệu rồi gác máy, chẳng có gì khác so với một cuộc gọi điện thoại thông
thường. Tuy nhiên, Web và Internet đã thay đổi cơ bản việc truyền số liệu. Sử dụng
Web không chỉ đơn thuần là chuyển file mà còn khám phá , tận hưởng theo thời gian
thực chuỗi thông tin bất tận về dữ liệu, giải trí. Những cuộc gọi Internet không còn là
các cuộc gọi với thời lượng vài phút mà đã trở thành các cuộc gọi kéo dài nhiều tiếng
đồng hồ. Thời lượng sử dụng Internet trung bình hàng tuần đã hơn 6 giờ mỗi tuần
trong khi hầu hết các gia đình đều không nói chuyện điện thoại quá 6 giờ mỗi tháng.
PSTN được thiết kế để đáp ứng vài cuộc gọi tương đối ngắn của các thuê bao. Một
lưu lượng người sử dụng không bình thường và những cuộc gọi chiếm giữ đường dây
dài sẽ gây ra tắc nghẽn thường xuyên ở một số khu vực trên mạng và thuê bao sẽ nhận

được tín hiệu báo bận khi mạng quá tải, một hiện tượng ở Hoa Kỳ rất thường gặp trong
ngày các bà mẹ (Mother’s day). Càng về sau, khi ngày càng nhiều nhà cung cấp dịch
vụ đưa ra cước phí truy xuất bao tháng làm cho các cuộc gọi thay vì kéo dài vài phút
lại kéo dài nhiều tiếng đồng hộ thì mọi ngày đều trở thành ngày của các bà mẹ.
Về viễn cảnh mạng thì một cuộc gọi ISDN không khác gì mấy cuộc gọi modem
qua điện thoại thông thường. Cả hai đều chiếm dụng khả năng chuyển mạch số, truyền
dẫn số 64 kbps ở cả phía nội đài lẫn liên đài. Chuyển đổi khách hàng sang sử dụng
ISDN có thể cải thiện một ít về tốc độ truy xuất nhưng không đủ để rút ngắn đáng kể
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 7 -
thời gian kết nối khi người sử dụng chỉ cần thông tin nào đó rồi log off. Còn đối với
người sử dụng dùng tất cả thờì gian kết nối cho mục đích giải trí thì ISDN không có
tác dụng gì ngoài việc truy xuất thông tin hơn một phút.
Các công ty khai thác điện thoại đang dần nhận ra rằng giải pháp lâu dài duy nhất
cho tình trạng quá tải mạng là chuyển lưu lượng Internet ra khỏi mạng PSTN càng
nhiều càng tốt. Cố găng tăng cường mạng hiện hữu để đáp ứng số lượng bùng nổ các
cuộc gọi chiếm giữ thời gian lớn giống như là xây dựng thêm nhiều xa lộ để giải toả
tắc nghẽn giao thông. Chi phí sẽ thật khủng khiếp và sẽ chẳng bao giờ đạt được hiệu
quả kinh tế.
Các nhà cung cấp dịch vụ có thể có được giải pháp nào hiệu quả để giải quyết tắc
nghẽn không? Thực tế có một khả năng thành công lớn khi tách rời truy xuất Internet
khỏi PSTN nhà cung cấp dịch vụ sẽ gỡ bỏ được cổ chai kềm giữ tốc độ truy xuất ở 64
kbps. Với cấu hình mạng mới nhà cung cấp dịch vụ có thể thiết kế thích nghi với tốc
độ thông tin dữ liệu hiện đại và người sử dụng sẽ không ngần ngại từ bỏ modem cũng
như các thiết bị thích ứng đầu cuối để chạy theo mạng truy xuất mới.
1.2.2 Modem tương tự:
Trong những năm đầu của kỷ nguyên máy tính, cách đây chừng hơn 30 năm về
trước, kết nối mạng hoạt động ở tốc độ khoảng 300 đến 600 bit/s đã là khá đủ. Khoảng

10 năm trước thì modem 9.6 Kbps được xem là công cụ liên lạc tốc độ khá cao.
Modem 9.6 Kbps thực tế đã đáp ứng nhiều ứng dụng liên quan đến đồ họa và video,
tuy chưa thực tốt lắm. Ví dụ, một người sử dụng vào mạng để tải về một bản đồ thời
tiết với tốc độ truyền dữ liệu 9.6 Kbps phải mất 40 giây để tải về bản đồ trắng đen chất
lượng kém. Với bản đồ màu độ phân giải cao thì phải chờ đến vài phút. Ngày nay thì
cả modem 28.8 Kbps hay 33.6 kbps cũng không đáp ứng được về tốc độ của nhiều ứng
dụng. Thời gian download một hình ảnh JPEG trung bình là 120 giây. Nền kỹ thuật
máy tính thay đổi rất nhanh, các kênh thông tin, máy tính đang biến đổi để đáp ứng
yêu cầu đạt được dung lượng cao ngày càng tăng. Khi các dịch vụ hình ảnh màu, thoại
và video càng hấp dẫn khách hàng thì hạ tầng thông tin hàng megabit càng trở nên
thiết yếu. Liệu người ta có thể trông chờ ở modem tương tự những bước tiến ở các tốc
độ cao hơn cỡ tốc độ đường truyền T1 (1544 kbps) hay E1 (2048 kbps) không ? Thật
không may, câu trả lời là không. Tốc độ 33.6 kbps của modem tương tự đã chạm trần
tốc độ dữ liệu của modem truyền trên kênh thoại Tất cả các modem tương tự đều phải
truyền dữ liệu trong kênh 300-4000 Hz dành cho âm thoại trong mạng điện thoại. Tốc
độ 33,6 kbps cần dải thông lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, các modem hiện đại thay vì gửi
dòng bit chưa qua xử lý lại gởi đi các ký hiệu (symbol), mỗi ký hiệu đại diện cho một
số bit liên tiếp của dòng bit.
Mọi khách hàng sử dụng modem đều rất quan tâm đến tốc độ và độ tin cậy của
modem. Các nhà cung cấp đều cố gắng tiến gần tới giới hạn của Shannon. Cho tới tiêu
chuẩn V.32 thì mọi modem đều còn cách xa giới hạn dung lượng này khi mức S/N từ 9
tới 10 dB. Nếu giải thông từ 2400 Hz lên đến 2800 Hz và tỷ số S/N từ 24 dB đến 30
dB thì dung lượng kênh khoảng 24000 bit/s. Để lấp đầy khoảng cách còn lại cần phải
ứng dụng kỹ thuật sửa sai.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 8 -
Vào những năm 1950 các modem FSK (Frequency Shift Keying) có tốc độ từ 300
bit/s tới 600 bit/s. Tiêu chuẩn quốc tế của modem bắt đầu từ thập kỷ 60 thế kỷ trước.

