Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Luận văn tốt nghiệp : Kiễm toán viên và tính chính xác của báo cáo kiểm toán tài chính phần 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.2 KB, 11 trang )

§Ò ¸n m«n häc
trừ những tài sản được nêu trong phần thuyết minh X của báo cáo tài
chính. Tất cả các khoản nợ, cam kết vay và các khoản bảo lãnh của công
ty với bên thứ ba đã được công ty thanh toán và giải trình trong phần X
" .(3, 580)
Thứ tư: Xác nhận về định giá và phân bổ: Giá trong kế toán được xác
định theo nguyên tắc "hoạt động liên tục" và do đó giá trong kế toán biểu
hiện giá tài sản do đơn vị thực tế bỏ tiền ra mua hoặc thực hiện dịch vụ.
Vì vậy, xác nhận về định giá là sự cam kết về sự thích hợp về giữa số
tiền phản ánh trên BCTC với số tiền đơn vị chi ra cho tài sản, vốn, cổ
phần, thu nhập,và chi phí ghi trên bảng từ đó các khoản tính vào thu
nhập và phân phối cũng phản ánh giá trị thực tế.
Thứ năm: Xác nhận về phân loại và trình bày là cam kết về sự phù hợp
giữa sự phân loại và trình bày các phần hợp thành của BCTC với những
quy định đang có hiệu lực về sự phân loại và thuyết trình các bộ phận
này.
3. Những cam kết (giải trình) về mối quan hệ của nhà quản lý với KTV.
Tuỳ theo luật định và thực tiễn phát sinh cũng như nhu cầu giải quyết về
mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể kiểm toán. Loại cam kết thứ ba
này có thể bao gồm các vấn đề về tính độc lập khách quan của giám đốc,
của ban kiểm toán nội bộ và KTV bên ngoài; về cách thức làm việc và
phối hợp giữa ban quản lý, bộ phận kiểm toán nội bộ với KTV bên ngoài
Về hình thức, xác nhận hay giải trình của nhà quản lý có ý nghĩa khác
nhau trong quan hệ với bằng chứng kiểm toán cũng rất đa dạng. Chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam số 580 khoản 13 xác định:
"Các giải trình bằng văn bản được đánh giá là các bằng chứng kiểm
toán có giá trị hơn các giải trình bằng lời nói. Các giải trình bằng văn
bản được thể hiện dưới các hình thức :
- bản giải trình của giám đốc
-Thư của KTV liệt kê ra tất cả những hiểu biết của mình về các giải
trình của giám đốc và được giám đốc xác nhận là đúng


-biên bản họp hội đồng quản trị hoặc báo cáo tài chính đã được giám
đốc ký "
§Ò ¸n m«n häc
Về cách thức sử dụng xác nhận hay giải trình, KTV phải thu nhập và lưu vào hồ
sơ kiểm toán để làm bằng chứng kiểm toán. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các
bằng chứng này không thể thay thế các bằng chứng khác như hoá đơn, quyết toán, biên
bản kiểm kê Trong trường hợp nhà quản lý từ chối cung cấp giải trình theo yêu cầu
của KTV làm hạn chế phạm vi kiểm toán thì KTV phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng
phần hoặc ý kiến từ chối.
Nếu cam kết của nhà quản lý phải hướng tới bước đòi hỏi của công nghệ kế
toán thì xác minh của KTV trước hết phải tập trung vào việc xem xét độ tin cậy của
các cam kết trên. Hơn nữa trách nhiệm chung của nhà quản lý, và KTV là đảm bảo độ
tin cậy cảu thông tin trong BCTC. Do vậy giữa xác nhận của nhà quản lý và mục tiêu
kiểm toán có quan hệ chặt chẽ với nhau về cả nội dung và các yếu tố cấu thành độ
trung thực hợp lý của BCTC. Do đó trong hệ thống mục tiêu kiểm toán bao gồm các
mục tiêu kiểm toán chung.
1.1.3/ Mục tiêu kiểm toán chung:
Được chia làm hai loại : mục tiêu hợp lý chung và mục tiêu chung khác.
1.1.3.1/ Mục tiêu hợp lý chung:
Mục tiêu này bao hàm việc xem xét, đánh giá tổng thể số tiền ghi trên khoản
mục trên cơ sở cam kết chung về trách nhiệm của nhà quản lý và thông tin thu được
qua khảo sát thực tế ở khách thể kiểm toán trong quan hệ với việc lựa chọn các mục
tiêu khác. Do đó đánh giá sự hợp lý chung cũng hướng tới khả năng sai sót cụ thể của
các số tiền trên khoản mục. Trên cơ sở đó có thể đánh giá khả năng đạt được của các
mục tiêu khác. Nếu KTV không nhận thấy mục tiêu hợp lý chung đã đạt được tất yếu
phải dùng đến mục tiêu chung khác. Từ đó KTV sẽ lập kế hoạch thu thập những bằng
chứng chi tiết hơn trên các khoản mục hay phần hành động cụ thể với những mục tiêu
xác định. Việc định vị các bộ phận cấu thành kèm theo định hướng mục tiêu tương ứng
này sẽ giúp ích rất lớn cho kiểm toán nâng cao hiệu suất hoạt động do có được kết luận
đúng đắn, trên cơ sở đó có bằng chứng đầy đủ và có hiệu lực và chi phí kiểm toán ít.

