Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Bình luận ý kiến “Học để biết, học để làm doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.99 KB, 20 trang )

Bình luận ý kiến “Học để biết, học để làm, học để
chung sống, học để tự khẳng định mình”.


"Học để làm gì?" là một câu hỏi không mới, nó cũ kĩ như
bản thân sự học vậy. Là câu hỏi "thường trực" của mọi
thời học!

Cũng cần khẳng định ngay rằng, khi lần đầu cắp sách đến
trường, và nhiều năm sau đó, các em học sinh đâu đã có
chút khái niệm gì về vấn đề này; mà chỉ thụ động vâng
theo sự chỉ bảo của người lớn, của cha mẹ mà thôi!



Chỉ khi thật sự lớn lên, nhiều em mới dần nhận thức ra
điều đó. Cho nên câu cửa miệng của các bậc phụ huynh
đối với con em là: "không chịu khó học, lớn lên chỉ có đi
ăn mày!". Câu ấy và những câu tương tự đã hình thành
dần trong bộ não của trẻ khái niệm "học để làm gì?".
Vâng, "học để lớn lên không phải đi ăn mày, ăn xin!". Bởi
"ăn mày, ăn xin" thì khổ như thế nào, các em nhìn thấy
hàng ngày rồi!
ậy, dù có "cao đạo" đến đâu, dù vô tình hay hữu ý, thì
thực ra người lớn đã sớm định hướng cho con trẻ "mục
tiêu" thực chất của sự học là gì rồi. Mục tiêu đó không sai,
nhất là trong thời buổi "thực dụng" này. Nhưng sai ở chỗ,
người ta cứ nói với các em: "Học để có kiến thức, để càng
ngày càng có nhiều kiến thức". Ý là "học không vì tấm
bằng"; Cần "thực học" chứ không cần "bằng cấp"!
Thương thay các em, nếu các em mà không có bằng cấp,


thì các em vào đời sao đây?



Về điểm này, tôi xin kể một chuyện, có lần con gái tôi đã
bí trước câu hỏi của cậu con trai, khi cứ than vãn về kết
quả học tập của nó: "Thế mẹ muốn con có điểm cao, hay
muốn con có kiến thức?"! Chết chưa? Còn tuổi học trò mà
lại không lấy điểm làm mục tiêu, thì làm sao mỗi năm lên
một lớp đây; làm sao thi đỗ đại học đây?



Không chỉ nhà trường, gia đình, mà ngay những nhà
tuyển dụng lao động cũng thường tuyên bố (rất hay!):
"chúng tôi cần người thực sự có kiến thức, chứ không cần
người có bằng cấp"! Nhưng thực tế thì hồ sơ hàng đầu
nộp cho cơ quan tuyển dụng, nhất định phải là cái bằng,
theo đúng nghĩa đen! Càng nhiều bằng, càng thuận lợi khi
xét tuyển. Kiến thức vẫn cứ phải đứng sau bằng cấp!



Nhưng nếu định hướng mục tiêu sự học là tấm bằng, thì
sẽ lại dẫn đến một kết cục còn bi đát hơn! Thực tế đã có
không ít trường hợp, học chỉ để đối phó với thi cử mà thôi.
Vậy là tình trạng "xin điểm", "mua điểm" không thể không
xẩy ra, không thể không phát triển. Còn bé thì cha mẹ
"mua điểm" cho, lớn lên, tự mua lấy. Học "tại chức", học
"hàm thụ" bản thân nó không xấu; nhưng càng ngày nó

càng tiêu cực, chính vì mục tiêu chính của thứ học này là
để có "bằng"; bởi có bằng mới có cơ hội "phấn đấu" lên
chức này chức nọ, lên "ông nọ, bà kia"!



Đã có nhiều phụ huynh (nhất là những vị có chức sắc), khi
con em mình học kém, không thi được vào đại học, thì
dùng cách này, cách khác, "đưa" trẻ vào cơ quan nhà
nước; làm tạm một công việc gì đó, rồi cho đi "hàm thụ".
Mấy năm sau, có bằng cấp, sẽ chạy "ghế" tiếp! Thế cho
nên một số cơ quan công quyền (đặc biệt ở cấp địa
phương), chất lượng cán bộ - không dám vơ đũa cả nắm
đâu, nhưng phải thừa nhận rằng: nhiều người rất kém cả
về chuyên môn nghiệp vụ lẫn phép ứng xử; làm ảnh
hường lớn tới công cuộc cái cách hành chính của Nhà
nước!



