Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Thuyết Minh ca daoCa dao là một từ Hán-Việt pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.3 KB, 6 trang )

Thuyết Minh ca dao


Ca dao là một từ Hán-Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát
có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có
giai điệu, chương khúc
Nội dung
Ca dao phản ánh lịch sử: Ca dao lịch sử không phản ánh
hiện tượng lịch sử trong quá trình diễn biến của nó, mà
chỉ nhắc đến sự kiện lịch sử để nói lên thái độ, quan điểm
nhân dân.
Phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống;
phản ánh đời sống tình cảm nhân dân; phản ánh đời sống
xã hội cũ. Ngoài ra, ca dao còn:
Chứa đựng tiếng cười trào phúng

Phân loại
Đồng dao: là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Đồng
dao được chia thành hai loại: loại gắn với công việc của
trẻ em, loại gắn với trò chơi của trẻ em.
Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa đứt cương
Ba vương ngũ đế

Ca dao lao động: là phần lời cốt lõi của dân ca lao động.
Những bài ca lao động tồn tại như là một bộ phận của quá
trình lao động.
Trời mưa trời gió đùng đùng
Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu
Đem về trồng bí trồng bầu


Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà.
Ca dao ru con: Hát ru có từ lâu đời và rất phổ biến, lời hát
ru phần nhiều là những câu ca dao có sẵn.
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
****** đi cấy ruộng sâu chưa về
Ca dao nghi lễ, phong tục: Trong nhiều bài ca tế thần, các
yếu tố trữ tình cũng có mặt, cùng với yếu tố hiện thực,
chúng biểu hiện sức mạnh của đời sống hiện thực trong
các hình thức sinh hoạt tôn giáo trong nhân dân.
Ca dao trào phúng, bông đùa
Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Ca dao trữ tình.
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.

Nghệ thuật
Thể thơ: Ca dao sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, thể lục
bát rất phổ biến trong ca dao; thể song thất lục bát được
sử dụng không nhiều; thể vãn thường gồm một câu có
bốn hoặc năm chữ, rất đắc dụng trong đồng dao. Ngoài ra
ca dao cũng sử dụng hợp thể là thể thơ gồm từ bốn, năm
chữ thường kết hợp với lục bát biến thể.
Cấu tứ có các loại sau: Cấu tứ theo lối ngẫu nhiên không

có chủ đề nhất định; cấu tứ theo lối đối thoại, và cấu tứ
theo lối phô diễn về thiên nhiên.

×