Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.42 KB, 65 trang )

MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
***********
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trên thế giới, khối cộng đồng chung Châu Âu ( EU) là một khối liên
kết các nước mạnh nhất về kinh tế và trở thành một thị trường nhập khẩu rộng lớn
đặc biệt là những mặt hàng tiêu dùng trong đó có sản phẩm dệt may. Việc khai thác
hiệu quả thị trường này sẽ tạo ra được nhiều cơ hội và lợi ích cho Việt Nam như tăng
kim ngạch xuất khẩu, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động trong
ngành dệt may…. Từ lẽ đó, EU đã trở thành một đối tác quan trọng, một thị trường
tiềm năng của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua và những năm
sắp tới.
Đối với Việt Nam, ngành dệt may là một ngành truyền thống có từ lâu đời và
rất phát triển, đóng góp một tỷ trọng lớn vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Các
sản phẩm dệt may đã có mặt ở rất nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên đối với một số
thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản và đặc biệt là EU thì các mặt hàng dệt may của
Việt Nam vẫn gặp những trở ngại lớn.
Với một sân chơi lớn, một thị trường sôi động như EU, thì môi trường cạnh
tranh của các doanh nghiệp càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Nếu các doanh nghiệp
dệt may của Việt Nam không nhanh chóng có những giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh thì sẽ nhanh chóng bị đào thải ra khỏi cuộc chơi của toàn thế giới. Để giải quyết
những vấn đề nan giải như hiện nay, đồng thời cung cấp, hỗ trợ cho các doanh nghiệp
có thêm được nhiều thông tin, giải pháp xác thực.. nhằm tăng cường sức cạnh tranh
vào thị trường EU, em đã quyết định chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường EU”. Hi vọng rằng
đề tài này sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam từng bước phát triển trong hoạt
động xuất khẩu sang thị trường EU và luôn giữ vững được vị trí đó trước những sức
ép cạnh tranh.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc phân tích thực trạng về sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất


2
khẩu Việt Nam và tình hình xuất khẩu sang thị trường EU, chỉ ra những điểm mạnh
điểm yếu của nhóm hàng này so với các đối thủ cạnh tranh khác. Từ đó đưa ra
những giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu
trên thị trường EU.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu là hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu là sức cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
trên thị trường EU xét trong giai đoạn từ 2001– 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,phương pháp so sánh các tư liệu, số liệu về
xuất khẩu và sức cạnh tranh của nhóm hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU.
Qua đó, rút ra các kết luận làm cơ sở để đưa ra các giải pháp cho việc nghiên cứu
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận về sức cạnh tranh của hàng hóa và sự cần thiết
phải nâng cao sức cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trên thị
trường EU
Chương 2: Thực trạng sức cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu của Việt
Nam trên thị trường EU trong thời gian qua
Chương 3: Mục tiêu và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh
của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU trong thời gian tới.

3
CHƯƠ NG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ VÀ SỰ
CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH HÀNG DỆT
MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG EU
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá

1.1.1.1.Khái niệm cạnh tranh
Từ lâu, vấn đề cạnh tranh kinh tế về mặt lý luận đã được các nhà kinh tế học
trước Các Mác và chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đã đề cập
đến. Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất và
trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của các qui
luật thị trường như qui luật giá trị, qui luật cung - cầu hay nói cách khác cạnh tranh là
một trong những qui luật cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Theo C.Mác: “ Phân công xã hội khiến cho những người sản xuất hàng hoá
độc lập trở thành đối lập với nhau, họ không thừa nhận bất kỳ quyền uy nào khác mà
chỉ thừa nhận quyền uy của cạnh tranh, chỉ thừa nhận sự cưỡng chế của áp lực lợi
ích giữa họ với nhau đè nặng lên chính mình”
Ở nước ta, trong quá trình đổi mới nền kinh tế đã có sự thay đổi rất lớn về tư
duy, quan niệm về cạnh tranh. Cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực phát
triển cho nền kinh tế thị trường. Trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng cũng đã ghi
rõ: “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành
mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải
làm phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau”. Trong mục tiêu
tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, Đảng ta khẳng định cần phải nâng cao rõ
rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực tế do cách tiếp cận khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau, nên có
rất nhiều những quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Tuy nhiên, trong đề tài nghiên
cứu này khái niệm cạnh tranh được nhìn nhận và đánh giá dưới góc độ sau: Cạnh
tranh là hành vi hoặc quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế của kinh tế thị trường,
cùng theo đuổi mục đích tối đa hoá lợi ích. Trong cạnh tranh, các chủ thể ganh đua
nhau tìm mọi biện pháp để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông thường các
mục tiêu này là chiếm lĩnh thị trường, giành giật khách hàng, cũng như các điều kiện
4
sản xuất và khu vực thị trường có lợi nhất.
1.1.1.2 Khái niệm về sức cạnh tranh
Điểm lại lý thuyết cạnh tranh và sức cạnh tranh trong lịch sử có thể thấy hai

trường phái tiêu biểu: Trường phái cổ điển (với các đại biểu tiêu biểu như A.Smith,
John Stuart Mill, Darwin và C.Mác), Trường phái hiện đại (với 3 quan điểm tiếp cận:
Tiếp cận theo tổ chức ngành; Tiếp cận tâm lý; Tiếp cận “cạnh tranh hoàn hảo). Hiện
nay, còn nhiều quan điểm khác nhau về sức cạnh tranh, và hiện chưa có một lý thuyết
nào hoàn toàn có tính thuyết phục về vấn đề này. Do đó không có lý thuyết “chuẩn”
về sức cạnh tranh, chúng ta chỉ có thể hiểu rằng: Sức cạnh tranh của một nền kinh tế
là thực lực và lợi thế mà nền kinh tế có thể huy động để duy trì và cải thiện vị trí của
nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới nhằm thu được lợi ích
ngày càng cao cho nền kinh tế của mình.
Tuy nhiên hai hệ thống lý thuyết với hai phương pháp đánh giá được các quốc
gia và các thiết chế kinh tế quốc tế sử dụng nhiều nhất là: Phương pháp thứ nhất do
Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong bản Báo cáo cạnh tranh toàn cầu;
Phương pháp thứ hai do Viện Quốc tế về quản lý và phát triển (IMD) đề xuất trong
cuốn Niên giám cạnh tranh thế giới. Cả hai phương pháp trên đều do một số Giáo sư
đại học Harvard như Michael Porter, Jeffrey Shach và một số chuyên gia của WEF
như Cornelius, Mache Levison tham gia xây dựng.
1.1.2. Phân loại các cấp độ của sức cạnh tranh
Ngày nay khi thị trường hàng hoá càng phát triển thì sự cạnh tranh diễn ra
càng gay gắt. Một chủ thể kinh tế khi tham gia vào thị trường bao giờ cũng phải chịu
sức ép cạnh tranh từ rất nhiều phía khác nhau của nền kinh tế. Dựa vào những quan
sát, các nhà kinh tế học đã phân chia cấp độ của sức cạnh tranh một cách tương đối
bao gồm: sức cạnh tranh của quốc gia, sức cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành, sức
cạnh tranh của sản phẩm trong cùng 1 ngành.
1.1.2.1. Sức cạnh tranh quốc gia
Theo diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 1997: “ Sức cạnh tranh quốc gia là
khả năng nền kinh tế quốc dân đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao về kinh tế,
thu nhập và việc làm”. Sức cạnh tranh của quốc gia được cấu thành từ 8 nhóm yếu tố
chính (với 155 chỉ tiêu ) bao gồm: độ mở của nền kinh tế, vai trò và hiệu lực của
chính phủ, hệ thống tài chính tiền tệ, trình độ phát triển công nghệ, cơ sở hạ tầng,
trình độ quản lý của doanh nghiệp, số lượng và chất lượng lao động và trình độ phát

