Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Luận văn TỔNG KẾT VÀ THEO DÕI MÔ HÌNH TRỒNG BẮP KẾT HỢP CHĂN NUÔI BÒ TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG NĂM 2004 part 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 10 trang )

CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Mở đầu
An Giang được là tỉnh sản xuất lương thực hàng đầu của các tỉnh vùng
đồng bằng sông Cửu Long, với sản xuất lúa hàng năm là trên 2 triệu tấn, từ
2.678.500 tấn năm 2003 đến 3,1 triệu tấn năm 2004 (Niên giám thống kê,
2003-2004). Tuy nhiên, do giá trị lúa hàng hóa thấp, sản lượng tăng và lúa
được trồng đại trà 3 vụ trên năm ở mọi nơi nên kết quả là thu nhập của những
nông hộ thuần nông sản xuất lúa thấp, có nhiều hộ bị thua lỗ (Võ Tòng Anh và
ctv, 2003). Ngược lại, tiềm năng sản xuất nông nghiệp của Tỉnh còn rất lớn,
lợi thế cạnh tranh của từng tiểu vùng sinh thái nông nghiệp chưa được khai
thác tốt để tăng thu nhập cho nông dân (Võ Tòng Anh và ctv, 2003)
Ngày nay, dưới nền kinh tế thị trường thì nhu cầu về số lượng và chất
lượng sản phẩm nông nghiệp ngày càng cao và giá thành các mặt hàng nông
sản luôn luôn biến động. Do đó, vấn đề quan tâm của nông dân An Giang là
trồng cây gì, nuôi con gì, để đạt hiệu quả kinh tế cao phù hợp với nguồn tài
nguyên sẵn có của nông hộ và khai thác lợi thế cạnh tranh của từng tiểu vùng
sinh thái nông nghiệp khác nhau; đáp ứng được nhu cầu của thị trường; ổn
định được sản xuất lâu dài (Võ Tòng Anh và ctv, 2003). Trước yêu cầu đó
nông dân An Giang, đặc biệt là nông dân ở các huyện thường xuyên chịu ảnh
hưởng của lũ đã dựa trên kinh nghiệm, đất đai, nguồn lực lao động sẵn
có, thực hiện các biện pháp chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi. Đồng
thời sự chuyển đổi này đã thoả mãn được mục tiêu sản xuất nông nghiệp bền
vững và dựa trên sự khai thác lợi thế của từng tiểu vùng sinh thái.
Nhưng làm thế nào để đa dạng cây trồng, vật nuôi, gia tăng lợi nhuận
mà không ảnh hưởng đến mô hình sản xuất hiện có? Nông dân huyện Châu
Thành đã chọn một giải pháp là kết hợp trồng màu (bắp, mía, ) với chăn nuôi
bò vỗ béo. Lợi thế lớn nhất của mô hình này là tận dụng được nguồn phụ phế
phẩm từ cây bắp để nuôi bò vỗ béo. Ngoài ra, mô hình màu kết hợp chăn nuôi
bò đang được nông hộ ở đây rất ưa chuộng, do hiệu quả kinh tế đem lại cho
1
nông hộ là tương đối cao (18-30 triệu/năm)- sự gia tăng lợi nhuận chính từ