Đồng thời, mục tiêu hợp lý chung đòi hỏi sự nhạy bén, khả năng phán đoán
cùng tác phong sâu sát với thực tế ở đơn vị cña KTV.
1.1.3.2/ Mục tiêu chung khác:
Những mục tiêu chung khác này được đặt ra tương ứng với cam kết của nhà
quản lý là hiệu lực, tính trọn vẹn, quyền và nghĩa vụ, chính xác cơ học, phân loại và
§Ò ¸n m«n häc
trình bày.
Mục tiêu hiệu lực là tính xác minh vào tính có thật của số tiền trên các khoản
mục. Có thể xem mục tiêu này là hướng tới tính đúng đắn về nội dung kinh tế của
khoản mục trong quan hệ với các nghiệp vụ, các bộ phận cấu thành khoản mục đó. Từ
đó số tiền ghi vào BCTC phải là những con số thực tế, tức là những xác nhận này đề
cập tới vấn đề tài sản, nợ và vốn cân đối trong bảng cân đối tài sản có thực vào ngày
lập bảng cân đối tài sản hay không. Như vậy mục tiêu hiệu lực là hướng xác minh bổ
sung vào cam kết về sự tồn tại của nhà quản lý.
Mục tiêu trọn vẹn là hướng xác minh về sự đầy đủ về nội dung cấu thành số
tiền ghi trên các khoản mục. Cụ thể mục tiêu này liên quan đến tính đầy đủ của các
nghiệp vụ, tài sản và vốn cần được tính vào khoản mục. Mục tiêu này hướng xác minh
bổ sung cho xác nhận về tính trọn vẹn của nhà quản lý.
Các mục tiêu trọn vẹn và hiệu lực hướng trọng tâm chú ý vào những quan hệ
kiểm toán ngược nhau. Mục tiêu hiệu lực có quan hệ đến khả năng phóng đại số tiền
bởi những nghiệp vụ, tài sản vốn không có thực trong khi mục tiêu trọn vẹn lại quan
hệ tới nhưng bộ phận thực tế phát sinh nhưng không ghi sổ.
Mục tiêu quyền và nghĩa vụ: Những xác nhận này của ban quản trị đề cập đến
liệu tài sản có thuộc quyền sở hữu của công ty hay không và nợ có phải là nghĩa vụ
của công ty vào ngày được xét hay không ? Mục tiêu này bổ sung cho cam kết về
quyền và nghĩa vụ với ý nghĩa xác minh lại quyền sở hữu (hoặc sử dụng lâu dài được
luật định thừa nhận) của tài sản và nghĩa vụ pháp lý (hoặc hợp đồng dài hạn) của các
khoản nợ và vốn. Thực chất của mục tiêu này là hướng tới mối quan hệ giữa các bộ
phận và giữa các khoản mục trong và ngoài bảng cân đối tài sản.
Mục tiêu định giá là hướng xác minh vào cách thức và kết quả biểu hiện tài sản,