5
triển của thể chế.
Theo công bố mới đây trong báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2006-2007
của Diễn đàn kinh tế thế giới, thứ hạng của Việt Nam xếp theo Chỉ số năng lực cạnh
tranh tổng hợp là 77 trên 125 quốc gia, Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng là 86.
Trong khi đó thứ hạng tương ứng theo các chỉ số trên của Việt Nam tại báo cáo năm
2005-2006 là 74 và 81. Như vậy, thứ hạng của Việt Nam theo các chỉ số năng lực
cạnh tranh tổng hợp và tăng trưởng năm 2006 đều sụt giảm so với năm 2005.
1.1.2.2. Sức cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp
Trong những năm vừa qua các doanh nghiệp của Việt Nam đang dần dần lớn
mạnh và đang trên đà phát triển. Song chúng ta vẫn nhận thấy còn rất nhiều vấn đề
đáng lo lắng và một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất hiện nay là về việc nâng
cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Để giải quyết
được vấn đề về sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời kì hội nhập, chúng ta cần
phải nắm thật rõ khái niệm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thực chất sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo cách đơn giản nhất có thể hiểu
là “ khả năng nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được “. Vì
vậy khi thị phần tăng lên, cho thấy sức cạnh tranh cũng đựơc nâng cao. Sức cạnh
tranh của doanh nghiệp còn là khả năng hãng đã bán được hàng nhanh và nhiều hơn
so với đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ thể về một loại hàng hoá cụ thể.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của OECD định nghĩa sức cạnh
tranh là: “ khả năng của doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực tạo ra
thu nhập tương đối cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn đối
mặt với cạnh tranh quốc tế ”.
Trên thực tiễn ở Việt Nam, khi đánh giá về khả năng cạnh tranh tầm vi mô, các
so sánh quốc tế đều ghi nhận thành tựu trung bình của Việt Nam vào tốp 3 trong ngũ
phân vị (xếp thứ 38/80 nước), nhất là đánh giá tốt việc triển khai mạnh các dự án FDI
kèm theo chuyển giao công nghệ và việc thi hành Luật Doanh nghiệp, tạo điều kiện
thuận lợi cho khu vực ngoài Nhà nước phát triển bình đẳng vì sự nghiệp phát triển
đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều lĩnh vực chỉ tiêu hiệu quả của Việt Nam còn rất

kém.
1.1.2.3. Sức cạnh tranh của hàng hoá
Sức cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ nào đó trên thị
6
trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt hay tính hơn hẳn của nó cả về
định tính và định lượng.Nói cách khác, cạnh tranh giữa các sản phẩm trên thị trường
là quá trình thể hiện khả năng hấp dẫn tiêu dùng của các sản phẩm đối với khách
hàng trên một thị truờng cụ thể và trong một thời gian nhất định.
Cuối cùng, sức cạnh tranh của sản phẩm còn có thể hiểu là sự vượt trội so với
các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia
cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản
phẩm mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả
năng cạnh tranh cao hơn.
Nhìn chung, để nâng cao được sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp/ ngành thì
điều quan trọng nhất là phải nâng cao chất lượng sản phẩm và lấy sức cạnh tranh của
sản phẩm làm nền tảng phát triển. Bởi lẽ, sản phẩm đại diện cho doanh nghiệp trên
thị trường, do vậy sức cạnh tranh của sản phẩm chính là một phần tạo tiền đề hình
thành nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sức cạnh tranh của quốc
gia và sức cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành cũng gắn bó rất mật thiết và phụ thuộc
lẫn nhau. Một quốc gia có vị thế cạnh tranh tốt trên trường quốc tế sẽ giúp các doanh
nghiệp dễ dàng thâm nhập vào các thị trường quốc tế hơn, từ đó xây dựng được sức
cạnh tranh cho doanh nghiệp/ngành được tốt hơn. Nói cách khác, sức cạnh tranh của
quốc gia là một điều kiện đủ để sức cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành được nâng
cao. Ngược lại, khi các doanh nghiệp/ngành có một sức cạnh tranh tốt thì sẽ thu được
nhiều lợi nhuận, đem lại nguồn thu lớn cho kinh tế của quốc gia, tác động tích cực
đến nền kinh tế, từ đó cũng góp phần nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia dưới con
mắt của bạn bè năm châu. Qua đó, chúng ta thấy được, mối quan hệ hết sức mật thiết
của 3 cấp độ cạnh tranh trên. Việc phân loại hoàn toàn mang tính chất tương đối.
1.1.3. Tiêu chí đánh giá sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu
Để đánh giá sức cạnh tranh của một mặt hàng, chúng ta có rất nhiều tiêu chí xét

ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên đặt trong phạm vi bài nghiên cứu về các sản
phẩm xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, thì để đánh giá tổng quát về sức cạnh tranh
của hàng hóa chúng ta cần so sánh các sản phẩm đó với các đối thủ cạnh tranh dựa
trên những tiêu chí cơ bản như: doanh thu của sản phẩm, thị phần của sản phẩm, giá,
chi phí của sản phẩm, chất lượng sản phẩm, mức độ vệ sinh và uy tín của sản phẩm.
1.1.3.1. Mức doanh thu hàng dệt may xuất khẩu
Doanh thu của một sản phẩm nào đó qua các năm là một chỉ tiêu trực tiếp
7
phản ánh sức cạnh tranh của 1 loại hàng hóa, bởi số lượng tiêu thụ của hàng hóa thể
hiện sức hấp dẫn của nó trong mắt người tiêu dùng. Qua đó người ta có thể đánh giá
được sức cạnh tranh của hàng hóa này so với hàng hóa khác. Khi một hàng hóa được
tiêu thụ với số lượng nhiều hơn so với các hàng hóa cùng loại thì hàng hóa đó được
coi là có sức cạnh tranh cao trên thị trường đang xét.
Theo kinh tế học vi mô, doanh thu được xác định bởi công thức sau:
TR= P.Q
Trong đó
TR: Doanh thu
P : Giá của sản phẩm
Q : Lượng tiêu thụ sản phẩm.
1.1.3.2. Thị phần hàng dệt may xuất khẩu
Nếu một hàng hóa chiếm được một thị phần cao hơn so với các mặt hàng thay
thế cùng loại trên thị trường thì có thể tất yếu khẳng định sức cạnh tranh của hàng
hóa đó là rất cao. Hiện nay thị phần có thể được hiểu là thị phần trong nước và thị
phần chiếm lĩnh trên thế giới. Bên cạnh đó, một hàng hóa của một doanh nghiệp có
sức cạnh tranh lớn khi nó có khả năng thâm nhập và chiếm lĩnh được nhiều thị trường
khác nhau một cách nhanh hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác. Đặc biệt là phải
liên tục giữ vững và duy trì được thị phần của mình.
Để xác định qui mô thị trường thị phần, chúng ta có công thức tính thị phần của
hàng hóa xuất khẩu trên một thị trường như sau:
MS =