việc giảm chi phí thức ăn cho bò. Sự thành công đó là nhờ vào việc sử dụng
nguồn tài nguyên sẵn có của địa phương, phát triển kinh nghiệm sản xuất của
họ kết hợp áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, kế hoạch đầu tư thích hợp
cho từng thành phần sản xuất và bố trí lịch thời vụ thích hợp (Bùi Xuân An,
1997). Kết quả là sản xuất được duy trì, thu nhập được nâng lên đáng kể. Như
vậy, khi mô hình này được mở rộng/phát triển sẽ nâng cao nguồn thu nhập của
nông dân trong vùng nói riêng và nông dân của An Giang nói chung. Đồng
thời là mẫu hình tốt cho sự phát triển của nhiều loại hình sản xuất nông nghiệp
trong huyện.
1.2 Tính cấp thiết của đề tài
Tỉnh An Giang đã có chủ trương về chuyển đổi cơ cấu vật nuôi và cây
trồng nhằm nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của các sản phẩm nông
nghiệp và cùng với chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi của Tỉnh
thì ở một số địa phương đã xuất hiện các mô hình sản xuất được đánh giá là
đang mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội tốt. Ví dụ như mô hình VAC của ông
Nguyễn Đa ở huyện Tân Châu (Nguyễn Trần Nhẫn Tánh, 2003), hay mô hình
nuôi bò kết hợp trồng bắp thu trái non của ông Nguyễn Văn Nhịnh và ông
Huỳnh Văn Út ở huyện Châu Thành, đã làm ăn rất có hiệu quả.
Cho đến nay chưa có một tổng kết cụ thể hay nghiên cứu nào về các
mô hình sản xuất kết hợp trồng màu và chăn nuôi bò vỗ béo của huyện Châu
Thành, tỉnh An Giang. Vì vậy đề tài “Tổng kết và theo dõi mô hình trồng bắp
kết hợp chăn nuôi bò ở huyện Châu Thành” nhằm có đánh giá cụ thể về hiệu
quả sản xuất cũng như khả năng mở rộng/phát triển của mô hình tại huyện
Châu Thành, tỉnh An Giang.
1.3 Mục đích
Tìm hiểu hiệu quả kinh tế-xã hội và kỹ thuật của mô hình màu kết hợp
chăn nuôi bò ở huyện Châu Thành, tỉnh An Giang năm 2004.
1.4 Mục tiêu cụ thể
- Xác định hiệu quả kinh tế của các nông hộ đang áp dụng mô hình.
2

- Tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn của mô hình trồng màu kết hợp
chăn nuôi bò.
- Khả năng tận dụng nguồn phụ phế phẩm của trồng trọt và chăn nuôi.
- Xác định khả năng mở rộng/phát triển của mô hình trên địa bàn nghiên
cứu.
1.5 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài sử dụng nhật ký nông trại để theo dõi các hoạt động thường
nhật của nông hộ đang áp dụng mô hình trong suốt mùa lũ năm 2004 và dùng
phiếu câu hỏi để điều tra bổ sung với số mẫu nhỏ (n= 30). Do đó các kết luận
và nhận xét dựa chủ yếu trên kết quả điều tra của cỡ mẫu này. Mặt khác, chỉ
tập trung tìm hiểu khía cạnh về hiệu quả kinh tế-xã hội và khả năng mở
rộng/phát triển mô hình canh tác tổng hợp màu kết hợp chăn nuôi bò vỗ béo.
Trong theo dõi hoạt động nông hộ có quan sát về kỹ thuật sản xuất, tuy nhiên
không đi sâu về kỹ thuật canh tác màu hay chăn nuôi bò. Địa bàn huyện Châu
Thành lấy xã Bình Thạnh làm trường hợp nghiên cứu điển hình, do tập trung
nhiều nông hộ có mô hình sản xuất kết hợp màu với chăn nuôi bò và địa bàn
thực hiện nghiên cứu chỉ giới hạn trong huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 8/2004 đến tháng 5/2005.
3
CHƯƠNG 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Các khái niệm về phát triển sản xuất bền vững hỗ trợ cho việc xây
dựng mô hình canh tác nông nghiệp tổng hợp
Cũng giống như các lĩnh vực sản xuất khác trong xã hội, sản xuất nông
nghiệp tiến hóa theo thời gian và thành quả của nó đạt được cùng với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Do đó luôn có các điều kiện và nội dung cơ bản để làm
nền tảng cho việc chuyển đổi hay xây dựng các mô hình sản xuất mới, các
khái niệm dưới đây được hiểu một cách cơ bản để thực hiện nghiên cứu của đề
tài này:
- Hệ thống canh tác: Hệ thống canh tác là sự sắp xếp thích hợp và
ổn định nhất trong hoạt động năng động của nông hộ với điều kiện

