11
khích xuất khẩu Nhà nớc ta đã giảm bớt hàng rào thuế quan đối
với nhập khẩu. Việc giảm thuế xuống còn 0-5% có ý nghĩa lớn
khi Việt Nam tham gia vào ASEAN và sắp tới tham gia vào tổ
chức thơng mại thế giới (WTO). Trên cở sở nguyên tắc chung là
có đi, có lại trong buôn bán quốc tế, việc cắt giảm thuế nhập
khẩu với hang hoá nớc ngoài của Việt Nam tạo điều kiện cho
hàng hoá Việt Nam và đặc biệt là hàng dệt may có thể dễ dàng
xuất khẩu sang thị trờng các nớc thành viên của ASEAN và
WTO mà không gặp phải trở ngại lớn từ hàng rào thuế quan và
phi thuế quan của nớc nhập khẩu. Cùng với việc phê duyệt chiến
lợc tăng tốc phát triển ngành Dệt - May đến năm 2010 Nhà
nớc đã có nhiều chính sách u đãi để phát triển ngành Dệt
May thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng
cao khả năng cạnh tranh và năng lực xuất khẩu của ngành.
Để giảm tối đa chi phí cho sản phẩm dệt may xuất khẩu,
tạo mọi điều kiện cho sản phẩm dệt may cạnh tranh trên thị
trờng thế giới, chính sách thuế xuất nhập khẩu nớc ta đã có
nhiều u đãi cho ngành dệt may nh: áp dụng thuế suất 0% đối
với sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng đợc
áp thuế suất 0%; đối với vật t, nguyên liệu nhập khẩu để sản
xuất hàng xuất khẩu trong thới hạn 275 ngày không phải nộp
thuế nhập khẩu, nêu ngoài thời hạn trên doanh nghiệp phải nộp
thuế nhập khẩu nhng nhng sẽ đợc hoàn trả sau khi sản phẩm
đợc xuất khẩu. Miễn thuế đối vớivật t nguyên liệu nhập khẩu
để gia công hàng cho nớc ngoài.
Chính phủ thực hiện một số chính sách, biện pháp khuyến
khích xuất khẩu theo kiến nghị của Bộ Thơng mại. Tiếp tục đẩy
mạnh biện pháp hỗ trợ tài chính, áp dụng các chính sách thởng
theo kim ngạch xuất khẩu và đơn giản hoá thủ tục xét thởng. Ưu
12
tiên những mặt hàng có giá trị gia tăng cao.Tăng cờng các biện
pháp hạ giá thành cũng nh chi phí ngoài giá thành, u đãi về
thuế cho các doanh nghiệp vệ tinh nh đối với các doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu, kiểm soát và giảm tới mức hợp lý các
chi phí và giá cả của các nhà cung ứng dịch vụ độc quyền. Điều
chỉnh thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp trong nớc sản xuất
hàng xuất khẩu (hiện ở mức 32%) nh đang áp dụng với các
donah nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài(25%).
Đẩy mạnh xúc tiến thơng mại qua việc tăng cờng tổ chức
các đoàn doanh nghiệp thực hiện công tác xúc tiến thơng mại
với sự bảo trợ của Nhà nớc, cải tiến việc chi hỗ trợ phát triển thị
trờng và xúc tiến thơng mại theo hớng không dàn trải, u tiên
danh một tỷ lệ thích hợp cho các chơng trình xuất khẩu trọng
điểm. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, xoá bỏ các rào cản
bất hợp lý. Tập trung đơn giản hoá thủ tịc hải quan, tăng diện
hàng hoá xuất nhập khẩu đợc miễn kiểm tra hải quan cải tiến
quy trình nghiệp vụ để doanh nghiệp có thể kiểm tra hàng hoá
xuất khẩu bất kỳ lúc nào nếu có đăng ký trớc. EU là thị trờng
mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, do đó Chính phủ đang xem
xét nhợng bộ một số yêu cầu mở cửa thị trờng để đổi lấy việc
gia tăng hạn ngạch dệt may
Để khai thác tối đa thị trờng EU và đảm bảo tính linh hoạt
trong việc triển khai thực hiện hạn ngạch, năm 2002 Bộ Thơng
mại đã ban hành một cơ chế mới gọi là cơ chế cấp giấy phép xuất
khẩu tự động. Cơ chế này đợc đánh giá là sẽ giúp khắc phục
đợc nhiều nhợc điểm của cơ chế cũ mà quan trọng là nó giải
quyết cơ bản tình trạng đầu cơ hạn ngạch, tạo sân chơi bình đẳng,
tạo cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp sản xuất hàng chất lợng
tốt, có khách hàng đều có cơ hội xuất khẩu.