%100x
M
MA

Trong đó:
MS là thị phần của hàng hóa.
MA là số lượng hàng hóa A được tiêu thụ trên thị trường
M là tổng số lượng hàng hóa cùng loại được tiêu thụ trên thị trường.
Việc xác định chỉ tiêu này sẽ phản ánh một cách đúng nhất thị phần của một
loại hàng hóa trên thị trường so với các loại hàng hóa cùng loại. Chỉ tiêu đánh giá ở
trên càng lớn tương ứng với việc thị phần của hàng hóa đó chiếm lĩnh càng lớn thì
sức cạnh tranh của hàng hóa càng lớn, và nguợc lại hàng hóa sẽ có sức cạnh tranh yếu
kém nếu thị phần của nó chỉ chiếm một phần nhỏ không đáng kể trên thị trường.
1.1.3.3.Chi phí sản xuất và giá hàng dệt may xuất khẩu
8
Cạnh tranh bằng chi phí có thể được coi là một xuất phát điểm, một nguyên
nhân chính dẫn đến quá trình cạnh tranh trên thị trường. Chi phí được tính ở hầu như
tất cả các khâu từ sản xuất, phân phối,….Tuy nhiên chi phí chỉ là điều kiện cần, điều
kiện ban đầu để đem lại tiền đề vững chắc nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản
phẩm.
Trên thị trường hàng hóa, giá cả của hàng hóa có thể được sử dụng như một
chiến lược để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Thực tế cho thấy chiến lược giá
cả đã đem đến thành công cho rất nhiều công ty như hãng hàng không Southwest của
Hoa Kỳ, công ty bách hóa tổng hợp lớn nhất thế giới Wal- Mart thành công với chiến
lược giá cả thấp... Các công ty có thể đặt giá sản phẩm thấp hơn giá thị trường để
chấp nhận mức lãi suất thấp nhưng bù lại có được số lượng tiêu thụ sản phẩm lớn, và
từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm với người tiêu dùng. Tuy nhiên những
công ty đi đầu về giá cả thấp cũng không thể bất cẩn vì rất có thể sẽ có một công ty
khác với giá cả thấp hơn sẽ bất thình lình xuất hiện trên thị trường, làm mức độ cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường càng trở nên gay gắt.Việc cân đối chênh lệch giữa

hai yếu tố này là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
giữa các đối thủ khác nhau trên cùng một thị trường hoặc ở các thị trường khác nhau.
Bằng việc sẽ tính được mức chênh lệch giữa giá bán và chi phí để từ đó có giải
pháp cân đối 2 yếu tố này một cách hợp lý nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong việc
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
1.1.3.4. Chất lượng hàng dệt may xuất khẩu
Tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa được qui định theo ISO9000. Nhằm đảm
bảo lợi ích cho người tiêu dùng, tránh tình trạng bị sử dụng những hàng hóa kém chất
lượng. Đây là hệ thống tiêu chuẩn quốc tế được coi là không bắt buộc, tuy nhiên các
sản phẩm khi được có bằng ISO 9000 sẽ nâng cao được sức cạnh tranh hơn rất nhiều
so với các sản phẩm khác. Bởi lẽ, điều đó thể hiện sự ổn định về chất lượng của sản
phẩm, sự minh bạch trong sản xuất của doanh nghiệp và tạo được lòng tin với người
tiêu dùng.
Bên cạnh hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, mỗi quốc gia đều có những
hệ thống đánh giá chất lượng sản phẩm riêng. Vì vậy, những sản phẩm ngoài việc có
bằng ISO 9000 còn có thể thực hiện việc công nhận các tiêu chuẩn chất lượng của
nước nhập khẩu để từ đó tạo được uy tín lớn hơn từ phía thị trường nhập khẩu.
1.1.3.5. Mức độ vệ sinh công nghiệp, đảm bảo môi trường của hàng dệt may
9
xuất khẩu
Hiện nay nhà nước và các tổ chức quốc tế đã đưa ra các qui định nhằm đánh
giá và đảm bảo an toàn cho người sử dụng hàng hóa, bảo vệ môi trường sinh thái và
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong thương mại quốc tế. Các qui định này
thường được cụ thể hóa qua các tiêu chuẩn như sau:
Tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái: Được qui định trong tiêu chuẩn
ISO14000. Trong đó qui định đối với các cơ sở sản xuất ngoài việc đảm bảo chất
lượng sản phẩm còn phải có tránh nhiệm và các biện pháp giải quyết đối với các chất
phế thải gây ô nhiễm môi trường và việc khai thác nguồn nguyên liệu tránh tình trạng
mất cân bằng sinh thái.
Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội: là hệ thống tiêu chuẩn SA8000. Trong đó,

qui định đối với các cơ sở sản xuất phải đảm bảo điều kiện làm việc đủ tiêu chuẩn vệ
sinh an toàn, trách nhiệm bình thường cho người lao động, đảm bảo quyền lợi và lợi
ích theo các qui định của tổ chức lao động quốc tế và liên hiệp quốc đã đưa ra. Đồng
thời, cấm việc sử dụng lao động cưỡng bức, lao động trẻ em và lao động quá tuổi để
tham gia sản xuất sản phẩm.
1.1.3.6. Mức độ uy tín hàng dệt may xuất khẩu trên thị trường
Theo tâm lý người tiêu dùng, điều gì sẽ khiến họ thực sự tin tuởng vào một
sản phẩm và để họ đưa ra được quyết định mua sản phẩm đó? Ta thấy rằng, bên cạnh
những yếu tố như giá cả, mẫu mã, chất lượng,…. một yếu tố cũng góp phần đáng kể
vào quyết định của người tiêu dùng chính là uy tín hay thương hiệu của sản phẩm
trên thị trường. Tỉ lệ phần trăm số luợng khách hàng mua sản phẩm có uy tín và
thuơng hiệu sẽ cao hơn rất nhiều so với các sản phẩm chưa có vị thế và thương hiệu
trên thị trường. Tuy nhiên, uy tín của sản phẩm trên thị trường không thể chỉ xây
dựng trong một thời gian ngắn hạn mà nó còn thể hiện cả một quá trình dài cố gắng
xây dựng thương hiệu, cố gắng hoàn thiện không ngừng sản phẩm, dịch vụ chăm sóc
khách hàng để sản phẩm luôn tồn tại trong tâm trí người tiêu dùng. Chính vì những lẽ
đó, so sánh mức độ uy tín của sản phẩm trên thị trường cũng là một trong những tiêu
chí để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa.
1.1.4. Các công cụ thường dùng để nâng cao sức cạnh tranh hàng dệt
may xuất khẩu
Căn cứ vào những tiêu chí đánh giá về sức cạnh tranh của hàng hóa,chúng ta dễ
dàng gặp được những công cụ thường dùng tương ứng nhằm mục đích nâng cao sức
10
cạnh tranh của hàng hóa. Ví dụ như cạnh tranh về chất lượng sản phẩm như thay đổi
kiểu dáng, mẫu mã cho bắt mắt của người tiêu dùng, điều chỉnh lại công thức chế
biến …. Tuy nhiên, sẽ không quá ngạc nhiên nếu một sản phẩm khác lại có khả năng
cạnh tranh mạnh hơn hẳn và đánh bật các đối thủ chỉ nhờ vào công cụ định giá sản
phẩm thấp hơn giá thị trường và bằng với giá kì vọng của khách hàng. Vậy đâu là
công cụ sẽ đem lại hiệu quả nhất? Thực chất, để nâng cao được sức cạnh tranh của
hàng hóa, chúng ta cần biết cách sử dụng linh hoạt đồng thời các công cụ khác nhau.

Sau đây là 3 công cụ chính:
1.1.4.1 Cạnh tranh bằng chất lượng hàng dệt may xuất khẩu
Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng
của các doanh nghiệp trên thị trường. Trong điều kiện hiện nay, mức sống của người
dân ngày càng đựơc nâng cao, tức là nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu
dùng tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu hướng thay vị trí cho sự
cạnh tranh bằng chất lượng.
Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong điều kiện
nhất định về kinh tế kỹ thuật thể hiện ở nhiều mặt khác. Do vậy để nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm, doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vững và không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm như đáp ứng được đầy đủ tiêu chuẩn về chất lượng của nhà
nước, các tổ chức, các thị trường qui định.
Bên cạnh đó chất lượng sản phẩm còn phải đem lại lợi ích tiêu dùng tối đa và
đạt được kì vọng tối đa cho khách hàng. Khi đó người tiêu dùng sẽ tăng khối lượng
hàng hóa tiêu thụ, tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Đó là điều kiện không thể thiếu nếu doanh nghiệp muốn giành được thắng lợi
trong cạnh tranh đi đầu về chất lượng. Khi chất lượng không còn được đảm bảo,
không thoả mãn nhu cầu khách hàng thì ngay lập tức khách hàng sẽ rời bỏ doanh
nghiệp và kết quả này sẽ thể hiện rõ ràng nhất sự tụt giảm sức cạnh tranh của hàng
hóa, và doanh nghiệp đó..
1.1.4.2. Cạnh tranh bằng giá bán hàng dệt may xuất khẩu
Giá cả sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay
doanh nghiệp bán dự định có thể nhận được từ người mua thông qua việc trao đổi
hàng hoá đó trên thị trường.Hiện nay, có rất nhiều cách để định giá bán sản phẩm.
Các cách thường sử dụng bao gồm:
Thứ nhất, chính sách định giá thấp là cách định giá bán thấp hơn mức giá thị
11
trường. Chính sách định giá thấp có thể hướng vào các mục tiêu khác nhau, tuỳ theo
tình hình sản xuất của thị trường và đựơc chia ra theo các cách khác nhau như: (1)
Định giá thấp hơn so với thị trường nhưng cao hơn giá trị sản phẩm(2) Định giá bán