vốn và các hoạt động (chi phí, chiết khấu, thu nhập ) thành tiền. Như vậy, mục tiêu
này nghiêng về thẩm tra giá trị thực kể cả cách đánh giá theo nguyên tắc kế toán, thực
hiện các phép toán theo nguyên tắc toán học. Tuy nhiên mục tiêu này không loại trừ
xem xét tới liên hệ về cơ cấu có ảnh hưởng tới số tiền ghi trong BCTC như việc thẩm
tra các khoản cổ tức, lãi suất, hối khấu Đây là những khoản cấu thành chi phí, thu
nhập, tài sản, vốn. Mục tiêu này được sử dụng để làm rõ hơn cam kết của nhà quản lý
về định giá và phân phối.
§Ò ¸n m«n häc
Mục tiêu phân loại là hướng xem xét lại việc xác định các bộ phận, nghiệp vụ
được đưa vào tài khoản cùng việc sắp xếp các tài khoản trong các BCTC theo bản chất
kinh tế của chúng được thể chế bằng các văn bản pháp lý cụ thể đang có hiệu lực.
Trong các văn bản này, hệ thống tài khoản là cơ sở ban đầu để thẩm tra phân loại tài
sản, nghiệp vụ và vốn của khách hàng. Đồng thời giới hạn về thời gian, đặc biệt là
nghiệp vụ xảy ra cuối kỳ kế toán cũng là một trọng tâm rà soát việc ghi vào các tài
khoản. Với nội dung trên mục tiêu này là sự bổ sung cần thiết vào cam kết phân loại
và trình bày.
Mục tiêu chính xác cơ học: là hướng xác minh về sự đúng đắn tuyệt đối qua các
con số cộng sổ và chuyển sổ, các chi tiết trong số dư (cộng số phát sinh) của tài khoản
cần nhất trí với các con số trên các sổ phụ tương ứng, số cộng gộp các tài khoản trùng
hợp với số tổng cộng trên các số phụ có liên quan, các con số chuyển sổ, sang trang
phải thống nhất.
Thực tế số dư (tổng phát sinh) của tài khoản được phản ánh vào các khoản mục
xác định của BCTC. Các con số này được minh chứng từ các sổ chi tiết trong các sổ
phụ được liệt kê từ các bảng kê , nhật ký và các bảng phụ lục do khách hàng lập. Mục
tiêu chính xác cơ học sẽ bổ sung cho cam kết này của nhà quản lý với hàm ý khẳng
định mức chính xác số tổng cộng của chúng với sổ cái.
Mục tiêu trình bày hướng xác minh vào cách ghi và thuyết trình các số dư (hoặc
tổng số phát sinh của tài khoản) vào các BCTC. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi KTV
thử nghiệm chắc chắn là tất cả các tài khoản thuộc bảng cân đối tài sản và báo cáo kết
quả kinh doanh cùng các thông tin có liên quan đã được trình bày đúng và thuyết minh