13
2.2 Kết quả của hoạt động xuất khẩu sang EU trong
thời gian qua.
Thị trờng EU là thị trờng xuất khẩu hàng dệt may có hạn
ngạch chủ yếu của Việt Nam. EU đợc coi là thị trờng xuất
khẩu trọng điểm của nớc ta và đang đợc các doanh nghiệp dệt
may tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng của thị trờng
này. Hàng năm EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo các loại và
trong đó chỉ có khoang 10 15% là tiêu dùng bình thờng còn
lại là sử dụng theo mốt. Từ năm 1980, chúng ta đã xuất khẩu
hàng dệt may sang một số nớc thành viên EU nh Đức, Anh,
Pháp nhng chỉ từ năm 1993 xuất hàng dệt may sang EU mới
thực sự khởi sắc.
Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đặc biệt
phát triển mạnh kể từ khi có hiệp định buôn bán hàng dệt may.
Cụ thể, sau khi hiệp định này đợc ký kết ngày 15/2/1992 và có
hiệu lực và năm 1993 đã tạo cơ sở pháp lý và kinh tế vững chắc
đa ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam bớc vào giai đoạn
tăng trởng nhanh chóng, từ chỗ hầu nh bị cấm vận nhóm hàng
này của Việt Nam xuất khẩu sang EU có tốc độ tăng trởng kim
ngạch 23%/năm trong thời kỳ 1993 1997. Theo Hiệp định
năm 1992, Việt Nam đợc phép xuất khẩu sang EU 151 chủng
loại mặt hàng (cat) trong đó có 46 loại không bị hạn ngạch. Tổng
số hạn ngạch thao hiệp định này là 21298 tấn với kim ngạch
khoản 450 triệu$. Tuy nhiên nếu nhìn từ phía EU thì Việt Nam
chỉ là nhà xuất khẩu lớn thứ 16 và chiếm 0.5% kim ngạch nhập
khẩu hàng dệt may của EU. Điều đó chứng tỏ rằng hàng may
mặc của Việt Nam vào EU là quá nhỏ so với nhu cầu. Trong số
các nớc thuộc EU thì Đức là nớc nhập khẩu hàng dệt may lớn
nhát của Việt Nam chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu, tiếp theo là
14
Pháp 14%, Hà Lan 12%, Italia 9% và các nớc khác chiếm 8%.
Từ 1993 đến năm 1999 xuất khẩu hàng dệt may sang EU đạt gần
700 triệu USD và năm 2000 tăng thêm khoảng 150 triệu USD.
Hiện nay xuất khẩu hàng dệt may sang thị trờng này chiếm 34
38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may hàng năm của
Việt Nam. Hiệp định buôn bán hàng dệt may, dệt kim từ khi thực
hiện cho đến nay đã 2 lần đợc gia hạn và điều chỉnh tăng hạn
ngạch. Tháng 8/1995, Hiệp định lần đầu tiên sửa đổi tăng hạn
ngạch ở 23 cat nóng tử 20 - 25%, giảm số cat có hạn ngạch từ
105 xuống còn 54, tăng hạn ngạch gia công thuần tuý lên gấp
đôi, ớc tính sẽ tăng bổ sung hạn ngạch lên 250 tấn tơng đơng
với 100 triệu$ nâng tổng giá trị hạn ngạch vào EU là 550 triệu$.