nhất định về mặt vật lý, sinh học, kinh tế và xã hội phù hợp với
mục tiêu, sở thích các nguồn tài nguyên nông hộ. Những yếu tố này
phải tác động hỗ tương với nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp tác
động đến sản phẩm làm ra và phương án sản xuất (Dương Văn Nhã,
2003).
- Bền vững: Tính bền vững là khả năng duy trì sản xuất của một hệ
thống khi gặp vấn đề bất lợi hoặc sự xáo trộn nào đó. Sự bất lợi này
có thể xảy ra nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến năng suất sản xuất,
nhưng sau đó có khả năng có thể phục hồi và duy trì ổn định. Tính
bền vững thường được xét trên hệ sinh thái nông nghiệp để ổn định
sản xuất qua sử dụng tài nguyên tự nhiên: tính duy trì độ phì của
đất, tính ổn định về khí hậu,…(Dương Văn Nhã, 2003).
- Nông nghiệp bền vững: Phát triển bền vững là việc quản lý và bảo
tồn cơ sở tài nguyên thiên nhiên; định hướng những thay đổi công
nghệ và thể chế một phương thức sao cho đạt dần sự thỏa mãn một
cách liên tục những nhu cầu của con người của những thế hệ hôm
nay và mai sau. Sự phát triển bền vững như vậy trong lĩnh vực nông
nghiệp (nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản) chính là sự bảo tồn đất,
nước, các nguồn gen động vật và thực vật, không bị suy thoái môi
4
trường, kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về
mặt xã hội. Việc áp dụng nông nghiệp bền vững trong sử dụng đất
nông nghiệp nhằm mục đích: kiến tạo một hệ thống nông nghiệp
bền vững ổn định về mặt sinh thái; giảm rủi ro đến mức thấp nhất,
có tiềm năng về kinh tế, tăng hiệu quả đầu tư sản xuất; Có khả năng
thỏa mãn những nhu cầu của con người; sử dụng và bảo tồn tài
nguyên sẵn có một cách hiệu quả, không bóc lột đất đai, làm tăng
độ phì của đất, không làm suy giảm các tài nguyên sinh học trong
thiên nhiên; không làm ô nhiễm môi trường, làm cho môi trường
ngày càng trong sạch hơn (Dương Văn Nhã, 2003).

- Phát triển bền vững: Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm
thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại
tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai (Trương Mạnh
Tiến, 2000).
2.2 Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.2.1 Tình hình nghiên cứu trong nước
Các nghiên cứu về hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất kết hợp,
đặc biệt là mô hình màu kết hợp chăn nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) đã cho thấy các kết quả khả quan. Võ Tòng Anh và ctv (2003) đã
đưa ra kết quả nghiên cứu mô hình trồng bắp non kết hợp chăn nuôi bò ở xã
Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, có mức lãi thuần khoảng 20 triệu/ha chưa kể phần
sản phẩm phụ làm thức ăn cho bò. Nghiên cứu này cũng cho thấy nông dân ở
xã Bình Thạnh, huyện Châu Thành và xã Mỹ An, huyện Chợ Mới từ khi có đê
bao khép kín đã phát triển chăn nuôi bò thịt để tận dụng các phụ phẩm từ cây
bắp và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Kết quả nghiên cứu của Dương Văn Nhã
(2004) ở huyện Chợ Mới thì chăn nuôi ở các vùng chịu ảnh hưởng lũ hàng
năm ở tỉnh An Giang chủ yếu là chăn nuôi nhỏ và được xem như là hoạt động
phụ, chiếm tỷ trọng thấp, khoảng 10% so với trồng trọt. Số lượng vật nuôi
tăng nhanh trong những năm gần đây, nhưng chưa cân xứng với ngành trồng
trọt, hoạt động chăn nuôi gia đình dựa chủ yếu vào nguồn phế phụ phẩm nông
5
nghiệp, nguồn cỏ và các nguồn thức ăn tự nhiên khác. Ngoài ra, đàn bò có
khuynh hướng tăng nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt ở vùng có đê
bao triệt để của huyện Chợ Mới, từ 1.835 con (1995) đến 5.328 con (2002). Số
lượng đàn bò tăng trong các vùng có đê bao là do nguồn phế phụ phẩm trong
các vùng này tăng lên.
Dương Ngọc Thành (2004) đã thực hiện nghiên cứu về mô hình rau
màu kết hợp chăn nuôi gia súc ở vùng đất cao quanh nhà và kết quả là mô hình
đã đem lại hiệu quả kinh tế ổn định đời sống trong mùa lũ và sau mùa lũ ở
Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL).