rõ trong các bảng và giải trình kèm theo. Với ý nghĩa đó, mục tiêu này là phần bổ sung
của KTV vào xác nhận của nhà quản lý về sự trình bày và thuyết minh.
Tuy nhiên với KTV việc xác minh không chỉ dừng ở mục tiêu (như đã trình bày
ở trên) mà phải cụ thể vào từng khoản mục hay thành phần kiểm toán (gọi là mục tiêu
đặc thù).
1.1.4/ Mục tiêu kiểm toán đặc thù:
Mục tiêu kiểm toán đặc thù được xác định trên cơ sở mục tiêu chung và đặc
điểm của khoản mục hay phần hành cùng cách phản ánh theo dõi chúng trong hệ thống
kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Theo đó mỗi mục tiêu chung có ít nhất một mục
tiêu đặc thù. Tuy nhiên việc xác định mục tiêu đặc thù còn tuỳ thuộc vào tình huống cụ
§Ò ¸n m«n häc
thể và phán đoán của KTV. Vì vậy cũng có thể không có mục tiêu đặc thù được áp
dụng phổ biến trong trường hợp khác nếu KTV xét thấy mục tiêu đó không thích hợp
hoặc không quan trọng với khoản mục hay chu trình nào đó trong tình huống cụ thể
của cuộc kiểm toán. Tình huống cụ thể thì rất đa dạng nên kinh nghiệm và khả năng
phán đoán của KTV có vai trò quan trọng trong quá trình này. Trong khi đó sự tương
ứng giữa mỗi mục tiêu chung với một hoặc nhiều mục tiêu đặc thù thích hợp phải
được hoạch định trên những luận cứ chung như mục tiêu kiểm toán chung, đặc điểm
của khoản mục hay phần hành kiểm toán, đặc điểm tổ chức của hệ thống kiểm toán và
kế toán. Mối quan hệ đó có thể khái quát theo sơ đồ sau:

Trên góc độ xác định mục tiêu đặc thù của kiểm toán cần xem xét những đặc
điểm này trong quan hệ với chức năng các mục tiêu chung của kiểm toán. Như chúng
ta biết đối tượng chung của kiểm toán tài chính có thể phân thành các phần hành kiểm
toán theo loại khoản mục hoặc theo chu trình:mua hàng và thanh toán, tiền lương và
nhân viên, bán hàng và thu tiền Kiểm toán mỗi chu trình hay loại khoản mục này đều
hướng tới những mục tiêu chung từ tính hợp lý chung đến hiệu lực, trọn vẹn, tính giá
quyền và nghĩa vụ, phân loại và trình bày, chính xác cơ học. Tuy nhiên đối tượng cụ
thể của mỗi phần hành kiểm toán có những điểm khác nhau nên cách cụ thể hoá các
mục tiêu chung vào từng phàn hành cũng khác nhau. Chẳng hạn mục tiêu hiệu lực có

hướng chung là không khai khống. Nếu cụ thể hoá mục tiêu này vào hàng tồn kho có
nghĩa là hàng hoá phải còn tồn tại thực tế Trường hợp các phần hành có liên quan tới
cả hai mặt về tài sản và vốn cũng phải cụ thể hoá vào cả hai mặt đó cho sát thực với
mục tiêu kiểm toán. Việc định ra các mục tiêu kiểm toán đặc thù trước hết phải dựa
Mục tiêu kiÓm
toán đặc thù
Đặc điÓm của các
bộ phận cấu thành
đối tượng kiểm
toán
Mục tiêu kiÓm
toán chung
Đặc điÓm của hệ
thống kế toán và
kiểm soát
§Ò ¸n m«n häc
vào bản chất của đối tượng kiểm toán cụ thể (từng khoản mục hay từng chu trình).
Song thực tế, việc phân định này thường gắn với đối tượng của hạch toán kế toán:tài
sản, vốn và quá trình tuần hoàn của tài sản. Cụ thể hơn, có thể dựa vào các quy định
trong văn bản pháp lý về tài chính, về kế toán bởi lẽ khi soạn thảo và ban hành các
văn bản này, các nhà hoạch định chính sách đã quan tâm đến đặc điểm thuộc bản chất
của từng đối tượng. Tuy nhiên mọi chính sách đều có thể trở nên lạc hậu tại một thời
điểm nào đó. Khi đó cần trở lại bản chất của đối tượng và nguyên tắc thông lệ chung.
Trong khi xem xét về bản chất của mỗi loại đối tượng trên cần kết hợp xem xét về
hình thức biểu hiện chúng. Có nhiều khoản mục hay phần hành có bản chất giống nhau
nhưng do hình thức biểu hiện khác nhau thì hướng kiểm toán cụ thể cũng khác nhau.
Ví dụ tài sản có thể là tài sản cố định cũng có thể là hàng hoá, khoản phải thu Như
vËy, với mỗi hình thức vật chất đó việc lựa chọn mục tiêu kiểm toán chung cũng như
việc cụ thể hoá chúng cũng phải được quan tâm để chọn ra phương sách kiểm toán
theo hướng thích hợp