Hiệp định dệt may sửa đổi lần thứ 2 cho giai đoạn 1998 - 2000 đã
đợc ký ngày 7/11/1997 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1998 tăng
40% khối lợng so với giai đoạn trớc tạo cơ hội mới thúc đẩy
hàng dệt may Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh hơn. So với
giai đoạn 1993 - 1997, Hiệp định sửa đổi này có những bổ sung
quan trọng tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu Việt Nam nh
đợc tăng mức tự do chuyển đổi hạn ngạch giữa các mặt hàng
một cách đễ dàng hơn, đợc hởng u đãi GSP. Theo hiệp định
này hàng năm Việt Nam đợc xuất khẩu hàng đệt may vào thị
trờng EU với lợng hàng 21938 tấn. Số cat chịu sự quản lý bằng
hạn
ngạch giảm từ 106 xuống còn 29, tăng hạn ngạch một số
cat nóng và nâng mức chuyển đổi hạn ngạch giữa các cat lên
27%. Tháng 3/2000, Việt Nam đàm phán với với EU thay đổi
thời hạn điều chỉnh Hiệp định dệt may đến hết năm 2002 thay vì
năm 2000. Đồng thời tăng hạn hạn hàng dệt may 16 cat của Việt
Nam xuất khẩu vào EU: trọng lợng tăng 4324 tấn đạt mức trên
26% so với hạn ngạch cơ sở của 16 cat, đơn vị sản phẩm tăng 15
15
triệu, đạt mức tăng 25%, trị giá sản phẩm tăng khoảng 120 triệu
USD đạt khoảng 20% so với năm 1999. Đàm phán tăng hạn
ngạch dệt may và mở cửa thị trờng giữa Việt Nam và EU đợc
tiến hành gần đây nhất là giữa tháng 2/2003 áp dụng cho giai
đoạn 2003 - 2005. Theo bản sửa đổi này, Việt Nam sẽ mở cửa thị
trờng cho một số lĩnh vực nh bảo hiểm, rợu, xe máy, dợc
phẩm, dịch vụ vận tải biển cũng nh thuế nhập khẩu hàng dệt
may và nguyên liệu nhập khẩu từ EU. Đổi lại EU sẽ tăng hạn
ngạch dệt may cho Việt Nam mỗi năm lên khoảng 20% tức tổng
cộng 3 năm tăng khoảng 600 triệu$. Đặc biệt một số cat Việt
Nam cho là nóng có mức tăng từ 50 đến 75%. Nếu Việt Nam sử
dụng hết hạn ngạch cho phép thì giá trị xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam năm 2003 và các năm sau sang EU sẽ tăng lên 800
- 850 triệu$/năm, giải quyết việc làm thêm cho trên 100 ngàn lao
động. Đây là một bớc tiến đáng kể đối với ngành dệt may Viẹt
Nam trong quan hệ với EU trong thời kỳ quá độ tiến tới tự do hoá
hoàn toàn. Trong mấy năm vừa qua tỷ trọng kim ngạch hàng dệt
may của Việt Nam xuất khẩu sang EU luôn chiếm xấp xỉ 30%
tổng trị giá xuất khẩu ra thế giới của toàn ngành may mặc, có
năm cao nhất là 31%
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU thể
hiện trong biểu đồ sau:
Đơn vị: triệu USD.
N
ăm
1
994
1
995
1
996
1
997
1
998
1
999
2
000 001 002 003
K
im
ngạch
2
85
3
50
4
20
4
50
5
80
6
20
5
90 31 75 10
Nguồn của Bộ Thơng mại (1/2004).
16
285
350
420
450
580
620
590
631
575
610
0
100
200
300
400
500
600
700
1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Năm
Kim ngạch
Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU,
hầu hết các doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm
dễ làm, các mã hàng cho mùa đông nh áo Jacket hai lớp hoặc ba
lớp, áo sơ mi, áo váy, quần âu, áo len và áo dệt kim, áo T.shirt và
polo shirt, quần dệt kim, bộ quần áo bảo hộ lao động, áo sơ mi
nữ Mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu
hàng dệt may xuất khẩu sang EU. Năm 1997 Việt Nam xuất khẩu
sang EU gần 11 triệu chiếc tăng gần 5 triệu chiếc so với năm
1993 chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU.