Kết quả chương trình nghiên cứu nhằm cải tạo giống bò của địa
phương ở tỉnh An Giang như: Chương trình giống vật nuôi năm 2000 – 2003
đã thực hiện 2 đề tài nghiên cứu nghiên cứu về biện pháp Sind hóa đàn bò địa
phương và sức sản xuất của bò lai Sind nuôi thịt; Chương trình đầu tư mới cơ
sở sản xuất giống bò cái nền lai Sind để sản xuất bò hướng thịt và hướng sữa
cũng đã hướng đến tiềm năng sản xuất lâu dài của con bò ở tỉnh An Giang.
Các dự án do viện chăn nuôi và Tổ chức lương nông thế giới (FAO)
được thực hiện nhằm nghiên cứu sử dụng các nguồn nguyên liệu tại chỗ làm
thức ăn gia súc và phân tích hệ thống chăn nuôi bền vững (SAREC/SIDA).
Trường đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ, Đại
học Nông Lâm Huế tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu về thức ăn và hệ thống
chăn nuôi trong hệ thống canh tác tổng hợp bằng cách sử dụng tốt hơn nguồn
thức ăn địa phương sẵn có, đây là cơ sở cho ngành chăn nuôi phát triển.
Diện tích trồng bắp của cả nước là 687.000 ha, sản lượng 1,75 triệu
tấn/năm, 80% bắp dùng vào chăn nuôi nhằm gia tăng lợi nhuận cho nông hộ
(Vũ Duy Giảng, 2002). Đặc biệt, các phụ phẩm từ cây bắp ở các Tỉnh phía
Bắc và Trung Bộ được dùng vào chăn nuôi, nhưng còn hạn chế, nên cần hình
thành những hệ thống thức ăn chăn nuôi phù hợp với những vùng sinh thái
nông nghiệp khác nhau.
Nguyễn Tiến Vởn (1991) thực hiện nghiên cứu về tình hình chăn nuôi
trong hệ thống sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu này cho thấy mối
tương quan mật thiết giữa ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Trong đó, nếu
6
xét theo trật tự tiêu thụ năng lượng mặt trời, ngành chăn nuôi đứng sau ngành
trồng trọt, và một cách tự nhiên nó phụ thuộc vào ngành này. Khi ngành trồng
trọt phát triển sẽ tạo ra lợi nhuận, nâng cao thu nhập cho nông hộ, thúc đẩy
ngành chăn nuôi phát triển theo và nếu tách rời nó ra không những bản thân nó
khó tồn tại, mà ngay cả hệ thống trồng trọt cũng khó mà phát triển.
2.2.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Các nghiên cứu về hệ thống canh tác tổng hợp và tính bền vững của hệ

thống canh tác tổng hợp đã được thực hiện từ nhiều thập niên qua ở Châu Á và
Thế Giới. Bùi Xuân An (1997) đã ghi nhận rằng trên vùng Thái Bình Dương,
một lượng lớn gia súc được chăn thả dưới vườn dừa. Ở Papua New Guinea,
Wester Samoa và Vunuatu, trâu bò thường được dùng để kiểm soát cỏ dại
giảm công chăm sóc dừa. Số liệu ở Papua New Guinea cho thấy, khi áp dụng
hệ thống chăn thả trong những diện tích dừa quảng canh có thể giảm 70% chi
phí chăm sóc như: vùng Bắc Salawasi của Indonesia, một phần thuộc
Philippin cũng như nhiều nước thuộc Nam Thái Bình Dương, đặc biệt như ở
Trinidad và Tobago chăn nuôi dưới vườn dừa đã được áp dụng hàng 40- 50
năm qua. Thomas Preston (1987) cho rằng chiến lược phát triển nông nghiệp
tương lai phải dựa vào sự mở rộng hơn nữa những hệ thống sản xuất liên hợp
và phải coi trọng việc sử dụng sinh khối xanh làm nhiên liệu cũng như làm
thức ăn gia súc.
Các nghiên cứu về “Hệ thống canh tác bền vững dựa trên vật nuôi của
Chương trình SIDA- SAREC vùng hạ lưu Sông Mê Kông đã đưa ra các kết
quả khả quan như sau:
- Trong các Hệ thống canh tác tổng hợp dựa trên một loại cây trồng
nào đó như: mía, bắp, khoai mì, hay các loài cây đa dụng đã tạo ra
được một khối lượng lớn sinh khối xanh, đủ sức để cưu mang và
phát triển các loài gia súc nông nghiệp (Preston, 2003).
- Phát triển sản xuất chăn nuôi dựa trên việc sử dụng tốt hơn nguồn
thức ăn sẵn có được xem là chiến lược thích hợp cho Hệ thống canh
7
tác nhỏ ở Vùng Hạ Lưu Sông Mê Kông (Preston và Lưu Trọng
Hiếu, 2003).
- Mục tiêu phát triển chăn nuôi theo định hướng của sự phát triển của
các hệ thống trồng trọt trong vùng được xem là phù hợp với chính
sách phát triển nông nghiệp bền vững của Việt Nam và các nước
khác trong lưu vực (Lưu Trọng Hiếu, 2003).
2.3 Đặc điểm và giá trị sử dụng của cây bắp