Trong việc định ra mục tiêu kiểm toán đặc thù, cùng với bản chất chung của đối
tượng kiểm toán cần phân tích sâu hơn cụ thể tính chất của đối tượng. Ví dụ giữa tài
sản cố định, hàng hoá, tiền có độ biến động rất khác nhau, từ đó nội dung, trình tự,
cách tính giá của các đối tượng cũng khác nhau. Vì thế việc lựa chọn mục tiêu kiểm
toán đặc thù và cụ thể hoá chúng cho từng loại, từng thứ đã được phản ánh trên BCTC
phải quan tâm đầy đủ đến từng mặt thuộc đặc tính của từng đối tượng kiểm toán cụ
thể. Mục tiêu đặc thù cần được hướng tới từng loại đối tượng kiểm toán để có thể tập
trung chú ý vào các trọng điểm và xác định cách thức, trình tự xác minh chẳng hạn,
với doanh thu và chi phí, trọng tâm chú ý của phân loại và trình bày lại là ranh giới
giữa các loại thu, chi với nghiệp vụ thực tế đã xảy ra với nghiệp vụ có thể xảy ra kể cả
các nghiệp vụ kinh tế bất thường chưa xử lý đến cùng như là các vụ kiện chưa xử lý
xong, các tổn thất hay thu nhập bất thường chưa có quyết định xử lý đến cùng theo
nguyên tắc thận trọng với đòi hỏi chỉ ghi những chi phí có thể xảy ra, không ghi những
khoản thu có thể xảy ra .
Cùng các vấn đề chung về các quan hệ kinh tế, pháp lý của đối tượng kiểm
toán, việc xác định mục tiêu kiểm toán đặc thù cần phải đặc biệt chú ý đến các đặc
điểm về tổ chức kế toán và kiểm soát từng phần hành hay khoản mục cần xác minh.
Tất nhiên, mọi phần hành, mọi khoản mục đều phải dựa trên các nguyên lý, nguyên tắc
§Ò ¸n m«n häc
kế toán và kiểm soát nói chung. Tuy vậy nguyên lý hay nguyên tắc được ứng dụng
khác nhau vào từng phần hành cả về số lượng, cơ cấu sổ sách cũng như trình tự ghi sổ
và tổ chức kiểm soát nội bộ kế toán và về quản lý. với nội dung, hình thức và trình tự
kế toán khác nhau thì các mục tiêu kiểm toán chung được cụ thể hoá thành các mục
tiêu kiểm toán đặc thù cũng khác nhau.
Cần chú ý rằng vấn đề đặt ra không phải là số lượng các mục tiêu kiểm toán
chung và số lượng các mục tiêu kiểm toán đặc thù tương ứng với mỗi mục tiêu kiểm
toán chung. Điều quan trọng nhất là tính đúng phương hướng và bước đi cho cả cuộc
kiểm toán cũng như cho từng phần hành kiểm toán cụ thể. Trong quan hệ đó có thể bổ
sung vào các mục tiêu kiểm toán chung “mục tiêu giới hạn“ để xác minh việc thực
hiện nguyên tắc nhất quán về thời hạn tính nhập các khoản thu chi vào cuối kỳ kế toán.