Theo nguồn tin của Bộ Thơng mại trong tháng 1-2/2004
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU tăng rất mạnh từ 28
30% so với cùng kỳ năm 2003. Những cat đợc cấp giấy phép
xuất khẩu là cat 4, cat 7, cat 9, cat10, cat 14, cat 18, cat 20, cat
21, cat 28, cat 41, cat 78; trong số những cat đợc cấp giấy phép
thì cat 4, 6, 41, 78 có tốc độ tăng cao và cat 21 áo jacket vẫn là
mặt hàng chủ lực trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
17
Hình thức xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may Việt Nam
vào thị trờng EU là hình thức gia công xuất khẩu chiếm tỷ trọng
đến trên 80% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Vì thế hiệu quả
thực của xuất khẩu dệt may là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU thông qua
các thị trờng Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore. Các
nớc này thờng nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công rồi tái
xuất sang thị trờng EU. Nếu làm phép tính so sánh thì xuất khẩu
trọn gói theo giá FOB sẽ lãi gấp 2 lần so với may gia công. Trung
bình các nhà gia công Việt Nam chỉ nhận đợc khoảng 20% giá
thnhf xuất khẩu, chủ yếu là gia công. Còn lại 80% là của chủ đặt
hàng và các công ty trung gian cung cấp nguyên phụ liệu, mẫu
mã. Nếu tính trên giá bán lẻ chỉ nhận đợc 4%cho một áo sơ mi.
2.3 Một ta còn thiếu vốn và trình độ quản lý. Để thực hiện
biện pháp này nhà nớc cần có chính sách u đãi cho các nhà đầu
t EU. Những u đãi này có thể là u đãi về thuế nhập khẩu công
nghệ, kết hối ngoại tệ, chuyển lợi nhuận Cần thể chế hoá và
quy định cụ thể để hấp dẫn các nhà đầu t số yếu kém của hoạt
động xuất khẩu sản phẩm dệt may.
2.3.1 Sức cạnh tranh cha cao
Tại thị trờng EU thị trờng đợc đánh giá là có nhiều lợi
thế nhất trong số các thị trờng hạn ngạch, đây là thị trờng đợc
đánh giá là Việt Nam có nhiều lợi thế nhất nhng hàng dệt may
Việt Nam lại đang mất dần lợi thế tại thị trờng này. Bị cạnh
tranh gay gắt bởi nhà xuất khẩu dệt may lớn khác là Trung Quốc,
thêm vào đó EU bắt đầu nới lỏng các biện pháp hạn chế hàng
Trung Quốc vào thị trờng này bằng cách bỏ dần hạn ngạch, thuế
chống phá giá Hàng Việt Nam không còn u thế về chất lợng
bởi Trung Quốc đã giải quyết cơ bản vấn đề này hơn thế nữa giá
18
gia công một số sản phẩm may của nớc này thấp hơn của Việt
Nam tới 20%. Không chỉ với Trung Quốc, hàng dệt may của Việt
Nam còn phải cạnh tranh với hàng dệt may từ nhiều nớc khác
nhất là khi EU bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nớc
thành viên của Tổ chức thơng mại thế giới WTO.