Tôi lại xin kể chuyện này: Lần ấy, tôi đến chính quyền
Phường xin chứng nhận vào đơn làm thẻ thư viện Tỉnh.
Đơn đã được Tổ trường dân phố và Tổ trưởng lương hưu
ký xác nhận và đề nghị theo đúng yêu cầu của cơ quan
thư viện. Anh cán bộ văn phòng sau khi xem đã thảo nội
dung chứng thực,; nhưng khi đưa lên chủ tịch, chủ tịch
không ký, với lý do: chủ tịch phường không ký những
chứng nhận như thế này! Tôi nói: giá cái thư viện này trực
thuộc Phường ta, chủ tịch nói thế thì mừng quá! Nhưng
đây lại là thư viện Tỉnh, họ làm theo quy định đã được

chính quyền Tỉnh duyệt y; Phường thấy bất hợp lý thì
phường báo cáo đề nghị lên Tỉnh, chứ Phường không có
quyền bác bỏ! Anh văn phòng nhận ra lẽ phải, nhưng có
lẽ ngại "Sếp", nên dung hòa: "thôi cụ để khi khác, chủ
tịch đang bận họp"!



Kiến thức và bằng cấp cái nào cần hơn? Câu trả lời dễ
nhất có lẽ là "cần cả hai"! Nhưng nếu lại hỏi: cái nào cần
trước? thì nhiều khi cũng khó khẳng định. Vậy đấy! Định
hướng "mục tiêu của sự học" như thế nào cho đúng Mong
rằng các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ cũng như các em
học sinh, hãy thực sự quan tâm!
Theo dantri.vn
Một đất nước muốn có những bước phát triển nhảy vọt thì
đầu tư để phát triển con người cần được xem là loại đầu
tư có giá trị hàng đầu, trong đó đầu tư cho giáo dục là loại
đầu tư có tầm chiến lược.

Nói đến xã hội hoá giáo dục đại học chúng ta phải xét đến
con số sinh viên đại học trên tổng số dân. Theo thống kê
đối chiếu do ông Hồ Anh Tuấn cung cấp (bàn tròn do
TBKTSG tổ chức vào ngày 14-5-1999) thì ở Việt Nam
hiện nay tỷ lệ đó là 32 sinh viên trên 10.000 dân. Trong khi
đó con số tương đương ở Thái Lan và Hàn Quốc đông
hơn ở Việt Nam từ 8 đến 12 lần. Xem thế ta cần phải phát
triển mạng lưới các trường đại học, công lập cũng như
dân lập, mới mong theo kịp các nước chung quanh về mặt
giáo dục đại học.


Chỉ mới đối chiếu con số sinh viên theo học đại học ở Việt
Nam và ở hai nước châu Á ta thấy thua họ quá xa. Tại
sao lại có tình trạng như vậy?

Khó khăn cho việc xã hội hoá giáo dục đại học ở nước ta
nằm ở khâu tuyển sinh đại học, không phải đậu xong tú tài
học sinh nào cũng đều được đi học đại học. Nếu đậu tú ở
các tỉnh thì các em phải tập trung về các thành phố để thi
tuyển vào đại học. Sĩ số dự thi để được tuyển vào một
trường đại học nào đó, công lập hay dân lập, thường phải
chọi từ năm đến 12 sinh viên để chọn một. Rõ ràng đây là
một rào cản rất khốc liệt cho các cô chiêu cậu tú của ngày
hôm nay, khác với những năm 1950, cứ ai đậu được tú tài
thì con đường học lên đại học, đỗ cử nhân, bác sĩ, kỹ sư
được rộng mở.

Với một rào cản rất gay gắt như thế mà đầu tư cho giáo
dục đại học công lập và dẫn lập cũng đòi hỏi một số tiền
khổng lồ. Chính vì vậy Nhà nước không nên và không thể
ôm cả trách nhiệm đầu tư này cho riêng mình vì ngân
sách còn phải chi cho nhiều chuyện khác. Nhà nước nên
để cho người Việt ở trong nước và nước ngoài, thậm chí
cả cộng đồng người nước ngoài cùng chia sẻ trách nhiệm
đầu tư này miễn là không đi ngược lại với mục tiêu Nhà
nước đề ra.