thấp hơn giá thị trường và cũng thấp hơn giá trị sản phẩm
Thứ hai là chính sách định giá cao tức là mức giá bán cao hơn mức giá thống
trị trên thị trường và cao hơn giá trị sản phẩm. Chính sách định giá cao được áp dụng
trong rất nhiều trường hợp (1) Khi sản phẩm mới tung ra thị trường, người tiêu dùng
chưa biết rõ chất lượng của nó, chưa có cơ hội để so sánh về giá áp dụng giá bán cao
sau đó giảm dần; (2) Khi doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, áp
dụng giá cao (giá độc quyền ) để thu lợi nhuận độc quyền; (3) Áp dụng với các sản
phẩm thuộc loại cao cấp, hoặc sản phẩm có chất lượng đặc biệt tốt phù hợp với người
tiêu dùng thuộc tầng lớp thượng lưu; (4) Đối với các sản phẩm thuộc loại không
khuyến khích người tiêu dùng mua, áp dụng giá bán cao để thúc đẩy họ tìm sản phẩm
thay thế.
Thứ ba là chính sách ổn định giá bán tức là giữ nguyên giá bán theo thời kỳ và địa
điểm. Chính sách này giúp doanh nghiệp thâm nhập, giữ vững và mở rộng thị trường.
Thứ tư là chính sách định giá theo giá thị trường. Đây là cách định giá phổ
biến của các doanh nghiệp hiện nay tức là giá bán sản phẩm xoay quanh mức giá thị
trường của sản phẩm đó.
Thứ năm là chính sách giá phân biệt. Với cùng một loại sản phẩm nhưng doanh
nghiệp định ra nhiều mức giá khác nhau
Thứ sáu là chính sách bán phá giá. Đây là chính sách định mức giá bán thấp
hơn hẳn giá thị trường và thấp hơn cả giá thành sản xuất. Mục tiêu của bán giá là tối
thiểu hoá rủi ro hay thua lỗ hoặc để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội mức sống của người
dân không ngừng nâng cao, giá cả không còn là công cụ cạnh tranh quan trọng nhất
của doanh nữa nhưng nếu doanh nghiệp biết kết hợp công cụ giá với các công cụ
khác thì kết quả thu được sẽ rất to lớn.
1.1.4.3. Cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ hàng dệt may xuất khẩu
Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, sản xuất tốt chưa
đủ để khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của mình, mà còn phải biết tổ chức
mạng lưới bán hàng, đó là tập hợp các kênh đưa sản phẩm hàng hoá từ nơi sản xuất
12

đến người tiêu dùng sản phẩm ấy. Thông thường kênh tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp được chia thành: A là kênh trực tiếp ngắn, từ doanh nghiệp đưa sản phẩm đến
tay người tiêu dùng, B là kênh trực tiếp dài ( từ DN tới người bán lẻ, sau đó đến tay
người tiêu dùng), C là kênh gián tiếp ngắn ( từ DN tới các đại lý, tiếp đó phân tới các
người bán lẻ và sau cùng đến tay người tiêu dùng).
Bên cạnh đó, để thúc đẩy quá trình bán hàng. doanh nghiệp có thể tiến hành một
loạt các hoạt động hỗ trợ như: Tiếp thị, quảng cáo, yểm trợ bán hàng, tổ chức hội
nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế....
Cho đến nay, nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm đang dần trở thành một chính sách
tốt và chiếm ưu thế, thậm trí quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp trên thị
trường. Trước nhất là làm tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá thông qua việc thu hút sự
quan tâm của khách hàng tới sản phẩm của doanh nghiệp. Tiếp theo là cải thiện vị trí
hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường ( thương hiệu, chữ tín của doanh nghiệp).
Cuối cùng là mở rộng quan hệ làm ăn với các đối tác trên thị trường, phối hợp với
các chủ thể trong việc chi phối thị trường, chống hàng giả.
1.1.5. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh hàng dệt
may xuất khẩu
1.1.5.1. Đặc điểm của hàng dệt may xuất khẩu
Đặc trưng của sản phẩm dệt may là loại sản phẩm có yêu cầu mặt hàng phong
phú, đa dạng tùy thuộc vào thị hiếu, văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo, địa lý,
khí hậu, giới tính, tuổi tác và thu nhập của người tiêu dùng của thị trường nhập khẩu.
Sản phẩm dệt may xuất khẩu mang tính thời trang cao, vì vậy phải thường
xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng được tâm lý
chuộng cái mới, có những nét độc đáo riêng và gây ấn tượng đối với người tiêu dùng.
Ngoài ra, khi buôn bán các sản phẩm dệt may còn rất chú trọng đến yếu tố
thời vụ trong năm. Vì hàng hóa xuất khẩu đến các thị trường khác nhau thì có thời
tiết và khí hậu khác nhau.
Dệt may còn là ngành thu được lợi nhuận cao, thời gian thu hồi vốn tương đối
nhanh do qui mô vốn đầu tư thấp ( ngành may là 2,6triệu USD/dự án, ngành dệt đạt
trên 16triệu USD/dự án).

Cuối cùng, đặc điểm của hàng dệt may là một trong những ngành đóng góp
chủ chốt và tạo công ăn việc làm, thu hút một lượng lớn lao động so với các ngành
13
khác. Theo tổng Cục Thống kê, năm 2006 số lượng lao động của ngành dệt may
chiếm 82,75% so với các ngành thủy sản, điện tử, ô tô, vận tài biển, ngân hàng, viễn
thông, bảo hiểm.
1.1.5.2. Các nhân tố đặc trưng ảnh hưởng đến sức cạnh tranh hàng dệt may
xuất khẩu
Việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến sức cạnh tranh của hàng xuất
khẩu là rất cần thiết. Qua đó, chúng ta có thể đưa ra những giải pháp liên quan đến
nhân tố nào để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu.
a. Cho đến nay, không ai có thể phủ nhận được vai trò và vị trí quan trọng của
yếu tố chất lượng sản phẩm trong cạnh tranh. Bởi lẽ
Chất lượng là một yếu tố cấu thành nên sản phẩm và tạo nên giá trị sử dụng cho
sản phẩm đó. Đây là một trong những tiêu chí ban đầu để người mua đưa ra quyết
định tiêu dùng của mình. Thuộc tính này không loại trừ bất kì một loại hàng hóa nào,
trong đó có cả hàng dệt may.
Một doanh nghiệp không thể phát triển bền vững nếu không quan tâm đến vấn
đề chất lượng của sản phẩm. Khi chất lượng của hàng hóa được nâng cao và thỏa
mãn được nhu cầu của người tiêu dùng thì sự tác động sẽ trở nên rất mạnh mẽ đến
sức cạnh tranh của mặt hàng đó trên thị trường. Và đây chính là sự lựa chọn phát
triển theo chiều sâu của doanh nghiệp và là một lựa chọn thông minh và đúng đắn.
Đặc biệt khi đưa sản phẩm vượt biên giới đến với tay của những người tiêu dùng của
các nước khác như sản phẩm dệt may xuất khẩu.
b. Khi ta đặt mình vào một thị trường với rất nhiều đối thủ cạnh tranh thì giá
cả luôn giữ một vai trò tương đối quan trọng
Thực tế khi các doanh nghiệp cung ứng những sản phẩm cùng loại thì vẫn
luôn xuất hiện tình trạng giá cả chênh lệch với nhau. Đặt giả thiết những sản phẩm
này tương đối giống nhau về mẫu mã, chất lượng, dịch vụ liên quan thì ngay lập tức
nguời tiêu dùng sẽ lựa chọn những sản phẩm phù hợp với túi tiền của họ. Bởi lẽ, mức