Năm 1964 tiêu chuẩn modem đầu tiên cảu CCITT là V.21 xác định đặc tính của
modem FSK tốc độ 200 bit/s và bây giờ là 300 bit/s. Kỹ thuật điều chế đã thay đổi
sang QAM 4 trạng thái vào năm 1968 và 16 trạng thái vào năm 1984 bởi V.22bis. Vào
lúc đó, một tiêu chuẩn modem ứng dụng tiến bộ công nghệ mới là V.32 thêm phần đặc
tính triệt tiếng dội (echo cancellation) và mã hoá trellis. Mã trellis được tiến sỹ
Gottfred Ungerboeck đề cập lần đầu tiên và ứng dụng vào modem và thực hiện lấp
được một phần ba khoảng cách còn lại so với giới hạn Shannon. V.32bis được xây
dựng trên cơ sở đó và đạt được tốc độ dữ liệu lên đến 14400 bit/s. Sau đó tốc độ dữ
liệu của các modem đã có những tiến bộ nhanh chóng từ 19200 bit/s lên đến 24000
bit/s rối 28800 bit/s. Modem mới hơn là V.34 ra đời năm 1996 đã đạt tới tốc độ dữ liệu
33600 bit/s và thực hiện 10 bit trên mỗi tín hiệu.
Modem
PSTN
Telephone
exchange
(Central office)

Local loop
Digital data
Telephone
exchange
(Central office)
Modem

Local loop
Digital data

Analogue encoding
analogue
encoding

analogue
encoding

Hình I.4 Modem tương tự qua mạng điện thoại tương tự.

Modem
PSTN
Exchange

Local loop
D igita l data
Exchange
Modem

Local loop

D igital data
Digital encoding
analogue
encoding
analogue
encoding
A/D
D/A
A/D
D/A


Hình I.5 Modem tương tự qua mạng điện thoại IDN
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL



- 9 -
Vào những năm cuối thế kỷ trước đã xảy ra tình hình không thống nhất của các
tiêu chuẩn modem 56 kbps do hai hãng sản xuất danh tiếng là U.S.Robotics (bây giờ là
một bộ phận của hãng 3COM) sử dụng chipset X2 cũa hãng Texas Instrument và
Rockwell có tiêu chuẩn K56flex. Dĩ nhiên là hai tiêu chuẩn này không tương thích với
nhau và ngành công nghiệp sản xuất modem nhanh chóng bị phân cực theo một trong
hai tiêu chuẩn trên. Lúc này người sử dụng tại Hoa Kỳ chờ đợi tiêu chuẩn nào sẽ được
ISP của mình chấp nhận rồi mới mua modem theo tiêu chuẩn đó. Nhiều ISP đã chờ đợi
tiêu chuẩn nào sẽ chiến thắng và tiêu chuẩn nào sẽ về vườn. Trong thời gian này một
số ISP mở ra 2 số điện thoại , mỗi số điện thoại cho một tiêu chuẩn và điều này đã làm
cho người sử dụng thấy yên tâm mà mua sắm modem 56 kbps.
Pcm digital
V.pcm client-
side modem
PSTN
Exchange
Local loop
Digital data
Exchange
Digital
circuit
Digital data
PCM digital encoding
analogue
encoding encoding
A/D
D/A
Client compute

(Internet user)
Server computer
(ISP)
Internet
connection
Internet
V.p cm server-
side modem

Hình I.6 Modem V.pcm
Tháng 9 năm 1998 ITU-T đã ra tiêu chuẩn V.90 để thống nhất trên toàn thế giới về
modem 56 kbps. Phần cứng của các loại modem trên không khác nhau mấy nên người
sử dụng 2 loại modem cũ có thể chỉ cần mua một con chíp nâng cao cho V.90 để tiết
kiệm chi phí còn các modem sản xuất sau đó đều được chú thích là “Ready for V.90”.
Trong nhiều trường hợp việc bỏ qua một lần biến đổi là không đơn giản. Khi truy
xuất thông tin từ một nhà cung cấp dịch vụ Internet nội hạt thì cơ hội rất cao nếu ISP
kết nối với tổng đài nội hạt bằng các đường truyền số. Tuy nhiên khi khoảng cách thì
khả năng tín hiệu bị chuyển sang tương tự rồi chuyển trở lại số càng lớn. Khoảng 25 %
số tổng đài tại Hoa kỳ là tổng đài chuyển mạch tương tự nên cuộc gọi càng qua nhiều
tổng đài thì khả năng gặp phải tổng đài tương tự càng lớn. Những người làm việc các
văn phòng chi nhánh xa công ty hay những người làm việc tại nhà riêng nhiều khi than
phiền kết nối modem của họ với mạng công ty chỉ đạt được tốc độ tối đa 28,8 kbps.
Ngay cả khi mọi việc đều tốt đẹp thì tốc độ 56 kbps vẫn là quá khiêm tốn dù đó là tiến
bộ công nghệ cuối cùng của modem tương tự. Chúng ta đã số hoá toàn bộ mạng viễn
thông chỉ trừ ra đường truyền dẫn thuê bao nội hạt là phải chuyển tín hiệu thành tương
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 10 -
tự để phân phối đến khách hàng nên kênh truyền không thể dung nạp thêm nhiều bit

hơn nữa. Nếu muốn tốc độ truyền dữ liệu cao hơn thì phải nghĩ đến các phương pháp
khách hơn là sử dụng mạng điện thoại truyền thống.
1.3 Công nghệ truy nhập xDSL ( x Digital Subscriber Line ):
Công nghệ đường dây thuê bao số (xDSL ) là phương thức truyền thông tin số với
tốc độ hàng triệu bit trên dây qua đường điện thoại truyền thống và sẽ là nền tảng cho
việc phân bố dịch vụ băng rộng này đến các thuê bao. Sở dĩ điều này thực hiện được là
nhớ ứng dụng các kỹ thuật truyền số phức tạp, đó là sự bù trừ các suy giảm truyền dẫn
trên đường dây điện thoại và các bộ xử lý số có năng lực rất lớn.
Khi năng lực xử lý của bộ xử lý tín hiệu số tăng lên, thì tốc độ của DSL cũng tăng
lên. Công nghệ DSL bắt đầu từ 144 kbit/s ISDN cơ bản (BRI), đã phát triển tới 1,5 đến
2 Mbit/s HDSL, 7 Mbit/s với ADSL, và bây giờ là 52 Mbit/s VDSL. Trong phạm vi đề
tài này thì chúng tôi xin chỉ đề cập đến công nghệ ADSL.
1.3.1 Phạm vi thiết kế của DSL:
Các DSL được thiết kế ở giới hạn 6 dB tỷ số tín hiệu trên tạp âm SNR. Điều này
có nghĩa là DSL có các lỗi bit BER là 10
-7
khi năng lượng tín hiệu nhiễu là 6 dB tức
lớn hơn mô hình xuyên âm được định nghĩa là "tồi nhất". Trong nhiều trường hợp, mô
hình xuyên âm tồi nhất là trong nhóm 50 đôi dây có 49 nguồn nhiễu xuyên âm. Nếu
chỉ có nhiễu Gaussian, 6 dB SNR gây ra mức lỗi là 10
-24
. Tuy nhiên trên thực tế, nhiễu
thường là non-Gaussian. Do đó trên thực tế, với mức 6 dB đảm bảo DSLs hoạt động ở
BER (Bit Error Rate) tốt hơn 10
-9
và DSLs sẽ cung cấp dịch vụ tin cậy thậm chí khi
môi trường truyền dẫn kém hơn mức bình thường.
Giá trị 6 dB xuất phát từ tiêu chuẩn ANSI ISDN(American National Standards
Institude : Viện tiêu chuẩn quốc gia Mỹ) cơ bản trong T1D1.3 (trước đó là T1E1.4)
vào năm 1985 do Richard McDonald của Bellcore đưa ra. Như mô tả ở T1E1.4/95-