Đây là một công việc tất yếu phải làm song có thể tách ra một mục tiêu chung độc lập
hoặc có thể gộp vào mục tiêu phân loại và trình bày.
Mỗi mục tiêu kiểm toán chung cần có mục tiêu kiểm toán đặc thù tương ứng
vào từng khoản mục, từng chu trình song số lượng mục tiêu kiểm toán đặc thù tương
ứng lại không phải máy móc là một hoặc nhiều mục tiêu. Tuy nhiên cũng có thể tách
riêng những hướng trọng tâm phải xác minh thành những mục tiêu đặc thù độc lập.
Như vậy chức năng xác minh của kiểm toán được cụ thể hoá thành các mục tiêu
như trên là một điều hợp lý qua đó có thể nâng cao chất lượng thông tin tài chính. Bên
cạnh chức năng xác minh thì một chức năng rất quan trọng nữa và không thể thiếu
được là chức năng bày tỏ ý kiến.
1.2/ Chức năng bày tỏ ý kiến
Chức năng này có thể được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất lượng
thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Nếu kết luận về chất lượng thông tin có
quá trình phát triển lâu dài từ chỗ chỉ có từ xác nhận đến hình thành báo cáo kiểm toán
theo chuẩn mực chung thì kết luận về pháp lý hoặc tư vấn cũng có quá trình phát triển
lâu dài. Trong quá trình đó sản phẩm cụ thể của bày tỏ ý kiên chỉ thấy rõ ở thế kỷ XX.
Tuy nhiên ngay ở thời kỳ đầu ngắn ngủi này, cách thức thực hiện chức năng về
bày tỏ ý kiến trách nhiệm và tư vấn cũng rất khác biệt giữa các khách thể kiểm toán và
giữa các nước có cơ sở kinh tế và pháp lý khác nhau.
Ở các khu vực công cộng (bao gồm cả các xí nghiệp công, các đơn vị sự nghiệp
và các cá nhân hưởng thụ ngân sách nhà nước) đều đặt dưới sự kiểm soát của kiểm
§Ò ¸n m«n häc
toán nhà nước. Trong quan hệ này chức năng xác minh và kết luận về chất lượng
thông tin được thực hiện tương tự nhau. Tuy nhiên, chức năng bày tỏ ý kiến về pháp lý
và tư vấn kiểm toán lại rất khác nhau.
1.2.1/ Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Đây là loại báo cáo bằng văn bản do KTV lập và công bố để nêu rõ ý kiến
chính thức của mình về BCTC của một đơn vị (tổ chức, doanh nghiệp) đã được kiểm
toán. Báo cáo kiểm toán về BCTC có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kiểm
toán và với người sử dụng BCTC.

Đối với hoạt động kiểm toán, báo cáo kiểm toán về BCTC là khâu cuối cùng
trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán BCTC để trình bày kết quả của cuộc kiểm
toán bằng những ý kiến đánh giá của KTV về thông tin định lượng và trình bày BCTC
theo quy định của chuẩn mực hoặc chế độ kế toán hiện hành.



Hình 2: Trình tự thực hiện cuộc kiểm toán báo cáo tài chính

Đối với người sử dụng BCTC, khi sử dụng BCTC có báo cáo kiểm toán về
BCTC đính kèm giúp cho người sử dụng BCTC đánh giá được độ tin cậy của các
thông tin định lượng trên BCTC trên cơ sở đó mà họ có các quyết định kinh tế đúng
đắn, hiệu quả trong mối quan hệ kinh tế đối với tổ chức hoặc doanh nghiệp có BCTC
này.
Với chức năng hoạt động của mình, ý kiến của KTV trình bày trên báo cáo
kiểm toán về BCTC nhằm thực hiện chức năng bày tỏ ý kiến :
Ý kiến của KTV trình bày trên báo cáo kiểm toán về BCTC là một trong những
nội dung quan trọng của báo cáo kiểm toán về BCTC. Ý kiến này đưa ra đánh giá của
KTV trên các phương tiện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía
cạnh trọng yếu các thông tin định lượng của BCTC và sự tuân thủ các chuẩn mực và
Chuẩn bị
kiểm toán
Thực
hiện cuộc
kiểm toán