độ tiêu dùng của khách hàng bị phụ thuộc rất nhiều vào nguồn thu nhập của chính
bản thân họ và chỉ khi đạt được cả 2 điều kiện là đạt lợi ích tiêu dùng và trong giới
hạn ngân sách cho phép. Khi đó khách hàng mới chấp nhận trao đổi buôn bán.
Cho đến nay, qua quá trình so sánh, giá hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
luôn đạt ở mức giá khá cao so với các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc - một nước
14
xuất khẩu hàng dệt may giá rẻ hàng đầu trên thế giới. Chính điều đó đã là nhân tố tác
động lớn đến sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, khiến sức cạnh tranh của
mặt hàng này luôn giữ ở vị trí trung bình khó đứng vững trên thị trường đầy biến
động như hiện nay.
c.Thế giới là tập hợp của hàng trăm quốc gia khác nhau.Mỗi quốc gia lại mang
những đặc trưng văn hóa và thị hiếu tiêu dùng khác nhau.
Sức mua của hàng hóa thể hiện sức hấp dẫn và mức độ ưa thích của người tiêu
dùng đến sản phẩm đó.Khi sản phẩm phù hợp với thị hiếu, phong cách và xu hướng
tiêu dùng của họ thì tỉ lệ phần trăm họ lựa chọn mua sản phẩm sẽ khá cao.
Mặt khác, một doanh nghiệp khi tham gia vào một thị trường mới thì việc
nghiên cứu thị trường để từ đó hình thành một hệ thống, nắm bắt được tổng hợp các
xu hướng tiêu.Việc nghiên cứu này, sẽ giúp cho doanh nghiệp hiểu rất rõ việc mình
phải làm, cần làm, để đạt được mục tiêu và thị phần trên thị trường, và nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm.
d. Yếu tố thời tiết cũng là một trong những yếu tố rất đặc trưng của hàng dệt
may xuất khẩu
Như đã đề cập ở trên, thế giới là tổng hòa của rất nhiều những yếu tố khác nhau
cấu thành. Mỗi nước lại có một khí hậu thời tiết riêng biệt. Vì vậy yếu tố thời vụ
đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hàng dệt may xuất khẩu. Thời tiết của mỗi
quốc gia nhập khẩu sẽ liên quan đến chủng loại mặt hàng dệt may sử dụng trên thị
trường. Chúng ta sẽ chỉ đạt được hiệu quả doanh thu cao, một sức cạnh tranh lớn khi
hiểu biết rõ về khí hậu luân chuyển của thị trường đang hướng tới.
Ngoài ra, một vấn đề cũng rất đáng chú ý là sự chậm trễ trong việc vận
chuyển. Sẽ dẫn tới một trường hợp không mong muốn là khi hàng dệt may được

chuyên chở đến nơi thì thời tiết đã chuyển mùa và hàng hóa lúc đó bất đắc dĩ sẽ khó
có thể tiêu thụ được. Do vậy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần nhanh nhạy
hơn về các thông tin của thị trường và có hình thức chuyên chở nhanh chóng để tránh
ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa.
e. Tính thương hiệu là một yếu tố gắn liền và có ảnh hưởng trực tiếp đến
hàng dệt may xuất khẩu
Ngay nay, quá trình cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Do vậy hàng hóa
không chỉ cần có một chất lượng tốt, một giá thành hợp lý, cùng các yếu tố khác đã
15
nêu ở trên là đủ mà còn cần phải có một uy tín và thương hiệu trên thị trường. Một
hàng hóa càng có uy tín cao nhãn hiệu càng nổi tiếng thì khách hàng càng ưa chuộng
và đặt lòng tin hoàn toàn vào sản phẩm họ chọn mua. Điều này hoàn toàn đúng ở các
thị trường lớn như các nước phát triển.
Các doanh nghiệp của Việt Nam vẫn chưa có hoặc có rất ít thương hiệu quốc
tế nổi tiếng. Thông thường các doanh nghiệp Việt Nam thường làm công xuất khẩu
cho các nuớc khác và các sản phẩm đó được đóng nhãn mác là sản phẩm của nước đi
thuê gia công. Những trường hợp đó xảy ra rất nhiều với mặt hàng dệt may xuất khẩu
và trở thành một hình thức thông thường của quá trình xuất khẩu sản phẩm này ra thị
trường nước ngoài. Đó là nguyên nhân của việc sức cạnh tranh của các sản phẩm dệt
may Việt Nam chỉ được đánh giá rất thấp và gặp nhiều trở ngại khi tiến vào các thị
trường khó tính như EU.
1.1.6. Kinh nghiệm của một số nước về nâng cao sức cạnh tranh hàng dệt
may xuất khẩu trên thị trường EU
Với mục đích có được định hướng và giải pháp đúng đắn để phát triển mặt
hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường EU, dưới đây bài nghiên cứu xin được đề cập
đến một số kinh nghiệm của các nước xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU đã
đạt được thành công trong thời gian qua như Inđônêsia, Trung Quốc, Ấn Độ.... và để
từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trên con đường phát triển.
1.1.6.1. Chính sách và kinh nghiệm của Indonesia
Ngành dệt may hiện nay của Indonesia được đánh giá là một trong những ngành

công nghiệp có triển vọng và được Chính phủ quan tâm hỗ trợ . Indonesia là nước có
số lượng sản phẩm dệt may đứng thứ ba sau Trung quốc và Ấn độ, hàng may mặc
xuất khẩu chiếm thị phần 1,7% ( xếp thứ 9) và có mặt ở trên 200 nước. Sự phát triển
của ngành dệt may xuất khẩu của Inđonêxia trong thời gian qua là nhờ vào những
chiến lược đúng đắn của nhà nước, bao gồm:
Chiến lược thứ nhất là cơ cấu lại máy móc tại các nhà máy do máy móc quá cũ
hoặc lạc hậu. Để thực hiện chiến lược này Bộ Công nghiệp Indonesia và Ngân hàng
Trung ương Indonesia (BI) đã thành lập một nhóm công tác nhằm tìm cách đổi nguồn
vốn ngắn hạn hiện có tại BI thành nguồn vốn trung và dài hạn thông qua các kỹ thuật
ứng dụng tài chính do việc tái cơ cấu máy móc cần các nguồn vốn trung và dài hạn.
Đây là một bước tiến nhảy vọt về công nghệ, nhằm bắt kịp với sự thay đổi chóng mặt
của các công nghệ hiện đại trên thế giới.
16
Bước chiến lược thứ hai, chính phủ sẽ hỗ trợ bảo đảm việc cung cấp các nguyên
vật liệu chính cho ngành dệt may, trong đó có các sản phẩm hoá dầu hiện khá khan
hiếm. Việc làm này đã giúp các doanh nghiệp phần nào giảm đi được gánh nặng về
chí phí nguyên vật liệu sản xuất. Từ đó, tăng mức chênh lệch giữa giá cả và chi phí
và đem lại tác động tích cực đến sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thế giới.
Thứ ba, chính phủ nỗ lực nhằm bảo hộ ngành công nghiệp trong nước trước
môi trường kinh doanh không lành mạnh như buôn, nhập lậu ồ ạt hàng may mặc. Ông
Fahmi cho rằng, cần siết chặt cơ chế nhập khẩu hiện nay và yêu cầu số hàng hoá này
phải đi qua “ cửa đỏ “ của hải quan ( hàng hoá cần khai báo). Bộ Công nghiệp nước
này cũng tìm cách ngăn chặn hiện tượng chuyển tải “ ma” các sản phẩm may mặc
của Trung Quốc qua Indonesia, nghĩa là chỉ các chứng từ xuất khẩu “ quá cảnh” của
Indonesia, trong khi hàng hoá lại được xuất thẳng từ Trung Quốc. Để ngăn chặn tình
trạng này, Bộ Công nghiệp đã hợp tác với các cơ quan liên quan nhằm thẩm tra xem
hàng hoá có thực sự được xuất khẩu từ Indonesia hay không và đánh giá mức độ
buôn lậu dưới hình thức quá cảnh. Đây là một hình thức bảo vệ các ngành sản xuất
trong nước, để tạo nên một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp
trong nước, và từ đó tạo đà cho các doanh nghiệp tăng sức bật cạnh tranh so với các