133, giới hạn 6 dB vẫn là giá trị hợp lý. Giới hạn này áp dụng cho nhiều loại cáp khác
nhau (cáp bị lão hoá, cáp nối, cáp ướt), nhiễu bổ sung ở trung tâm chuyển mạch CO
(Central Office), dây thuê bao, các nguồn nhiễu khác, thiết kế bộ thu phát không hoàn
hảo, lỗi do sản xuất. Mức giới hạn thiết kế là sự kết hợp giữa việc đảm bảo hoạt động
tin cậy trong mọi trường hợp và khả năng cho phép độ dài mạch vòng tối đa. Các
phương pháp truyền dẫn phức tạp có thể đạt được chất lượng làm việc tốt hơn, nhưng
vẫn cần các giới hạn thiết kế. Tuy nhiên, các hệ thống đo giới hạn khi khởi động có thể
cung cấp cho người lắp đặt ngay lập tức chỉ số cho biết liệu mạch vòng có giới hạn hay
không.
Sau đó người lắp đặt phải hiệu chỉnh ví dụ như tìm đôi dây tốt hơn hoặc loại bỏ các
cầu rẽ. Có ý kiến cho rằng hệ thống có chỉ số thời gian thực của giới hạn truyền dẫn có
thể sử dụng với mức giới hạn là 5 dB. Tuy nhiên, thay đổi giới hạn thiết kế 1 hoặc 2dB
chỉ mở rộng phạm vi mạch vòng truy nhập khoảng 1% độ dài mạch vòng).

Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 11 -













Hình I.8: Tốc độ bit DSL cùng với độ dài mạch vòng cho dây 26 AWG
1.3.2 Tiền sử của DSL :
Có người cho rằng trung kế T1, E1 và các đường dịch vụ dữ liệu số DDS (Digital
Data Service : dịch vụ số liệu số) là các DSL đầu tiên. Mặc dù hệ thống truyền dẫn T1
(1,544 Mbit/s AMI (Mã đảo dấu luân phiên) sử dụng ở Bắc Mỹ) và E1 (2048 Mbit/s
HDB3) ban đầu chỉ sử dụng làm các trung kế giữa các trung tâm chuyển mạch (CO),
sau đó được sử dụng rất tốt làm đường nối dữ liệu tốc độ cao từ CO tới khách hàng. T1
đầu tiên được AT&T sử dụng vào năm 1962. Trung kế nối từ CO tới CO ngày nay dựa
trên cáp quang và vi ba. T1/E1 ngày nay không sử dụng như mục đích nguyên thuỷ,
T1/E1 vẫn được sử dụng trên đường dây thuê bao, nhưng nó có một số nhược điểm là
giá đắt và tốn thời gian lắp đặt và thường tách thành một nhóm các đôi dây tách biệt
với các hệ thống truyền dẫn khác. Một đường dây T1 có 4 dây, 2 dây truyền thông tin
đến khách hàng và 2 dây kia truyền thông tin từ khách hàng. Để giảm nhiễu xuyên âm
đầu gần giữa hai hướng của truyền dẫn, người ta chia thành 2 bó cáp, 1 bó mang tín
hiệu đi và 1 bó truyền tín hiệu về. Đường dây T1 được thiết kế với mức suy hao tối đa
là 15 dB (nghĩa là từ 2 đến 3 kft) ở 772 kHz cho CO (CO tới bộ lặp đầu tiên), suy hao
tối đa 36 dB từ bộ lặp tới bộ lặp và suy hao đường dây 22,5 dB từ bộ lặp cuối cùng đến
khách hàng. Đối với khoảng cách nhiều dặm có thể dùng nhiều bộ lặp. Bộ lặp T1 có
nguồn điện là ±130v một chiều. Ở đây ta không coi T1/E1 và DDS là các DSL.



Tốc độ
bit tín
hiệu
hướng về
52m
26m
13m
6m

3m
2m
1.5m
400k
144k

144k 640k 1.5M 2M 13M
Tèc ®é bit ph¸t
(
bit/s tõ kh¸ch hµn
g)
BRI (15 kft)
DS1-HDSL
(
9 kft
)
E1-HDSL
(
7 kft
)

9 kft


ADSL

12 kft
1 kft

3 kft

VDSL 1 kft

4 kft 3 kft
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 12 -
1.3.3 So sánh các công nghệ truy nhập xDSL:

Kỹ thuật

Tốc độ Giới hạn khoảng cách ứng dụng
56 Kbps
analog
modems
56 Kbps downslink Không giới hạn
28.8 hoặc 33.6 Kbps
uplink
E-mail, Truy cập LAN từ xa,
Truy cập Internet/intranet.
ISDN
<= 128 Kbps
(không nén) Song
công
5 Km (thêm thiết bị
có thể mở rộng
khoảng cách)
Hội nghị truyền hình, Khắc
phục thiên tai, Dự phòng leased
line, Các hoạt động thương

mại, truy cập Internet/intranet.
Cable
modem
10–30 Mbps Luồng
xuống, 128 Kbps–10
Mbps luồng lên
(Băng thông dùng
chung)
50 Km trên cáp đồng
trục (thêm thiết bị
phụ trợ có thể mở
rộng tới 300 Km)
Truy cập Internet
ADSL
Lite
1 Mbps luồng xuống
512 Kbps luồng lên
5 Km Truy cập Internet/intranet,
duyệt Web, thoại IP, thoại
video.
ADSL/R-
ADSL
1.5–8 Mbps luồng
xuống, 1.544 Mbps
luồng lên
5Km (khoảng cách
càng ngắn tốc độ
càng cao hơn)
truy cập Internet/intranet, video
theo yêu cầu , truy cập LAN từ

xa, VPNs, VoIP
IDSL
144 Kbps song công 5Km (thêm thiết bị
phụ trợ có thể mở
rộng tới 300 Km)
truy cập Internet/intranet, video
theo yêu cầu , truy cập LAN từ
xa, VPNs, VoIP
HDSL
1.544 Mbps(T1)
song công
2.048 Mbps (E1)
song công
(sử dụng 2–3 đôi
dây)
3,6 Km–4,5 Km Nội hạt, Thay thế trung kế
T1/E1 có dùng bộ lặp, Kết nối
các PBX với nhau, Tập trung
lưu lượng Frame Relay, kết nối
các mạng LAN.
SDSL
1.544 Mbps full
duplex (T1)
2.048 Mbps full
duplex (E1)
(uses 1 wire pair)
3Km Nội hạt, Thay thế trung kế
T1/E1 có dùng bộ lặp, Kết nối
các PBX với nhau, kết nối các
mạng LAN.

Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 13 -
VDSL 13–52 Mbps Luồng
xuống
1.5–2.3 Mbps luồng
lên
(đối xứng đạt tới
34Mbps )
300m–1,5 km
(phụ thuộc vào tốc
độ)
Truy cập Multimedia Internet,
quảng bá các chương trình TV.
Nguồn: 3Com, 03/ 1998.

Hình I.9 Bảng so sánh các công nghệ




















Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 14 -
CHƯƠNG II
NHIỄU
2.1 Nhiễu xuyên âm:
Nhiễu xuyên âm xuất hiện trong các DSL bởi vì mỗi dây trong cáp đôi dây xoắn
phát ra điện từ. Các trường điện và từ tạo ra dòng điện chạy trong các đôi dây bên cạnh
dẫn đến tín hiệu xuyên âm không mong muốn trên các đôi dây này. Hình II.1 minh họa
kiểu xuyên âm thường gặp phải trong DSL. Xuyên âm đầu gần NEXT (Near End
Cross Talk ) là loại xuyên âm xảy ra từ các tín hiệu đi theo hướng ngược lại trên đôi
dây xoắn (hoặc là từ bộ phát tới bộ thu đầu cuối gần). Xuyên âm đầu xa FEXT (Far
End Cross Talk) có từ tín hiệu đi theo cùng một hướng trên hai đôi dây xoắn (hoặc từ
bộ phát tới bộ thu ở đầu xa).











Hình II.1 Nhiễu xuyên âm NEXT – FEXT
Xuyên âm có thể là nguồn nhiễu ảnh hưởng lớn trên đôi dây xoắn và thường gây
giảm tính năng hoạt động của DSL .
2.2 Nhiễu vô tuyến :
Nhiễu vô tuyến là phần còn lại của tín hiệu vô tuyến trên đường dây điện thoại.
Tín hiệu vô tuyến (RF) ảnh hưởng lên đôi dây điện thoại, đặc biệt là dây trần. Các
đường dây điện thoại làm từ đồng tạo thành anten thu sóng điện từ tạo ra dòng điện
tích cảm ứng so với đất. Điện áp chung cho đôi dây xoắn là một trong hai dây so với
đất - thông thường hai điện áp này trong đôi dây xoắn giống nhau. Đường dây điện
thoại cân bằng cao cho thấy sự suy giảm lớn trong tín hiệu RF biến thiên trên đôi dây
so với tín hiệu chung. Tuy nhiên sự cân bằng sẽ giảm khi tăng tần số, và ở tần số của
next

p
§
Çu
p
h¸t
§Çu thu
Fext

p
§
Çu
p
h¸t
§Çu thu
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL



- 15 -
DSL từ 560 kHz đến 30 MHz, hệ thống DSL có thể chồng lấn lên băng tần vô tuyến và
sẽ thu nhận mức nào đó của nhiễu vô tuyến dọc theo các tín hiệu DSL trên cùng một
đôi dây thoại. Dạng nhiễu DSL này gọi là RF vào.
2.3 Nhiễu xung:
Nhiễu xung là xuyên âm không ổn định từ các trường điện từ tạm thời gần đường
dây điện thoại. Ví dụ về bộ phát xung là rất đa dạng như mở của tủ lạnh (mô tơ
chạy/tắt), điện áp điều khiển thang máy (các đường dây điện thoại trong các toà nhà
thường chạy theo đường giếng thang máy), và rung chuông của các máy điện thoại
trong cùng bó cáp. Mỗi hiệu ứng này là tạm thời và gây ra nhiễu xâm nhập vào các
đường dây điện thoại qua cùng một cơ chế cơ bản như nhiễu RF, nhưng thường ở tần
số thấp hơn nhiều.
2.4 Tự can nhiễu:
Tự xuyên âm là xuyên âm vào một dịch vụ từ DSL cùng loại. Dạng tương thích
phổ này là quan trọng nhất khi một nhà cung cấp dịch vụ chon cung cấp một dịch vụ
nào đó trên phạm vi rộng. Sau đó, các DSL cùng loại sẽ xuyên âm vào nhau.
Thuật ngữ “không đối xứng” đầu tiên do Joe Lechleider của Bellcore đưa vào
ADSL. ADSL truyền trên băng tần thu rộng hơn nhiều so với phát, và do vậy phần lớn
tín hiệu thu không có tự xuyên âm. Điều này cho phép tín hiệu thu chạy ở tốc độ lớn
hơn nhiều so với truyền dẫn đối xứng có thể (nếu tất cả các điều kiện khác là giống
nhau). Bởi vì cả hai dịch vụ giải trí (TV trực tiếp và phim theo yêu cầu) và các băng
tần không đối xứng của các ứng dụng Internet phù hơp với tính chất không đối xứng
của ADSL, sử dụng truyền dẫn không đối xứng, vì các lý do kỹ thuật, cũng phù hợp
nhu cầu thị trường đối với các dịch vụ. Các DSL mới như G.lite (Khuyến nghị của
ITU_G.992.2)và VDSL cũng có ít nhất một vài chế độ làm việc không đối xứng.
Tự xuyên âm đầu gần (self NEXT) có thể làm giảm hoặc theo tần số (bằng cách sử
dụng phổ tần số không chồng lấn) hoặc theo thời gian (bằng cách đồng bộ tất cả các
DSL theo đồng hồ mạng vì thế nó truyền thu và phát trên các khe thời gian khác nhau).