Lại xin nói về đầu ra. Nền giáo dục đại học của Việt Nam
muốn có hiệu quả thì phải có chương trình đào tạo có
chất lượng ngày một cao, nhưng chất lượng này do ai đặt

ra? Chúng ta thường quên là sản phẩm mà đại học đào
tạo - nghĩa là số sinh viên theo học cấp đại học - không
phải là để cho đại học sử dụng mà là để cho xã hội nói
chung sử dụng. Thế mà đại học không hề để ý đến phản
ứng của xã hội đối với sản phẩm mà mình đào tạo. Ở các
nước chung quanh ta, các hiệp hội ngành nghề chuyên
môn như hội ngành xây dựng, quản trị, kế toán đều có
góp ý với các trường đại học về chương trình giảng dạy
các bộ môn này ở đại học sao cho phù hợp với tình hình
thực tế ngoài xã hội. Chương trình giảng dạy được thay
đổi như thế nào để cho sinh viên khi ra trường không thấy
ngỡ ngành về ngành mà mình định xin vào. Ngành giáo
dục không còn ở trong tháp ngà xa rời với thực tế.

Chúng ta cũng có tiến hành đánh giá chất lượng đào tạo ở
đại học, nhưng đánh giá nó từ góc độ của người làm giáo
dục, người dạy ở đại học chứ chưa làm như các nước
khác. Ngay như ở Nhật, người ta đòi hỏi một sinh viên tốt
nghiệp ở nước ngoài phải theo học một khoá học của
ngành nào đó tại một trường đại học Nhật trong một thời
gian từ sau tháng đến một năm trước khi đi làm ở một
hãng Nhật trong nước. Rõ ràng nền giáo dục đại học ở
Nhật là một mắt xích trong quá trình nhất thể hoá từ giáo
dục đào tạo đến sản xuất kinh doanh. Tôi đồng ý chất
lượng đào tạo là quan trọng nhưng tôi cho rằng không
phải chỉ có ngành giáo dục đánh giá chất lượng đó mà
phải có sự đồng đánh giá của các ngành nghề chuyên
môn khác trong xã hội vì họ là người trực tiếp sử dụng
sản phẩm.


Nhận xét của tôi ở đây có liên quan đến mục tiêu giáo dục
đại học. Cách giảng dạy tại địa học của chúng ta hiện nay
là dạy cho sinh viên học để biết. Có nghĩa là dạy chuyên
về lý thuyết mà ít có thực hành, ít có đi thực tế để tìm hiểu
cách mà khu vực sản xuất và kinh doanh đang làm hiện
nay. Còn cách dạy ở các nước khác là dạy sinh viên học
để biết làm, có nghĩa là chương trình giảng dạy phải kết
hợp lý thuyết và thực tế sản xuất kinh doanh hiện có trong
xã hội, xuất phát từ việc ứng dụng lý thuyết đó vào thực
tế. Từ biết đến làm còn một khoảng cách rất xa.

Nhưng có phải là ngành giáo dục của ta không biết được
điều đó ? Thưa có biết. Biết tại sao không làm? Có nhiều
vấn đề ở đây.

Theo chúng tôi, để có được một chương trình đào tạo
thích hợp cho từng ngành nghề chuyên môn thì phải có
sự phối hợp chặt chẽ và đầy hiểu biết giữa ngành giáo
dục và ngành chuyên môn nào đó. Muốn có được sự hiểu
biết đó thì 2 ngành phải có những chuyên gia hiểu biết rõ
chuyên môn, hiểu biết rõ những nguyên tắc sư phạm, hiểu
rõ những điều cần biết về ngành đó và nhu cầu về nhân
sự của ngành đó. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có thể có sự
phối hợp như vừa nói. Bước kế tiếp sau khi lên được
chương trình giảng dạy này lại còn đòi hỏi một sự phối
hợp chặt chẽ giữa trường đại học và các cơ sở sản xuất
kinh doanh. Ở nước ta hiện nay chưa có được sự phối
hợp như vậy vì hai bên chưa hiểu nhau.
Nhưng theo thiển ý, thì việc chuyển đổi mục tiêu của giáo
dục đại học từ học để biết sang học để biết làm là một

điều cần thực hiện ngay từ bây giờ nếu chúng ta muốn
các sinh viên của chúng ta trong thời gian tới có thể sánh
vai với sinh viên của các nước khác.

×