đối thủ khác.
Thứ tư, Bộ Công nghiệp sẽ khuyến khích các công ty dệt may tăng cường sản
xuất các mặt hàng có giá trị cao từ sợi tự nhiên như lụa và chính phủ sẽ hỗ trợ bằng
một kế hoạch tổng thể phát triển ngành sản xuất lụa quốc gia. Với kế hoạch đổi mới
này trong ngành dệt may xuất khẩu, Indonesia sẽ có được một đặc trưng riêng cho
sản phẩm. Đó là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của
sản phẩm.
1.1.6.2.Chính sách và kinh nghiệm của Trung Quốc
Hiện nay Trung Quốc là cường quốc hùng mạnh nhất thế giới trong lĩnh vực dệt
may. Với nguồn cung cấp nguyên liệu bông, len, sơ sợi, vải, máy móc thiết bị, hóa
chất, thuốc nhuộm cho đến nguồn lực lao động, Trung Quốc đã tạo được khả năng
cạnh tranh rất lớn và trở thành nhà cung cấp dệt may lớn nhất của EU. Năm 2003
lượng hàng dệt may xuất khẩu của Trung quốc sang EU chiếm 17,5% so với tổng
lượng hàng dệt may được nhập khẩu tại đây. Năm 2005, chủ yếu là tăng nhập khẩu
hàng Trung Quốc trên quy mô lớn (chiếm 71%), trong khi hàng sản xuất của Mỹ lại
17
giảm từ 2,6 tỉ đơn vị năm 2004 xuống còn 2,2 tỉ. Đến nay Trung Quốc đã chiếm 28%
thị phần hàng dệt may xuất khẩu trên toàn thế giới. Để vươn lên vị trí đứng đầu như
hiện nay về xuất khẩu dệt may, Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp căn bản
sau:
Nhờ vào chính sách hỗ trợ của nhà nước như: năm 1998/1999 trợ giá cho mỗi
kg bông 0,60 USD (giá bông lúc đó khoảng 1,2 USD), ngoài ra còn hỗ trợ và khuyến
khích các mặt hàng xuất khẩu thông qua tỷ giá, cước phí vận tải… nên hàng dệt may
Trung Quốc dễ dàng đánh bại hàng cùng loại của bất cứ nước nào.
Để chuẩn bị cho giai đoạn hậu hạn ngạch ( hiệp định dệt may ATC hết hiệu lực
sau ngày 31/12/2004), từ năm 1998, Trung Quốc đã tiến hành nhiều chính sách cải
cách để phát triển ngành dệt may mạnh mẽ hơn như: mạnh dạn tư nhân hóa, cho phá
sản các DN Nhà nước làm ăn thua lỗ, đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ mới,
dám loại bỏ 10 triệu cọc sợi trong 3 năm 1998-2000, chuyển hơn 1,2 triệu người sang
làm việc khác hoặc đào tạo lại, thu hút đầu tư nước ngoài để thúc đẩy năng lực cạnh

tranh. Kết quả của sự chuẩn bị này đã nâng mức kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
của Trung Quốc lên 50 tỷ USD trong năm 2000, tăng 30% so năm 1999. Năm 2003
đạt khoảng 70 tỷ USD, tăng 12% so năm 2002. Nếu các nước nhập khẩu không có
những rào cản mới Trung Quốc có thể dễ dàng đạt 100 tỷ USD (không kể Hồng
Kông và Ma Cao) trong tổng kim ngạch thương mại dệt may thế giới 350 tỷ USD vào
năm 2005.
Dù các nước nhập khẩu có Luật Chống bán phá giá hoặc có điều khoản “tự vệ
đặc biệt” có thể áp đặt hạn ngạch khi cần thiết như Hoa Kỳ, song cũng không mấy dễ
dàng cản trở Trung Quốc, vì nước này đã trở thành thành viên của WTO, nhiều DN
Hoa Kỳ đã đầu tư vào Trung Quốc. Việc chống lại hàng dệt may Trung Quốc khi đó
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính quyền lợi của người Mỹ.Các nhà phân tích khẳng
định, kể cả Mỹ và EU cũng không thể ngăn chặn được Trung Quốc chiếm lĩnh thị
trường dệt may trong những thập kỷ tới như Nhật Bản hiện nay (khoảng 80% thị
phần).
1.1.6.3 Chính sách và kinh nghiệm của một số nước khác
Một số nước có khả năng cạnh tranh hàng dệt may cao cũng đã có sự chuẩn bị
cho mình. Để có được những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, bài nghiên cứu
tổng hợp một số chính sách đặc trưng của một số nước như Ấn Độ, Parkistan,
ASEAN...như sau
18
Ấn Độ với mức xuất khẩu mặt hàng dệt may sang EU chiếm 27,38% trong tổng
lượng hàng xuất khẩu, hiện đang triển khai chương trình hiện đại hóa ngành dệt với
giá trị 6 tỷ USD, điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Dự kiến năm 2010
xuất khẩu 50 tỷ USD, trong đó 50% là hàng dệt, 50% là hàng may mặc.
Tiếp đến là Pakistan, nước có nguồn nguyên liệu bông dồi dào và ngành công
nghiệp dệt phát triển, chiếm tới 46% sản lượng công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may năm 2002 đạt 7,17 tỷ USD, chiếm trên 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu.
Từ năm 1998, 1999 nước này đã có những chính sách đầu tư mới, đổi mới công
nghệ, hiện đang triển khai xây dựng các khu “đô thị dệt” ở một số thành phố lớn. Dự
kiến sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 13,8 tỷ USD vào năm 2005.

Các nước ASEAN như Singapore, Thái Lan, Philippines cũng có những lợi thế
riêng vì đã và đang đàm phán ký kết các Hiệp định Thương mại tự do song phương
với Mỹ, EU. Và dĩ nhiên hầu hết các nước đang phát triển, đặc biệt các nước chậm
phát triển lại càng bi quan hơn khi phải đối mặt với một cuộc cạnh tranh khốc liệt
không cân sức.
Tóm lại, thông qua một số những biện pháp cụ thể đối với ngành dệt may xuất
khẩu của một vài nước điển hình, Việt Nam đã có những bài học kinh nghiệm và
định hướng riêng cho mình để có được những giải pháp xác thực nhất với hoàn cảnh
của đất nước.
1.1.6.4 Những bài học rút ra đối với Việt Nam
Từ việc phân tích những kinh nghiệm thực tế của các nước trên thế giới cho
thấy sự tăng trưởng của sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may đều xuất phát từ những
lợi thế về vốn, bên cạnh đó biết tạo ra các lợi thế mới trên cơ sở điều chỉnh và đổi
mới chính sách, áp dụng khoa học công nghệ, tăng vốn đầu tư. Từ đó chúng ta rút ra
được một số kinh nghiệm đối với Việt Nam như sau:
Xác định đúng vị trí quan trọng của ngành dệt may xuất khẩu, đặt ngành dệt
may trở thành một mũi nhọn xuất khẩu. Do vậy, chính phủ các nước đã tập trung
chiến lược phát triển ngành dệt may trong xuất khẩu, để từ đó thực hiện chiến lược
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, một yếu tố rất quan trọng làm nên
thành công của các nước kể trên, đó là sự quan tâm phát triển khoa học công nghệ,
đầu tư những trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình phát triển của ngành. Thứ
ba là các biện pháp phát triển sản xuất các nguyên liệu đầu vào nhằm hỗ trợ cho
doanh nghiệp xuất khẩu. Cuối cùng là các biện pháp thúc đẩy xúc tiến thương mại,
19
tạo mối quan hệ bền chặt với một số thị trường lớn bằng uy tín và thương hiệu của
sản phẩm
1.2 SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH HÀNG DỆT
MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG EU
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, đặc biệt là sau khi Việt
Nam chính thức gia nhập vào tổ chức thương mại WTO. Đồng thời, mặt hàng dệt

may xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU được bãi bỏ hoàn toàn hạn ngạch
thì việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may lại càng trở nên vô cùng cần thiết.
Bởi các nguyên nhân chính sau đây:
1.2.1 Vai trò to lớn của hàng dệt may xuất khẩu đối với Việt Nam
Thực tế cho thấy, hàng dệt may xuất khẩu đóng một vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam được biểu hiện qua các mặt sau:
1.2.1.1 Là ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam
Do đặc điểm rất thuận lợi như thời gian thu hồi vốn nhanh do qui mô vốn đầu
tư thấp, công nghệ đơn giản, đặc biệt với nguồn lao động khéo léo, dệt may được coi
là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ số 55/2001/QĐ-TT đã xác định phát triển ngành Dệt May trở thành một
trong những ngành trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu và trở thành lợi thế của Việt
Nam.
1.2.1.2 Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
Với đặc trưng riêng của ngành là sử dụng nhiều lao động với quá trình đào tạo
nhanh đã có thể đi vào sản xuất. Trong khi Việt Nam lại là nước có nguồn lao động
dư thừa rất nhiều và đặc điểm chung là khá khéo léo. Do vậy, đây là một trong những
ngành thu hút được nhiều công việc nhất. Theo thống kê của Hiệp hội Dệt May Việt
Nam, hiện có khoảng 2 triệu lao động đang làm việc trong ngành dệt may(chưa kể lao
động gián tiếp, làm việc theo lĩnh vực cung cấp nguyên liệu như trồng bông, trồng
dâu tằm) chiếm một tỉ trọng tương đối lớn trong các ngành công nghiệp.
1.2.1.3 Góp phần mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế
Kể từ khi nền kinh tế Việt Nam mở cửa sau thời kì tập trung bao cấp, nhà
nước đã đưa ra mục tiêu mở rộng mối quan hệ với các nước trên thế giới trên mọi
20
lĩnh vực kinh tế - xã hội. Cho đến nay, quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế ngày
một trở nên sâu đậm và đạt được những kết quả như mong muốn, và thành tựu lớn
nhất chính là việc Việt Nam gia nhập tổ chức WTO. Để có được những thành công
đáng kể như thế thì hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng

dệt may nói riêng là rất lớn. Góp phần mở rộng hơn, tạo mối quan hệ bền chặt hơn
với các nước và các tổ chức khác nhau trên thế giới.
Như vậy, nâng cao sức cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu là một trong những
chủ trương và chính sách rất đúng đắn của Đảng và Chính phủ, phù hợp với tình hình
phát triển của Việt Nam trong thời kì hiện nay.
1.2.2 EU là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may đầy tiềm năng đối
với Việt Nam
Khi mối quan hệ giữa Việt Nam và EU được tạo dựng, nó đã trở thành một cơ
hội và động lực rất lớn đối với các doanh nghiệp. Bởi lẽ, cho đến nay, EU vẫn luôn là
một thị trường nhập khẩu lớn, đầy tiềm năng của Việt Nam, đặc biệt là đối với thị
trường hàng dệt may. Cụ thể như sau:
1.2.2.1 EU là một đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam
Kể từ năm 1995 đến nay, quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước thành
viên của EU đã phát triển rất nhanh. Năm 2002, kim ngạch hai chiều tăng gấp 20 lần
so với năm 1990. Kim ngạch thương mại Việt Nam - EU năm 2003 đạt 6,8 tỷ USD,
trong đó ta tiếp tục xuất siêu (khoảng 1 tỉ USD). Xuất khẩu vào thị trường EU tăng
mạnh (hơn 15%), nhất là với Anh, Pháp, Đức, Thuỵ Điển , Hà Lan. Số liệu qua các
năm về hoạt động thương mại Việt Nam – EU, đã khẳng định một cách rõ nét cho
thấy rằng từ trước cho đến nay, EU vẫn luôn là một thị trường mục tiêu, một bạn
hàng lớn của Việt Nam. Hiện nay các họat động giao dịch trao đổi thương mại với
EU chiếm 17% tổng giao dịch thương mại của Việt Nam và quốc tế. Do đó Chính
phủ, nhà nước và các doanh nghiệp luôn chú trọng và phát triển cũng như duy trì mối
quan hệ thương mại tốt đẹp này. Một trong những động lực thúc đẩy sự gia tăng
trong hợp tác thương mại giữa Việt Nam và EU, là do hai bên đã dành cho nhau ưu
đãi thuế quan liên tục trong nhiều năm, đặc biệt là các chính sách ưu đãi của EU dành
cho Việt Nam như Quy chế tối huệ quốc(MFN), trợ giúp phát triển kinh tế bền vững
ở Việt Nam... Cùng với Hiệp định khung, Việt Nam và EU cũng đã ký một số hiệp
định, thỏa thuận về kinh tế-thương mại, đáng chú ý như Hiệp định Dệt may, Hiệp
định tiếp cận thị trường. Kể từ 11/1/2007, khung pháp lý về thị trường thương mại,
21

dịch vụ giữa Việt Nam và EU đã được mở hoàn toàn. Việt Nam và EU đã kết thúc
đàm phán song phương về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới từ
năm 2004.
Những năm gần đây, cộng đồng người Việt tại các nước EU cũng là một cầu
nối tích cực trong quan hệ thương mại giữa hai bên. Hàng năm, cộng đồng người
Việt tại EU đã nhập khẩu một lượng hàng Việt Nam để bán tại các trung tâm thương
mại và các cơ sở kinh doanh của người Việt tại các nước này. Với tiềm năng lớn và
những thuận lợi trong quan hệ thương mại như vậy, việc xuất khẩu hàng dệt may
sang thị trường EU đã và đang trở thành mục tiêu và mối quan tâm của các đơn vị, tổ
chức của Việt Nam.
1.2.2.2. EU là một thị trường lớn, có nhu cầu đa dạng
Theo các chuyên gia Vụ Xuất nhập khẩu, đặc điểm của khu vực thị trường EU
là nhiều thị trường “ngách” có mức sống và nhu cầu hàng dệt may rất đa dạng từ
hàng có phẩm cấp thấp đến hàng có chất lượng cao phù hợp năng lực sản xuất nhiều
thành phần của Việt Nam. Bên cạnh đó, EU là khối thương mại chung lớn nhất thế
giới gồm có 27 quốc gia với lượng dân số là 453 triệu người, hoạt động các nước
trong nội khối giao thương buôn bán liên thông với nhau. Vì vậy, hàng hoá một khi
thâm nhập vào được một thị trường bất kì nào trong khối sẽ dễ dàng tiếp cận được
với các thị trường còn lại.Vì vậy EU là một thị trường tiêu thụ rất lớn và vô cùng hấp
dẫn với các doanh nghiệp và các quốc gia.
1.2.2.3. Cơ cấu kinh tế EU đang có xu hướng chuyển dịch theo hướng tăng
nhập khẩu hàng dệt may.
Do có trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao nên những mặt
hàng mà các nước EU có thế mạnh và có tính cạnh tranh cao hầu hết thuộc các ngành
công nghiệp cơ khí, chế tạo, hóa chất, giao thông vận tải, hàng không, dược phẩm,
mỹ phẩm cao cấp, thực phẩm, đồ uống và dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị
gia tăng lớn. Nhu cầu nhập khẩu của EU phần lớn là nguyên, nhiên vật liệu, hàng thủ
công mỹ nghệ, giầy dép, dệt may,… chiếm 52,3% tổng sản lượng nhập khẩu của
EU(bảng 2.1). Điều đó thể hiện rõ sự chuyển dịch theo hướng gia tăng nhập khẩu
hàng dệt may trong cơ cấu kinh tế của EU