Tuy nhiên, FEXT sẽ được đưa ra, theo phương pháp riêng rẽ theo thời gian hoặc theo
tần số.
2.5 Nhiễu liên ký hiệu ISI (Intersymbol Interference) :
Xuyên nhiễu là hiện tượng chủ yếu làm giảm chất lượng đường truyền dẫn ADSL.
Suy hao đường truyền nghiêm trọng và trễ biến đổi theo tần số gây ra hiện tượng
xuyên nhiễu giữa các ký hiệu gần nhau. Xuyên nhiễu của một ký hiệu có ảnh hưởng
đến hàng trăm ký hiệu khác trên đường dây ADSL. Hiện tượng xuyên nhiễu giữa các
ký hiệu làm cho việc nhận biết từng ký hiệu không thực hiện được. Một số phương
thức truyền dẫn trước đây như AMI (AMI cho T1, E1) hạn chế hiện tượng xuyên
nhiễu giữa các ký hiệu nhờ rút ngắn đôi dây đồng xoắn la phương tiện truyền dẫn để
giảm sự biến đổi suy hao theo tần số. ISDL 2B1Q sử dụng tốc độ ký hiệu 80kHz để
hạn chế sự chồng lấn của các ký hiệu. Mặc đường vậy, ISDL vẫn còn hiện tượng
xuyên nhiễu giữa các ký hiệu. Với tốc độ truyền dẫn cao của ADSL, HDSL, VDSL,
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 16 -
hiện tượng xuyên nhiễu giữa các ký hiệu cần được bù thích đáng. Các phương pháp
cân bằng có tác động đến chất lượng nhưng sẽ tốn kém khi tốc độ số liệu và ký hiệu
tăng lên. Phương pháp cân bằng tạo ra cấu hình thiết bị thu phù hợp nhằm hạn chế
hiện tượng xuyên nhiễu giữa các ký hiệu. Phương thức truyền đa kênh thực hiện ở cả
đầu thu và đầu phát sẽ nâng cao được chất lượng. ADSL và một vài dạng VDSL sử
dụng phương pháp truyền dẫn đa kênh.
2.6 Tỷ số tín hiệu trên nhiễu (SNR) :
Tỷ số tín hiệu trên nhiễu (SNR : Signal to Noise Ratio) là tỷ số năng lượng của
tín hiệu mang thông tin ở máy thu so sánh với năng lượng của nhiễu nhận được. Về
bản chất SNR mô hình tả chất lượng của kênh truyền dẫn. Trong miền tần số, SNR
được tính bằng cách chia mật độ phổ năng lượng (PSD) của tín hiệu mang tin ở máy
thu cho mật độ phổ năng lượng ở máy phát. Vì suy hao và nhiễu luôn biến đổi theo
tần số nên tỷ số SNR là một hàm theo tần số.

Cùng với xác suất dò tín hiệu sai nhầm và dải thông của kênh truyền, SNR xác
định vận tốc lớn nhất mà thông tin có thể được truyền qua kênh truyền .
















Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 17 -
CHƯƠNG III
CÔNG NGHỆ ADSL
3.1 Định nghĩa ADSL và mô hình tham chiếu :
Đường dây thuê bao số không đối xứng ADSL(Asymmetric Digital Subscriber
Line) là kỹ thuật truyền dẫn mạch vòng nội hạt đồng thời truyền tải trên cùng một đôi
dây các dịch vụ sau:
• Tốc độ bit thu (về phía thuê bao) lên tới gần 9 Mbit/s.
• Tốc độ bit phát (về phía mạng) lên tới 1 Mbit/s.

• Dịch vụ điện thoại thông thường phổ thông (POTS, thoại tương tự v.v )
Tốc độ bit truyền về phía khách hàng lớn hơn nhiều lần truyền từ khách hàng đi,
do đó có thuật ngữ không đối xứng. Thoại tương tự được truyền ở tần số trong băng cơ
sở kết hợp với truyền dữ liệu thông băng qua bộ lọc thông thấp (LPF) mà thông
thường được gọi là bộ tách. Ngoài bộ tách, ADSL bao gồm một đơn vị truyền dẫn
ADSL ở phía thiết bị trung tâm (ATU-C), một mạch vòng, và một đơn vị truyền dẫn
ADSL ở xa (ATU-R).





Hình III.1 : Mô hình tham chiếu ADSL
3.2 ADSL nguyên bản:
Định nghĩa khái niệm ban đầu của ADSL xuất hiện từ năm 1989, từ
J.W.Lechleider và những người khác thuộc Bellcore. Sự phát triển ADSL bắt đầu ở
trường đại học Stanford và phòng thí nghiệm AT&T Bell Lab năm 1990. Mẫu ADSL
đầu tiên xuất hiện, vào năm 1992 ở phòng thí nghiệm Bellcore, sản phẩm ADSL đầu
tiên được thử nghiệm vào năm 1995. ADSL thu hút các công việc trước kia được thực
hiện trên các modem trong băng, ISDN và HDSL.
Vào tháng 10 năm 1998, ITU thông qua bộ tiêu chuẩn ADSL cơ bản. Khuyến nghị
G922.1 chi tiết ADSL full-rate. Khuyến nghị này gần giống ANSI T1.413 phiên bản 2
với 2 điểm ngoại trừ cơ bản:
Mạch vòng nội hạt bằng
đôi dây xoắn
A
UT-R
Bộ tách
LPF
Điện

thoại
POTS-R
Phía khách
hàng
U-R T
đầu cuối
người sử
dụng
AUT-C
Bộ tách
LPF
Tổng đài điện
thoại
POTS-C
U-C
V

Mạng băng
rộng
Cho đến 9Mbps
Cho đến 1Mbps
thoại tương tự
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 18 -
1. Trình tự khởi tạo dựa trên âm được thay thế bởi quá trình dựa trên bản tin mô
tả trong G.994.1, và
2. Chế độ đặc biệt được bổ sung để cải thiện hoạt động khi có xuyên âm từ ghép
kênh nén theo thời gian TCM ISDN sử dụng ở Nhật.

Khuyến nghị G.992.2 (trước đây gọi là G.lite) chỉ rõ ADSL với cách sử dụng
không có bộ phân chia POTS. G.992.2 được dựa trên G.992.1 với những điểm khác
biệt sau:
3. Dự trữ bổ sung đối với chế độ tiết kiệm nguồn tại ATU-C và ATU-R,
4. Bổ sung cơ chế cho phép khôi phục nhanh từ các trạng thái nhấc máy/đặt máy.
5. Số lượng âm giảm từ 256 đến 128
6. Số lượng bit trên âm giảm từ 15 đến 8.
Khuyến nghị G.994.1 (trước đây gọi là G.hs) mô tả thủ tục bắt tay ban đầu dựa trên
gói tin cho phép các bộ thu phát DSL đa chế độ có một chế độ hoạt động chung.
Khuyến nghị G.955.1 cung cấp tổng quan họ khuyến nghị DSL. Khuyến nghị G.966.1
mô tả phương pháp đo sự hoạt động của thiết bị DSL. Khuyến nghị G.977.1 mô tả hoạt
động của lớp vật lý, các quy định về quản lý và bảo dưỡng cho ADSL, bao gồm kênh
eoc và cơ sở quản lý thông tin (MIB).
3.3 Các khả năng của ADSL và ứng dụng :
ADSL1, ADSL2, ADSL3
Khái niệm về ADSL xuất hiện vào giữa những năm 1990. Ban đầu ADSL được
nghiên cứu ở tốc độ 1,5 Mbit/s thu và 16 kbit/s phát cho ứng dụng MPEG-1 quay số
video (VDT). Một số thành viên trong nghành công nghiệp này gọi đây là ADSL1.
Sau đó, ngày càng rõ ràng là một số ứng dụng yêu cầu tốc độ cao hơn và nhiều kỹ
thuật truyền dẫn tiên tiến hơn cho phép truyền tốc độ cao. 3 Mbit/s thu và 16 kbit/s
phát ("ADSL2") được đưa ra cho phép 2 dòng MPEG-1 đồng thời. Vào năm 1993, sự
quan tâm hướng về ADSL3 với 6 Mbit/s thu và ít nhất 64 kbit/s phát hỗ trợ video
MPEG2. Tiêu chuẩn ADSL ANSI T1.413 phiên bản 1 phát triển vượt ra khỏi khái
niệm ADSL3. Thuật ngữ ADSL1, ADSL2, và ADSL3 ít được sử dụng sau khi tiêu
chuẩn ANSI T1.413 thông qua.
RADSL
Đường dây thuê bao số tốc độ điều chỉnh (RADSL) là thuật ngữ áp dụng cho hệ
thống ADSL có khả năng xác định dung lượng truyền của mỗi mạch vòng một cách tự
động và sau đó hoạt động ở tốc độ cao nhất phù hợp với mạch vòng đó. Tiêu chuẩn
ANSI T1.413 cung cấp khả năng hoạt động tốc độ điều chỉnh. Điều chỉnh tốc độ thực