2.3.1.Cây Bắp
Tên khoa học là Zea mays L. có nguồn gốc từ Châu Mỹ, được phát
hiện đầu tiên ở Trung Mỹ (Mexico, Guatemala) từ đó lan ra khắp thế giới,
người ta đã tìm thấy hạtt và mảnh bắp bọc và bắp nổ có tuổi trên 5000 năm
trong một hang đá ở New Mejico và thung lũng Techuacan (Mexico).
Bắp là cây trồng cạn chịu thâm canh cao và dễ cơ giới hóa, sản lượng
đứng hàng thứ 3 sau lúa mì và lúa nước sản lượng toàn thế giới 349 triệu tấn
(1997) với năng suất bình quân 2,93 tấn/ha. Các nước sản xuất nhiều nhất là
Hoa Kỳ (28 triệu ha, 161 triệu tấn), Trung Quốc (11 triệu ha, 33 triệu tấn)
Brazin (17 triệu ha, 19 triệu tấn). Ở Việt Nam có 352.000 ha bắp với 345.000
tấn (1997). Các tỉnh trồng nhiều bắp nhất ở phía nam là Đồng Nai (36000 ha),
Thuận Hải (14500 ha), Gialai kontum (14.500 ha) và một số tỉnh vùng đồng
bằng sông Cửu Long khoảng 1.000- 3.000 ha. Năng suất trung bình đạt 1,5
tấn/ha. Trong mấy năm gần đây do có sự cải tiến về công tác giống cũng như
điều kiện chăm sóc, năng suất có tăng lên, đặc biệt là vùng trồng bắp trên vùng
đất phì nhiêu năng suất có thể lên đến 10 tấn/ha.
2.3.2.Giá trị dinh dưỡng và sử dụng
- Hạt bắp: Là loại thức ăn cung cấp năng lượng cơ bản trong dinh dưỡng
người và gia súc, gia cầm.
Bảng 1. Thành phần hóa học của hạt bắp khô
Thành phần Tỷ lệ (%)
Nước 10 – 12%
Đạm thô 9,5 %
Bột đường 70%
Xơ 1 – 3%
8
Béo 5%
Khoáng 1 – 2 %
Nguồn: Bùi Xuân An. 1997. Giáo trình sản xuất thức ăn gia súc nhiệt đới
Xét về mặt giá trị dinh dưỡng thì hạt bắp có hàm lượng đạm trung

bình và có 2 acid amin giới hạn là Lizin và Tryptophan, chính hai acid amin
giới hạn này làm cho giá trị sinh học của hạt giảm thấp. Hạt bắp có chứa nhiều
Caroten nhất là trong các hạt bắp vàng (5.000 UI/kg). Ngoài ra hạt bắp chứa
nhiều vitamin nhóm B cao hơn gạo như vitamin B
1
khoảng 3,8 mg/kg và B
2