2.1 Bảng kim ngạch xuất nhập khẩu một số nhóm hàng chủ yếu của EU
trong 9 tháng năm 2007
Đơn vị: Tỉ Euro
22
Nhóm hàng EU xuất khẩu EU nhập khẩu
Tỉ Euro % Tỉ Euro %
Nguyên liệu thô 22,7 2,5 52,1 4,9
Thực phẩm, đồ uống 41,1 4,5 53,3 5,0
Máy móc, thiết bị công nghiệp và vận tải 395,8 43,6 303,3 29,0
Hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất 147,2 16,2 90,1 8,6
Các sản phẩm công nghiệp nhẹ (giầy da,
dệt may, thủy sản, …)
300,9 33,1 547,0 52,3
Tổng 907.7 100 1045,8 100
Nguồn: Eurostat
1.2.3 Những cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may xuất khẩu của
Việt Nam trên thị trường EU trong điều kiện hội nhập WTO
Sau năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương
mại quốc tế WTO. Những cơ hội và thách thức đã được mở ra đối với nền kinh tế
Việt Nam nói chung và cũng ảnh hưởng đến hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
nói riêng đặc biệt là trên thị trường EU
1.2.3.1 Những cơ hội đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
Hội nhập WTO giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có động lực thúc đẩy phát
triển, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm và tạo điều kiện tiếp cận
với nhiều thị trường lớn điển hình là EU, Mỹ, Nhật Bản. Khi đó,Việt Nam được tiếp
cận thị trường Eu với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và không bị phân biệt
đối xử.
Ngoài ra, Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý
theo qui định của WTO. Môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải

thiện. Thúc đẩy tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp có tiền đề tốt để thực hiện hoạt động xuất khẩu có hiệu quả.
Cơ hội lớn khi Việt Nam gia nhập WTO là việc thay đổi chính sách quản lý,
điều hành nền kinh tế theo hướng rõ ràng hơn, giảm dần sự phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế.
1.2.3.2 Những thách thức đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
Thách thức đầu tiên đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là kim
ngạch xuất khẩu thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam. Theo số liệu
thống kê, trong những giai đoạn 2005 – 2008 kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may
23
đã đạt trên 1tỷ USD. Tuy nhiên, nếu so sánh tổng thể và so sánh với các nước khác,
ta thấy rằng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng mà
chúng ta đang có như nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ nhất so với các nước
xuất khẩu dệt may.
Năm 2005 bãi bỏ quota tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu được cạnh
tranh bình đẳng. Tuy nhiên, với khách hàng khó tính như EU, các nhà doanh nghiệp
Việt Nam vẫn phải e dè bởi chất lượng và yêu cầu đòi hỏi của thị trường EU phức tạp
và cầu kỳ. Trong khi đó, chất lượng hàng dệt may của Việt Nam hiện nay chỉ đạt
mức độ trung bình và chỉ đáp ứng được nhóm khách hàng cấp 2, và cấp 3 của thị
trường EU.
Ngành dệt may Việt Nam vẫn đang có nhiều khó khăn, thách thức để phát
triển bền vững ở thị trường EU. Khó khăn khi các ngành công nghiệp phụ trợ chưa
phát triển tương xứng do thiếu công nghiệp phụ trợ nên ngành dệt may Việt Nam gần
như phụ thuộc vào thị trường thế giới cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Cho đến thời điểm
này, ngành dệt may phải nhập khẩu với tỷ lệ lớn như: 100% máy móc thiết bị; 100%
xơ sợi hoá học: 90% bông xơ thiên nhiên; 70% vải các loại; 67% sợi dệt cũng là nhập
khẩu. Từ số liệu trên có thể thấy, ngành dệt may Việt Nam đang “đi trên đôi chân của
người khác”. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm hạn chế khả năng cạnh
tranh quốc tế của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam so với các cường quốc xuất
khẩu dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan.

Xét trên quy mô, phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thuộc loại vừa
và nhỏ. Với quy mô đó, nếu không liên kết với một số doanh nghiệp lớn thì những
doanh nghiệp này khó tồn tại chứ chưa nói dến việc cạnh tranh quốc tế. Thực tế cho
thấy, cứ xoá bỏ hạn ngạch đến đâu thì hàng dệt may Việt Nam mất hoặc giảm thị
phần đến đó vì các doanh nghiệp thiếu những nhà quản trị giỏi, thiếu kỹ năng tiếp
cận thị trường và năng suất lao động lại thấp nên không thể cạnh tranh ngang bằng
với Bangladesh, Srilanca, Thái Lan, Indonesia và cường quốc dệt may Trung Quốc
trên thị trường EU. Và kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU bị giảm sút nghiêm
trọng nhất trong 3 thị trường xuất khẩu chính của dệt may Việt Nam.
**************
Tóm lại, Chương 1 đã hệ thống và phân tích được những lí luận cơ bản liên
quan đến cạnh tranh và sức cạnh tranh. Để đánh giá được sức cạnh tranh của sản
phẩm có hệ thống các tiêu chí như doanh thu, giá bán, chi phí, chất lượng, vệ sinh an
24
toàn và mức độ uy tín của sản phẩm trên thị trường. Các tiêu chí đánh giá trên sẽ là
cơ sở để đưa ra các công cụ, biện pháp hiệu quả nhằm nâng cao sức cạnh tranh về sản
phẩm cho các doanh nghiệp.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, hàng dệt may xuất
khẩu Việt Nam cần phải nâng cao sức cạnh tranh của mình vào thị trường EU là do:
vai trò chủ lực của ngành dệt may xuất khẩu đối với Việt Nam, EU là một thị trường
nhập khẩu hàng dệt may đầy tiềm năng của Việt Nam, bên cạnh đó sức cạnh tranh
của mặt hàng này còn có nhiều hạn chế đặc biệt là trên thị trường EU.
Bằng những chính sách và kinh nghiệm từ các nước như Indonesia, Trung
Quốc, Ấn Độ….đã đưa ra cho Việt Nam những bài học quí báu để từ đó có được
chính sách cho riêng mình, phù hợp với hoàn cảnh và định hướng phát triển ngành
dệt may xuất khẩu của Việt Nam đặc biệt là đối với thị trường EU. Toàn bộ những lý
luận cơ bản sức cạnh tranh, bài học kinh nghiệm được rút ra từ các đối thủ cạnh tranh
là cơ sở quan trọng để đánh giá và phân tích chương 2 “ Thực trạng sức cạnh
tranh hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU”.
CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG SỨC CẠNH TRANH HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG EU
2.1 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VÀ QUI ĐỊNH CỦA THỊ TRƯỜNG EU
ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY NHẬP KHẨU
2.1.1 Giới thiệu chung về EU
Ngày 1-1-1994 Cộng đồng Châu Âu ( EC ) đổi tên thành liên minh Châu Âu
(EU). Cộng đồng Châu Âu ( EU) có trụ sở đạt tại Brucxen - thủ đô của Bỉ. Với sự
phát triển không ngừng về kinh tế - xã hội, khối cộng đồng chung EU liên tục mở
rộng qui mô và cho đến ngày 1/1/2007 số lượng thành viên đã tăng lên 27 thành viên
với Rumania, Bulgaria.
Lĩnh vực quan trọng nhất cho quá trình hợp nhất hoá của các thành viên có ảnh
25

×