Trong cạnh tranh yếu tố trớc hết và quyết định nhất là giá
nhng giá thành hàng dệt may của ta lại cao hơn của đối thủ cạnh
tranh đặc biệt là Trung Quốc. Một số u đãi về thuế đợc Chính
phủ áp dụng cho hàng dệt may xuất khẩu để giảm giá thành sản
phẩm xuống gần bằng mức giá của các đối thủ. Nhng những
quy định về thuế và sự tăng giá nhiều loại phí nh phí cầu đờng,
cảng, giá điện nớc, bu chính viễn thông liên tục tăng làm cho
giá thành hàng dệt may không những không hạ mà còn cao hơn
của đối thủ. Điều này làm cho hàng hoá của ta khó có thể cạnh
tranh.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do:
+ Thứ nhất là, số lợng hạn ngạch Việt Nam đợc hởng
còn rất thấp so với nhiều nớc chỉ bằng 5% của Trung Quốc và
10 - 20% của các nớc ASEAN. Số mặt hàng bị hạn chế bằng
hạn ngạch lớn hơn so với các nớc khác của Vịêt Nam là 29
nhóm trong khi đó của Thái Lan là 20 nhóm, của Singapore là 8
nhóm.
+ Thứ hai là, do hàng của ta không rẻ bằng hàng hoá
của nớc khác nh Trung Quốc, bên cạnh đó mẫu mã của họ lại
phong phú hơn hàng của ta nhiều. Khách hàng yêu cầu thay đổi
mẫu mã trong khi đó các các doanh nghiệp, nhà sản xuất lại
không thay đổi đợc mẫu mã thành ra họ không mua nữa. Nhà
thiết kế Việt Nam cũng cha đáp ứng đợc yêu cầu phát triển của
thời trang công nghiệp nên sản phẩm chủ yếu của ta xuất sang
19
EU tập trung ở một số sản phẩm truyền thống còn những sản
phẩm yêu cầu kỹ thuật cao đang còn bị bỏ trống hạn ngạch đợc
cấp. Thực tế cho thấy còn nhiều chủng loại mặt hàng có hạn
ngạch nhng hiện nay vẫn cha có doanh nghiệp nào sản xuất, đó
là những mặt hàng yêu cầu phải có trang thiết bị kỹ thuật cao,
công nhân lành nghề mà các doanh nghiệp Việt Nam cha đáp
ứng đợc.
+ Thứ ba là, chi phí vận chuyển các sản phẩm dệt may
của Việt Nam sang thị trơng EU khá lớn điều đó làm tăng chi
phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt
Nam.
+ Thứ t là, các doanh nghiệp Việt Nam có quá ít thông
tin về thị trờng, về các đối tác nớc ngoài mà họ hợp tác sản
xuất. Do ít thông tin nên các doanh nghiẹp không thể tiếp xúc
trực tiếp đợc với nhiều khách hàng, tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu
qua khâu trung gian, gia công còn cao. Tuy mạng lới thơng vụ
của ta hầu nh có mặt ở mọi nơi trên thế giới song những thông
tin về thị trờng nói chung và thị trờng buôn bán hàng dệt may
nói riêng đợc họ quan tâm cung cấp về nớc quá ít kể cả một số
thị trờng lớn và truyền thống của Việt Nam nh EU. Các doanh
nghiệp Việt Nam lại nghèo không có đủ chi phí để thờng xuyên
tham gia các hội chợ, triển lãm, các cuộc xúc tiến mậu dịch ở
nớc ngoài, hoặc lập các văn phòng đại diện ở nớc ngoài nên
thông tin quốc tế càng bị hạn chế. Những thay đổi về mẫu mã,
những khuynh hớng thời trang mới chúng ta hoàn toàn không
nắm đợc trớc để chuẩn bị cho sản xuất.
+ Thứ năm là, hầu hết các loại chi phí cho một đơn vị sản
phẩm của ta đều cao hơn so với các nớc trong khu vực và năng
suất lao động nhìn chung chỉ bằng 2/3 so với mức bình quân của
20
các nớc ASEAN. Nhà xởng, thiết bị công nghệ của ngành dệt
may còn lạc hậu cha đáp ứng đợc yêu cầu mới.
2.3.2 Giá trị hàng dệt may xuất khẩu cha tơng xứng
với tiềm năng của các doanh nghiệp.