Kết thúc
cuộc
kiểm toán
Báo cáo

kiểm toán
về báo cáo
tài chính
§Ò ¸n m«n häc
chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) và việc tuân thủ các quy định pháp lý
có liên quan.
Ý kiến đánh giá về BCTC được kiểm toán được kiểm toán phản ánh trung thực
và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu. Nghĩa là ý kiến của KTV đưa ra trên báo cáo
kiểm toán về BCTC một sự đảm bảo chắc chắn rằng BCTC đã phản ánh trung thực và
hợp lý trên khía cạnh trọng yếu nhưng không bảo đảm tuyệt đối rằng không có bất kỳ
một sai sót nào trên BCTC đã được kiểm toán. KTV chỉ quan tâm đến các yếu tố trọng
yếu của các BCTC.
1.2.2/ Thư quản lý
Bên cạnh sản phẩm của "bày tỏ ý kiến" kết quả xác minh về độ tin cậy của
thông tin là "báo cáo kiểm toán " thì sản phẩm của bày tỏ ý kiến dạng tư vấn là thư
quản lý.
Như vậy thư quản lý là hình thức bày tỏ ý kiến của KTV dưới dạng tư vấn. Đây
là hình thức chủ yếu mà KTV đưa ra những kết luận cuối cùng về đối tượng được
kiểm toán và đưa ra những ý kiến tư vấn về các lĩnh vực, các hoạt động mà đơn vị
kiểm toán quan tâm.
Ở mức độ cao của chức năng này là sự phán quyết như các quan toà. Có thể tìm
thấy biểu hiện rõ nét nhất ở toà thẩm kế của cộng hoà Pháp và các nước Tây Âu. ở đây
các cơ quan kiểm toán nhà nước có quyền kiểm tra tài liệu và tình hình quản lý của các
tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước để xác minh tính chính xác và hợp lệ của tài liệu
thu chi và quản lý ngân sách. Đồng thời các cơ quan này cũng có quyền xét xử như
một quan toà bằng các phán quyết của mình. Để đảm bảo cho các cơ quan này thực
hiện chức năng của mình, KTV cao cấp được pháp luật thừa nhận những quyền đặc
biệt. chẳng hạn ở cộng hoà Pháp họ được pháp luật thừa nhận quyền "bất năng thuyên
chuyển"; hoặc ở cộng hoà liên bang Đức họ có quyền "bất năng thay đổi".
Khác với các nước Tây Âu, ở các nước Bắc Mỹ và nhiều nước khu vực châu Á

– Thái Bình Dương (đặc biệt là Australia và Singapore) chức năng bày tỏ ý kiến này
lại được thực hiện bằng phương thức tư vấn. Hoạt động tư vấn này trước hết trong lĩnh
vực nguồn thu và sử dụng công quỹ. Ngoài ra chức năng tư vấn bao hàm cả việc phác
thảo và xem xét những dự kiến về luật trước khi đưa ra quốc hội.
Ở khu vực kinh doanh hoặc các dự án ngoài ngân sách Nhà nước, chức năng
bày tỏ ý kiến cũng được thực hiện qua phương thức tư vấn. Tuy nhiên do khách thể
§Ò ¸n m«n häc
chủ yếu là các doanh nghiệp nên chức năng tư vấn chủ yếu được biểu hiện dưới hình
thức là lời khuyên hoặc các đề án. Do đó trong trường hợp này sản phẩm của bày tỏ ý
kiến gồm hai dạng đó là báo cáo kiểm toán và thư quản lý.
Như vậy chức năng của kiểm toán là "xác minh" và "bày tỏ ý kiến" có tác dụng
như thế nào trong trách nhiêm của KTV về chất lượng kiểm toán BCTC ? ta tìm hiểu
tiếp phần sau.
2/ Trách nhiệm của kiểm toán viên về chất lượng kiểm toán báo cáo tài
chính
2.1/ Trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp
Với mục đích để đảm bảo tính đúng đắn, hợp lý, hợp pháp của BCTC
thì trước hết trách nhiệm của KTV phải:
- Luôn coi trọng và chấp hành đúng pháp luật của Nhà nước trong quá
trình hành nghề kiểm toán.
- Trách nhiệm của KTV trong việc tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp không những được quy định trong chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 200 mà còn được quy định trong chuẩn mực kiểm toán quốc tế
ISA quy định:
1. Tính độc lập: là nguyên tắc hành nghề cơ bản của KTV. Trong quá trình kiểm
toán, KTV phải thực sự không bị chi phối hoặc bị tác động bởi bất cứ lợi ích vật
chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng tới sự trung thực kh¸ch quan và độc lập
nghề nghiệp của mình. KTV không được nhận làm kế toán cho các đơn vị mà
mình có quan hệ kinh tế và quyền lợi kinh tế như góp vốn cổ phần, cho vay
hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc cổ đông chi phối của khách hàng hoặc có kí