hiện khi thiết lập đường dây, với giới hạn chất lượng tín hiệu tín hiệu thích hợp để đảm
bảo rằng tốc độ đường dây thiết lập có thể duy trì trong những thay đổi danh định trên
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 19 -
đặc tính truyền của đường dây. Do đó RADSL sẽ tự động cung cấp tốc độ bit lớn hơn
trên mạch vòng có đặc tính truyền dẫn tốt hơn (suy hao ít hơn, nhiễu ít hơn). RADSL
hỗ trợ tốc độ thu tối đa trong phạm vi từ 7 đến 10 Mbit/s và tốc độ phát tối đa trong
phạm vi từ 512 đến 900 kbit/s. Trên những mạch vòng dài, RADSL có thể hoạt động ở
tốc độ thu thấp nhất khoảng 512 kbit/s và 128 kbit/s phát.
RADSL mượn khái niệm tốc độ điều chỉnh từ modem trong băng thoại. RADSL có
lợi ích của một phiên bản thiết bị có thể đảm bảo tốc độ truyền dẫn cao nhất có thể cho
mỗi mạch vòng và cũng cho phép hoạt động trên những mạch vòng dài ở tốc độ thấp
hơn.
3.4 Truyền dẫn ADSL:
Khái niệm ADSL có hai phần cơ bản: (1) Xuyên âm đầu gần giảm do có tốc độ bit
phát và dải tần thấp hơn nhiều tốc bit độ thu và (2) truyền tải đồng thời POST và dữ
liệu bằng cách truyền dữ liệu trong dải băng tần trên băng tần thoại. Truyền dẫn hai
hướng tốc độ nhiều Mbit/s không dùng trên phần lớn các đường dây điện thoại do
hiệu ứng kết hợp của suy giảm mạch vòng và xuyên âm. Như chỉ ra ở hình III.2, năng
lượng tín hiệu nhận được giảm đi tương ứng với tần số và nhiễu xuyên âm nhận được
tăng theo tần số. Do đó truyền dẫn hai hướng không thể thực hiện được ở những tần số
mà nhiễu xuyên âm lấn át tín hiệu nhận.








Hình III.2 Truyền dẫn hai hướng bị giới hạn ở các tần số thấp
ADSL thực hiện truyền dẫn hai hướng tại những nơi có thể: dưới tần số cắt hai
hướng. Tần số cao không thích hợp cho truyền dẫn hai hướng được sử dụng cho truyền
dẫn một hướng. Điều này cho phép tốc độ thu vượt xa tốc độ có thể ở truyền dẫn hai
hướng.
Nhiều hệ thống ADSL sử dụng kỹ thuật truyền dẫn ghép kênh theo tần số, kỹ thuật
này đặt truyền dẫn phát ở dải tần số tách khỏi dải tần thu để trách tự xuyên âm. Dải tần
bảo vệ là cần thiết giúp cho các bộ lọc ngăn tạp âm POTS (Dịch vụ điện thoại thông
thường trong chuyển mạch kênh thoại tương tự) can nhiễu vào truyền dẫn số (Hình
III.3).Một số hệ thống ADSL sử dụng kỹ thuật truyền dẫn triệt tiếng vọng ECH, nơi
dải tần phát được đặt trong dải tần thu (Xem hình III.4) Bằng cách chồng dải tần, tổng
Mức tin
Tần số
Mức tín hiệu
nhận được
Mức nhiễu
xuyên âm
nhận được
Giới hạn cho
truyền dẫn hai
hướng
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 20 -
băng tần truyền có thể giảm. Tuy nhiên, ECH khó tránh được tự xuyên âm và khi thực
hiện cần có xử lý số phức tạp hơn. Có một số băn khoăn là liệu độ phức tạp số được
đền bù bằng cách đơn giản hoá tương tự ở đầu trước.
Do không có tự xuyên âm ở đầu cuối CO, nên ghép kênh phân chia theo tần số

FDM ADSL làm việc theo hướng phát tốt hơn nhiều so với xoá tiếng vọng ECH
ADSL. Tuy nhiên dải thông thu của ADSL cho phép làm việc theo hướng thu, đối với
các mạch vòng là ngắn hơn.
Hoạt động của DSL đối xứng ban đầu bị hạn chế bởi tự xuyên âm đầu gần (self-
NEXT). ADSL khắc phục được self NEXT ở đầu cuối khách hàng đơn giản bằng cách
giảm nguồn được NEXT. Bằng cách giảm tốc độ bit phát, kênh phát có thể đặt vị trí để
xuyên âm vào truyền dẫn thu là ít nhất. Đối với ADSL, sự thu nhận của kênh phát
được xếp đặt dễ dàng hơn bằng cách đặt nó ở tần số thấp hơn nơi mà suy hao mạch
vòng là thấp và nhiễu xuyên âm cũng thấp hơn.







Hình III.3 ADSL ghép phân chia theo tần số







Hình III.4 Truyền dẫn xoá tiếng vọng ADSL
Hệ thống ADSL ứng dụng kỹ thuật truyền dẫn tiên tiến để nâng cao hoạt động.
Điều chế và sắp đặt tần số của tín hiệu phát được tự làm thích ứng để đạt được mức
Mức truyền
T ần s ố
Băng POTS