Bộ Thơng mại cho biết hạn ngạch của thị trờng EU mới
chỉ đáp ứng đợc đáp ứng đợc 30- 35% năng lực sản xuất của
toàn ngành. Ngoài ra nhiều doanh nghiệp ký đợc đơn hàng xuất
khẩu lại không có hạn ngạch để xuất trong khi tỷ lệ sử dụng hạn
ngạch lại rất thấp. Điều này nói lên thực trạng có một lợng hạn
ngạch rất lớn cha xuất đang bị găm, giữ lại ở các doanh nghiệp.
Do đợc xuất khẩu tự động trong một thời hạn nhất định nên các
doanh nghiệp đã ký nhiều đơn hàng xuất khẩu lớn với khách
hàng nhng do không có thông tin nên khi hết hạn ngạch vẫn tiếp
tục ký hợp đồng với đối tác dẫn đến tình trạng cháy hạn nghạch
và mất khách hàng. Chúng ta cha giải quyết đợc vấn đề điều
phối lợng hạn ngạch của doanh nghiệp không có đơn hàng xuất
khẩu cho các doanh nghiệp có đơn hàng nhng không có hạn
ngạch để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này xuất khẩu.
Các doanh nghiệp hiện đang tập trung vào những cat nóng
trong khi những cat nguội và các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật
phức tạp, chất lợng cao cha đợc quan tâm nhiều. Nếu mở rộng
sang sản xuất những sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp thì
các doanh nghiệp có thể tăng đợc lợng hàng xuất khẩu lên một
cách đáng kể.
2.3.2 Một số tồn tại:
- Sản phẩm sau khi đợc đa ra thị trờng lại đợc duy trì
trong một thời gian khá lâu trên thị trờng, chỉ khi nào ngời
tiêu dùng đã chán sản phẩm đó doanh nghiệp mới thôi không sản
xuất nữa.Điều này có tác hại lớn là mặc dầu khi doanh nghiệp
21
phát hiện ra sự đi xuống trong chu kỳ sống của sản phẩm và dừng
lại không sản xuất nữa nhng thực ra trên thị trờng vẫn tồn đọng
một khối lợng sản phẩm cha tiêu thụ đợc. Khác với doanh
nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp nớc ngoài biết kết thúc sản
phẩm ngay khi sản phẩm đang ở đỉnh cao của chu kỳ sống và đa
ra ngay sản phẩm mới khác. Cách làm này giúp cho doanh
nghiệp luôn có sản phẩm mới đề phục vụ kịp thời với nhu cầu hay
đổi của khách hàng.
- Tác động xấu đến hàng dệt may xuất khẩu còn là do
sản xuất nguyên phụ liệu nh: xơ, sợi tổng hợp, bông vải thành
phẩm, dây khoá kéo, cúc chỉ mới đáp ứng đợc 10-15% nhu
cầu. Khâu thiết kế và sản phẩm may mặc còn nhiều hạn chế mẫu
mã nghèo nàn, giá thành cao cha xây dựng đợc một thơng
hiệu mang nét đặc trng và đạt tầm cỡ quốc tế.
- Bên cạnh những đối thủ mạnh, thị trờng EU cũng
đặt ra những tiêu chuẩn về sản phẩm cao đòi hỏi phải có máy
móc hiện đại. Thiết bị của ngành may đã đổi mới đợc khoảng
90 95% nhng khả năng tự động hoá còn yếu. Công nghệ cắt
may lạc hậu so với các nớc trong khu vực.
- Cái yếu của ngành may xuất khẩu chính là do các
doanh nghiệp cha có hình thức mua đứt bán đoạn, cha có sản
phẩm tự thiết kế sản phẩm hoàn chỉnh để đi chào hàng cho các
khách hàng EU.
- Nhiều doanh nghiệp cha áp dụng hệ thống quản lý chất
lợng ISO 9000 và ISO 14000 một tiêu chuẩn gần nh bắt buộc
với tất cả các mặt hàng dệt may nhập khẩu vào EU.
- Chính sách đầu t phát triển ngành dệt may cha hợp lý
nh quy định về thời hạn thu hồi vốn vay đầu t phát triển cho
ngành dệt từ 7 10 năm, ngành may từ 5 7 năm. Thực tế ở