kết hợp đồng gia công dịch vụ , đại lý tiêu thụ hàng hoá KTV không được
nhận làm kiểm toán ở những đơn vị mà bản thân có quan hệ họ hàng thân thích
với những người trong bộ máy quản lý trong đơn vị được kiểm toán. KTV
không được vừa làm dịch vụ kế toán (như trực tiếp ghi chép, giữ sổ kế toán và
lập BCTC) vừa làm dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng. Trong quá
trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập thì KTV phải tìm cách loại
bỏ được sự hạn chế này. nếu không loại bỏ được thì KTV phải nêu rõ điều này
trong báo cáo kiểm toán. Tính độc lập trong kiểm toán có nghĩa là việc có một
quan điểm vô tư khi thực hiện khảo sát kiểm toán, đánh giá các kết quả và công
§Ò ¸n m«n häc
bố các báo cáo kiểm toán. Tính độc lập nhất định phải được xem như một trong
những phẩm chất chủ yếu nhất của kiểm toán. Lý do mà rất nhiều người sử
dụng thuộc nhiều thành phần khác nhau sử dụng báo cáo kiểm toán của kiểm
toán viên về tính trung thực của các BCTC là sự tin tưởng của họ vào quan
điểm vô tư đó. Điều cơ bản không chỉ là KTV phải giữ thái độ độc lập khi thực
thi trách nhiệm của mình mà còn cả những người sử dụng các BCTC phải có
niềm tin vào tính độc lập đó. Hai mục đích này thường được gọi là tính độc lập
thực sự và tính độc lập bề ngoài. Tính độc lập thực sự có khi KTV thực tế có
thể duy trì thái độ vô tư trong suốt quá trình kiểm toán trong khi độc lập bề
ngoài là kết quả của những lời giải thích của những người khác về tính độc lập
đó.
2. Chính trực: KTV phải thẳng thắn trung thực và có chính kiến rõ ràng.
3. Khách quan: KTV phải công bằng tôn trọng sự thật và không được thành kiến
thiên vị. Tức là một KTV không được chú tâm phản ánh sai sự việc và khi hợp
đồng thực hiện kiểm toán độc lập (kể cả cung cấp dịch vụ khai thuế và dịch vụ
tư vấn cho ban quản trị) KTV không được để sự phán xét của mình lệ thuộc vào
người khác.
4. Năng lực chuyên môn và tính thận trọng: KTV phải thực hiện công việc với đầy
đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm
việc chuyên cần, KTV có nhiệm vụ duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức

trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để
đáp ứng yêu cầu công việc.
5. Tính bí mật: KTV phải đảm bảo bí mật thông tin có được trong quá trình kiểm
toán, không được tiết lộ bất kỳ một thông tin nào khi chưa được phép của người
có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp luật
hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình.
6. Tư cách nghề nghiệp: KTV phải trau dồi và bảo vệ uy tín nghề nghiệp, không
được gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp của mình.
7. Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn: KTV phải thực hiện công việc kiểm toán
theo những kỹ thuật và chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam và các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Việt Nam chấp
nhận theo các quy định pháp luật hiện hành.

×