1,1 mg/kg. Đồng thời 1kg hạt bắp cung cấp 2.900 kcal năng lượng trao đổi
(ME) và 90g đạm tiêu hóa. Do đó hạt bắp được dùng làm thức ăn năng lượng
cơ bản trong khẩu phần của hầu hết các loại gia súc, gia cầm.
- Thân lá:
Là thức ăn xanh có giá trị dinh dưỡng tương đối tính trên vật chất khô
(VCK), sử dụng cho gia súc nhai lại. Thân lá bắp tươi giàu chất bột đường (8 –
10%), Đạm thấp (1–1,5 %) và xơ 4–5% trung bình (Bùi Xuân An, 1997). Thân
và lá bắp có thể sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau như cho ăn tươi, ủ
chua, phơi khô nhưng hàm lượng đạm và Ca thấp khi cho bò ăn tươi và khô,
nên cần phải bổ sung thêm đạm và Ca từ thức ăn tinh khác.
Bảng 2. Thành phần hóa học (%) của thân lá bắp
Tên thức ăn
V.C.K
(DM)
Protein
thô
(CP)
Lipid
thô
(EE)

thô

(CF)
Can
xi
(Ca)
phot
pho
(P)
Cây bắp ngậm sữa - thân lá 21,40 2,50 0,70 4,40 0,09 0,07
Cây bắp non - thân lá 13,06 1,40 0,40 3,38 0,08 0,03
Cây bắp non - thân lá (đồng bằng Bắc Bộ) 13,90 1,50 0,40 3,80 0,07 0,05
Cây bắp non - thân lá (Tây Nguyên) 18,40 1,80 0,80 4,90 0,09 0,07
Cây bắp trổ cờ 15,22 1,69 0,53 4,36 0,08 0,04
Nguồn: Viện chăn nuôi. 2001.
9
Ngoài những giá trị trên, một số giống bắp dùng làm thức ăn gia súc
(thân, lá và hạt) ở Việt Nam còn có chứa một hàm lượng khoáng vi lượng
phong phú (Bảng 3).
Bảng 3. Hàm lượng khoáng vi lượng của bắp làm thức ăn gia súc ở Việt nam
Tên thức ăn
V.C.K
(g/kg)
Kẽm
(mg/kg)
Mangan
(mg/kg)
Đồng
(mg/kg)
Sắt
(mg/kg)
Cây bắp non 131 4,98 9,04 0,71 95,39

Cây bắp non - đồng bằng Bắc Bộ 139 5,87 7,77 0,56 101,22
Cây bắp non Tây Nguyên 184 6,22 15,09 1,23 -
Cây bắp trổ cờ 157 6,25 4,36 1,85 101,66
Hạt bắp nếp 883 30,29 5,92 1,85 119,47
Hạt bắp tẻ 883 31,98 6,33 7,53 239,38
Hạt bắp tẻ duyên hải miền Trung 880 45,94 4,75 6,60 -
Hạt bắp tẻ Đông Nam Bộ 902 39,06 5,77 5,86 -
Hạt bắp tẻ đồng bằng Bắc Bộ 879 25,75 5,71 12,57 412,69
Hạt bắp tẻ khu Bốn cũ 884 21,48 9,10 - 142,77
Hạt bắp tẻ miền núi Bắc Bộ 841 22,44 4,58 - 114,49
Hạt bắp tẻ Tây Nguyên 877 28,55 7,10 11,58 -
Hạt bắp tẻ trung du Bắc Bộ 854 28,25 7,39 6,60 278,69
Nguồn: Viện chăn nuôi. 2001.
2.4 Đặc điểm của một số giống bò được sử dụng tại vùng Đồng bằng sông
Cửu Long
Bò vàng địa phương là giống bò nhỏ con, năng suất thấp, nhưng thích
nghi tốt với điều kiện khí hậu địa phương, được nuôi dưỡng từ lâu đời ở vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long. Riêng tại tỉnh An Giang đàn bò thịt có lông vàng,
trắng hay xám là nhóm lai tạp giữa bò vàng địa phương với nhóm giống bò từ
Cambodia. Nông dân nuôi bò từ các huyện Tân Châu, Chợ Mới, Châu Thành
thường mua bò dẫn bộ từ biên giới Cambodia về để nuôi vỗ béo, trọng lượng
trưởng thành ở 24 tháng tuổi khoảng 200 đến 250 kg, tỷ lệ thịt xẻ khoảng 35-
45%.
Bò lai Sind thuộc nhóm bò u, có ở Việt Nam từ những năm 1920, trên
cơ sở lai bò vàng Việt Nam với bò đực Ấn Độ, dùng để cày kéo và lấy thịt,
sữa. Qua nhiều năm nhân thuần, các đặc điểm sản xuất của bò này đã ổn định.
Đàn bò lai Sind có những đặc điểm gần giống như bò Sind: đầu dài, trán dô,
10

×