Băng bảo vệ
Băng truyền tần
số thấp
Băng truyền tần
số cao
Mức truyền
T ần s ố
Băng POTS
Băng bảo vệ Băng truyền tần
số thấp
Băng truyền tần
số cao
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 21 -
hoạt động tối ưu nhất từ các đặc tính liên quan tới đường dây thuê bao sử dụng. Mã
Trellis được sử dụng để giảm hiệu ứng nhiễu băng tần rộng. Các bộ cân bằng có khả
năng thích nghi chống lại nhiễu băng hẹp ví dụ như nhiễu tần số phát thanh (RFI). Mã
điều khiển lỗi hướng đi và cài xen (interleaving) ngăn chặn nhiễu xung. Interleaving
chống lại lỗi xuất hiện đột ngột bằng cách thay đổi các khối dữ liệu vì thế mà sự xuất
hiện đột ngột lỗi kéo dài dẫn đến có một số ít lỗi trong một khối dữ liệu (có thể sửa
được) thay vì một lượng lỗi lớn xảy ra trong một khối (không thể sửa được). Với độ
sâu interleaving 20 ms sẽ chống lại nhiễu đột biến có khoảng thời gian là 500 µs. Tuy
nhiên mức interleaving này gây ra trễ truyền bổ sung mà có thể làm chậm lại băng
thông của các thủ tục. Ví dụ như TCP/IP yêu cầu phải có các gói tin phúc đáp trước
khi dữ liệu tiếp theo được truyền.
3.5 Tương lai của ADSL :
ADSL sẽ được tích hợp vào hệ thống mạch vòng số DLC (Digital Loop Circuit)
trên cáp dành cho các mạch vòng không nối trực tiếp từ CO. ADSL rất thích hợp để

cung cấp tốc độ bit cao trên mạch vòng DLC, mà rất hiếm khi dài quá 3,7 km (12 kft).
Mặc dù đã có các tiêu chuẩn công nghiệp cho ADSL (ANSI T1.413), các hệ thống
ADSL ban đầu không làm việc với nhau. Người ta chờ đợi những nỗ lực của các nhà
sản xuất ADSL và các uỷ ban tiêu chuẩn để đạt được khả năng kết nối cho các hệ
thống ADSL tương lai của nhiều nhà sản xuất thiết bị. Ngoài lớp vật lý, khả năng kết
nối yêu cầu độ tương thích thủ tục ở tất cả các lớp.
Người ta nhận thấy ngày càng rõ ràng rằng ADSL là công nghệ truy nhập mà chế
độ chuyển giao không đồng bộ cần để mở rộng tới khách hàng gia đình và các văn
phòng nhỏ. Trước khi có ADSL, ATM (Phương thức truyền dẫn không đồng bộ) tỏ ra
hạn chế cho những khách hàng chịu được giá kết nối đường truyền ở 45 Mbit/s và lớn
hơn thường chỉ có tại khu thương mại lớn và mạng đường trục. Người ta đang nghiên
cứu truyền tải ATM trên các đặc tính thống nhất của ADSL: lỗi truyền, độ trễ, không
đối xứng và tự động thay đổi tốc độ.
Trong thời gian tới, người ta tập trung vào phát triển ADSL lên tới tốc độ cao tới
10 Mbit/s thu và 1,5 Mbit/s phát. Tuy nhiên hướng này bị mất dần do trùng với VDSL,
các lo ngại về độ tương thích phổ và các nghi ngờ liên quan tới nhu cầu sử dụng tốc độ
này. Thay vào đó hiện nay người ta tập trung vào cải thiện phạm vi mạch vòng ở các
tốc độ gần 1Mbit/s, giá thành thấp, tiêu thu năng lượng thấp và giảm xuyên âm. Các hệ
thống ADSL đang được phát triển để truyền đa mạch thoại số ngoài truyền dữ liệu tốc
độ lớn.
ADSL + ISDN
Một số nhà bán thiết bị đang giới thiệu phiên bản ADSL băng tần phát và thu được
đặt trên 0 đến 80 kHz ANSI T1.601 băng truyền của ISDN tốc độ cơ bản. Đối với BRI
sử dụng mã đường dây 4B3T, băng tần số BRI là từ 0 tới 120 kHz. Điều này giảm
đáng kể tốc độ ADSL nhưng cho phép đồng thời dịch vụ ISDN và ADSL trên cùng
một mạch vòng. Cấu hình ADSL + ISDN không hứa hẹn cung cấp được mạch vòng
tới 5,5 km (18 kft) mà thông thường cung cấp bởi ISDN. ADSL +ISDN đặc biệt được
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL



- 22 -
quan tâm ở Đức và Pháp nơi dịch vụ ISDN được triển khai rộng. Cấu hình này cũng
được sử dụng để cung cấp hai mạch thoại và dữ liệu tốc độ cao trung bình.
ADSL không tách ( lọc )
Việc lắp đặt dịch vụ ADSL ở phía nhà thuê bao có thể yêu cầu thay toàn bộ đi dây
bên trong hoặc sửa đổi. Đối với cầu hình ADSL chuẩn, ADSL kết thúc ở thiết bị giao
diện mạng (NID), nơi bộ lọc thông thấp (bộ tách) tách tín hiệu trong băng thoại được
gắn với dây đỏ và dây xanh tới điện thoại và tín hiệu băng rộng được nối tới dây vàng và
dây đen nối tới modem ADSL của khách hàng. Để làm được điều này cần phải có các
thiết bị tách và sử dụng các dây vàng và đen mà không lắp đặt ở một số khách hàng
hoặc đã sử dụng cho dịch vụ thoại đường dây thứ hai. Hơn nữa trong một số trường hợp,
dây kém tiêu chuẩn được sử dụng làm ảnh hưởng tới hoạt động của ADSL (và thậm chí
ISDN). Kết quả là thường phải đi dây lại từ NID tới modem của khách hàng.






Hình III.5 Cấu hình ADSL chuẩn có bộ tách.
Cấu hình ADSL POTS có bộ tách phổ biến nhất (được chỉ ra trong hình III.5) đặt
bộ lọc thông thấp LPF cho đường dây thoại ở gần NID và bộ lọc thông cao HPF ở
trong ATU-R. Một giải pháp khác, các bộ lọc (LPF và HPF) có thể tích hợp trong
ATU-R. Sử dụng bộ lọc ở trong ATU-R có nhược điểm là có thể bị mất dịch vụ POTS
khi bỏ đi ATU-R và có thể có mức xuyên âm quá mức khi sử dụng đường đi dây hiện
có.
Khái niệm ADSL không có bộ tách có nghĩa là loại bỏ bộ lọc tách ở cuối đường
dây phía thuê bao. Nhiều thuật ngữ khác được sử dụng để mô tả khái niệm này:
ADSL lite, Consumer DSL (CDSL) hoặc ADSL phổ thông (UADSL). ADSL không
có bộ tách được định nghĩa trong khuyến nghị ITU G.992.2. ADSL modem và các

điện thoại được nối trực tiếp tới đường dây đỏ và xanh hiện có, hỗ trợ đồng thời thoại
và dữ liệu. Việc lắp đặt ADSL được thực hiện dễ dàng bằng cách cắm ADSL modem
vào bất cứ jack nào ở nhà thuê bao, không cần phải đi dây mới cũng như lắp đặt các bộ
tách.



Tổng đài trung tâm
ATU-C
Chuyển mạch thoại
LPF
Phía khách hàng
Vàng & Đen
ATU-R
LPF
NID
Đỏ & xanh
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 23 -







Hình III.6 Cấu hình ADSL không có bộ lọc phía khách hàng.
Bộ lọc ADSL có hai mục đích: (1) bộ lọc làm suy giảm nhiễu tín hiệu có thể làm

hỏng đường truyền dữ liệu ADSL và (2) bộ lọc làm suy giảm tín hiệu ADSL để tránh
nhiễu tạp âm trên đường dây điện thoại. Do trở kháng không tuyến tính của một số
điện thoại, mức năng lượng phát ADSL ở các tần số trên băng tần âm có thể điều chế
vào băng tần thoại. Tuy nhiên điều này sẽ làm giảm tốc độ dữ liệu ADSL và độ dài
mạch vòng. Lỗi bất thường dễ xảy ra khi điện thoại rung chuông và chắc chắn xảy ra
trong thời điểm ngắt chuông khi điện thoại đang rung chuông bị nhấc tổ hợp. Tiếng rít
khó chịu có thể nghe thấy được trong điện thoại.
Một giải pháp cho vấn đề này là đặt một loạt các bộ lọc thông thấp vào mỗi điện
thoại (hình III.7). Bộ lọc này thường không đắt và có các đầu nối modun cho nên bất
cứ khách hàng nào cũng có thể tự lắp đặt trong vòng vài giây. Khách hàng có thể mua
điện thoại mới "ADSL-tương thích" có các bộ lọc thông thấp có sẵn trong máy. Cấu
hình này có thể ngăn chặn nhiễu POTS làm suy giảm truyền dẫn ADSL và nhiễu
ADSL nghe thấy được ở trên điện thoại. Không cần đi dây mới ở bên trong và cũng
không cần lắp đặt các bộ lọc ở NID. Khách hàng có thể cắm ADSL modem vào bất cứ
jack điện thoại nào trên tường. Tốc độ dữ liệu ADSL ở một chừng mực nào đó thấp
hơn cấu hình ADSL tiêu chuẩn. Tốc độ dữ liệu có thể suy giảm do các nguồn nhiễu
khác và hiệu ứng tải của các bộ lọc các mẩu dây. Chất lượng truyền trong băng thoại
bị suy giảm có thể xuất phát từ nhiều bộ lọc thông thấp đặt song song với nhau. Một
trở ngại khác liên quan đến các khách hàng quên không đặt LPF trên đường dây nối tới
điện thoại của họ.





Hình III.7 Cấu hình ADSL có bộ lọc thông thấp tại mỗi điện thoại
Tổng đài trung tâm

ATU-C
Chuyển mạch thoại

LPF
Phía khách hàng
đỏ & xanh

ATU-R
NID
LPF LPF
Tổng đài trung tâm

Chuyển mạch thoại
LPF
Phía khách hàng
đỏ & xanh
NID
ATU-C
A
TU-R

Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL


- 24 -
Nếu các chướng ngại về kỹ thuật và khai thác được khắc phục, có thể ADSL không
bộ tách sẽ chiếm ưu thế hơn. Trong tương lai gần, phần lớn các ADSL được lắp đặt
với bộ tách ở các hai đầu cuối của đường dây. Việc sử dụng bộ tách ở phía khách hàng
có thể được tiếp tục sử dụng cho các khách hàng yêu cầu dịch vụ tốc độ bit cao. Một
số nhà cung cấp dịch vụ ADSL gợi ý là dịch vụ ADSL của họ có thể làm việc với cả
cấu hình có bộ tách và không có bộ tách trong khi sử dụng cùng loại ATU-C ở CO.
Quá trình triển khai ADSL không có bộ tách được thúc đẩy bởi các hoạt động thị
trường và kỹ thuật của nhóm nghiên cứu ADSL, nhóm các công ty điện thoại hàng đầu

và các công ty máy tính.
3.6 Các kỹ thuật mã hóa đường truyền trong ADSL :
Các phương pháp điều chế CAP (Điều chế biên độ pha không sóng mang) và DMT
(Đa kênh rời rạc) là các mã đường truyền sử dụng hữu ích cho vùng tần số cao nằm
trên dải băng tần thoại. Hai phương pháp mã hoá này là rất khác nhau về phương pháp
thực hiện, do đó bộ thu phát DMT không thể tương thích với bộ thu phát CAP.
3.6.1 Mã hóa đường truyền đa kênh :
Phương pháp truyền dẫn đa kênh phân chia các đường DSL thành hàng trăm các
đường truyền nhỏ hơn, dễ truyền hơn. Tốc độ số liệu là tổng tốc độ truyền trên các
kênh nhỏ này. Phương pháp chung nhất là truyền dẫn trên các băng tần hẹp không có
hiện tượng chồng lấn. Mã hóa đường truyền đa kênh có chất lượng cao nhất và cơ bản
đã được tối ưu hóa cho kênh bị hiện tượng xuyên nhiễu. Đặc điểm chính của truyền
dẫn đa kênh là làm tương thích tín hiệu đầu vào với các đặc trưng riêng của đường dây
điện thoại. Điều này cho phép nâng cao đáng kể về cự ly và độ tin cậy, hai tham số
chính làm ảnh hưởng đến chi phí khi thiết kế hệ thống. Chính vì vậy mã truyền dẫn đa
kênh được sử dụng phổ biến trong các đường truyền DSL.
Phương thức truyền dẫn đa kênh đem lại chất lượng cao được sử dụng trong đường
truyền ADSL. Bộ cân bằng chỉ có thể hạn chế một phần hiện tượng xuyên nhiễu và
được sử dụng trong sơ đồ tách tối ưu một phần. Khi hiện tượng xuyên nhiễu trở nên
nghiêm trọng, các bộ cân bằng trở nên rất phức tạp và giảm chất lượng càng lớn so với
giá trị lý thuyết. Giải pháp sử dụng ở đây là phân chia kênh truyền dẫn thành một số
các kênh AWGN( Additive Gaussian White Noise : nhiễu trắng Gaussian cộng thêm)
nhỏ hơn. Lý thuyết này do Shannon đưa ra trong lý thuyết toán thông tin của ông
nhằm chia kênh thành một số lớn các kênh AWGN băng tần hẹp. Các kênh này thường
được tách thành các băng tần kế tiếp nhau riêng biệt và gọi là truyền dẫn đa sóng mang
hay đa tín hiệu. Nếu các kênh truyền dẫn đa tín hiệu có băng tần đủ hẹp thì xuyên
nhiễu sẽ ít hơn hoặc không có và chúng có thể được xem là kênh AWGN. Thay vì sử
dụng các bộ cân bằng phức tạp chỉ cần sử dụng các bộ tách/ghép tín hiệu tới và từ các
kênh nhỏ. Truyền dẫn đa sóng mang hiện đã được tiêu chuẩn hóa và sử dụng do việc
tạo các kênh nhỏ đơn giản khi có các bộ xử lý tín hiệu số. Bộ cân bằng các sóng mang

rộng có thể được thay thế bằng số ít hơn các bộ cân bằng sử dụng bộ sóng mang hay
đa sóng mang theo lý thuyết của Shannon và có thể được sử dụng hay hiểu đơn giản
hơn. Dung lượng của kênh sẽ là tổng của các kênh độc lập song song với nhau làm cho

×